Tải bản đầy đủ (.pdf) (312 trang)

DIỄN đàn DOANH NGHIỆP VIỆT NAM GIỮA kỳ 2014 từ chương trình tới hành động CHUẨN bị CHO các HIỆP ĐỊNH THƯƠNG mại mới hà nội 05 tháng 06 năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.45 MB, 312 trang )


DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM GIỮA KỲ 2014
























Từ Chương trình tới Hành động
CHUẨN BỊ CHO CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI MỚI












Hà Nội, 05/06/2014
MPI
MINISTRY OF PLANNING
& INVESTMENT


































Khuyến cáo

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) là một cơ chế đối thoại liên tục và chặt chẽ giữa Chính
phủ Việt Nam với cộng đồng các doanh nghiệp trong nước và quốc tế, nhằm cải thiện các điều
kiện kinh doanh cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của khối doanh nghiệp tư nhân, thuận lợi
hóa môi trường đầu tư, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế bền vững của Việt Nam.

Tài liệu này được phát hành để phục vụ Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Giữa kỳ 2014 tổ chức
vào ngày 05/06/2014.

Các kết luận và nhận định đưa ra trong tài liệu này, cũng như trong các bài thuyết trình của đại
diện các doanh nghiệp tại Diễn đàn, không thể hiện quan điểm của Hội đồng Quản trị Liên minh
VBF, của Ban Thư ký VBF, cũng như của các tổ chức đồng chủ tọa VBF bao gồm Bộ Kế hoạch và
Đầu tư Việt Nam, Ngân hàng Thế giới, và Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) - thành viên của Nhóm

Ngân hàng Thế giới. Hội đồng Quản trị VBF, Ban Thư ký VBF, và các tổ chức đồng chủ tọa VBF
không đảm bảo tính chính xác của các dữ liệu được sử dụng trong tài liệu này, cũng như trong
các bài thuyết trình nói trên, và không chịu trách nhiệm đối với các hậu quả do việc sử dụng các
dữ liệu này gây ra.

Tài liệu này không được cho thuê, bán lại hoặc phát hành cho mục đích thương mại.






Hà Nội, 0 5/06/2014

MỤC LỤC

CHƯƠNG TRÌNH NGHỊ SỰ

Chương I: TỔNG QUAN VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ
1.1. Cảm nhận của Hiệp hội Doanh nghiệp Trong nước & Nước ngoài

Chương II: ĐẦU TƯ & THƯƠNG MẠI

2.1. Báo cáo của Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại

2.2. Thuế
2.2.1. Đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với quy định miễn thuế theo Hiệp định tránh
đánh thuế hai lần
2.2.2. Báo cáo của Tiểu nhóm Thuế
2.2.3. Ý kiến đóng góp đối với Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Thuế Tiêu thụ

Đặc biệt

2.3. Khoáng sản
2.3.1. Báo cáo Nhóm Công tác Khoáng sản
2.3.2. Tóm tắt Bàn tròn thảo luận các vấn đề liên quan tới vấn đề Thuế, phí và lệ phí trong
lĩnh vực Khoáng sản ngày 30/12/2013

2.4. Lao động/Nguồn nhân lực
2.4.1. Báo cáo của Tiểu nhóm Nhân sự
2.4.2. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-CP ngày
5/9/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động
nước ngoài làm việc tại Việt Nam
2.4.3. Tóm tắt Bàn tròn thảo luận về dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 102/2013/ND-
CP ngày 5/9/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao
động nước ngoài làm việc tại Việt Nam ngày 13/1/2014

2.5. Luật Doanh nghiệp
2.5.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi)

2.6. Luật Đầu tư
2.6.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi)

2.7. Luật Phá sản
2.7.1. Tóm tắt Bàn tròn thảo luận về dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi) ngày 17/12/2013

2.8. Đất đai và Bất Động sản
2.8.1. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật Kinh doanh Bất động sản và Luật Nhà ở

Chương III: NGÂN HÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG VỐN


3.1. Ngân hàng
3.1.1. Nội dung Chương trinh thảo luận dự kiến giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và
Nhóm Công tác Ngân hàng

3.2. Thị trường vốn
3.2.1. Báo cáo của Nhóm Công tác Thị trường Vốn

Chương IV: CƠ SỞ HẠ TẦNG

4.1. Mô hình đối tác Công tư (PPP)
4.1.1. Báo cáo của Nhóm Công tác Cơ sở Hạ tầng về PPP
4.1.2. Ý kiến đóng góp đối với dự thảo Nghị định PPP
4.1.3. Tóm tắt Bàn tròn thảo luận về Nghị định PPP ngày 4/4/2014

4.2. Năng lượng
4.2.1. Báo cáo của Tiểu nhóm Năng lượng

4.3. Hạ tầng cảng và Vận tải biển
4.3.1. Báo cáo của Tiểu nhóm Hạ tầng cảng và Vận tải biển

Chương V: NÔNG NGHIỆP

5.1. Báo cáo của Nhóm Công tác Nông nghiệp

Chương VI: TOURISM

6.1. Báo cáo của Nhóm Công tác Du lịch

Chương VII: CÁC BÁO CÁO KHÁC


7.1. Báo cáo của Nhóm Công tác Công nghiệp Ô tô – Xe máy
7.2. Tóm tắt Bàn tròn thảo luận các vấn đề liên quan tới Công nghiệp ô tô, xe máy ngày
17/2/2014

Chương VIII: PHỤ LỤC

8.1. Tóm tắt Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Thường niên – Tháng 12/2013







DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP VIỆT NAM GIỮA KỲ 2014

Từ Chương trình tới Hành động – Chuẩn bị cho các Hiệp định Thương mại mới

Thời gian: 7:30 – 13:30, Ngày 5 tháng 6, 2014
Địa điểm: Khách sạn Sheraton, K5 Nghi Tàm, 11 Xuân Diệu, Hà Nội

CHƯƠNG TRÌNH DỰ KIẾN

7:00 – 8:00
Đăng ký

8:00 – 8:05

Khai mạc


1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Bộ trưởng Bùi Quang Vinh

Phần 1: Tổng quan môi trường đầu tư
8:05 – 9:00

1. Tổ chức Tài chính Quốc tế – Ông Simon Andrews, Giám đốc khu vực
2. Liên minh Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam – Bà Virginia Foote, Đồng Chủ tịch
3. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – Ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch
4. Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam – Ông Marc Townsend, Chủ tịch
5. Hiệp hội Thương mại Châu Âu tại Việt Nam – Ông Tomaso Andreatta, Phó Chủ tịch
6. Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam – Ông Kim Jung In, Chủ tịch
7. Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam – Ông Yoshihisa Maruta, Chủ tịch

Phát biểu chỉ đạo của Ngài Nguyễn Tấn Dũng - Thủ tướng Chính phủ.

Phần 2: Các vấn đề thảo luận với Chính phủ
9:00 – 9:45

1. Đầu tư & Thương mại
• Thương mại và Đầu tư – Ông Fred Burke và Ông Trần Anh Đức, Đồng Trưởng
nhóm Thương mại và Đầu tư

• Thuế và Hải quan – Ông Fred Burke, Trưởng nhóm Thương mại và Đầu tư, Bà
Hương Vũ, Trưởng tiểu Nhóm công tác Thuế và Ông Bill Howell, Trưởng nhóm
công tác Khoáng sản

• Lao động và Việc làm – Ông Collin Blackwell, Trưởng nhóm

Phản hồi từ Chính phủ
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư

- Bộ Tài chính
- Tổng cục Hải quan
- Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
- Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam

9:45 – 10:00
Nghỉ giải lao

10:00 – 10:40

2. Ngân hàng và Thị trường Vốn

Ngân hàng - Ông Sumit Dutta, Trưởng nhóm công tác Ngân hàng

• Thị trường Vốn – Ông Kiên Nguyễn, Nhóm công tác Thị trường vốn

Phản hồi từ Chính phủ
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
- Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
- Bộ Tài chính
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư

10:40 – 11:05

3. Cơ sở hạ tầng
• PPP – Ông Tony Foster, Trưởng nhóm công tác Cơ sở hạ tầng

• Năng lượng – Ông John Rockhold, Tiểu nhóm công tác Năng lượng

Phản hồi từ Chính phủ

- Bộ Kế hoạch và Đầu tư
- Bộ Công thương
- Bộ Tài chính

Phần 3: Báo cáo từ các Nhóm công tác khác
11:05 – 11:45

4. Nông nghiệp – Ông David Whitehead, Trưởng nhóm công tác Nông nghiệp

5. Du lịch – Ông Ken Atkinson, Trưởng nhóm công tác Du lịch

Phản hồi từ Chính phủ
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
- Bộ Công thương
- Bộ Khoa học Công nghệ
- Bộ Tài chính
- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

11:45 – 12:00

Bế mạc
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Bộ trưởng Bùi Quang Vinh
2. Ngân hàng Thế giới – Giám đốc Quốc gia Bà Victoria Kwakwa
3. Liên minh Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam – Đồng Chủ tịch Ông Vũ Tiến Lộc


12:00 – 13:30

Tiệc trưa









Chương I

TỔNG QUAN VỀ
MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ



PHÁT BIỂU CỦA BÀ VIRGINIA FOOTE, ĐỒNG CHỦ TỊCH
Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam
Hà Nội, ngày 5 Tháng 6 năm 2014

Kính thưa toàn thể quý vị, thưa Bộ trưởng Vinh, và đặc biệt kính thưa Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng. Chúng tôi vô cùng hân hạnh được tiếp đón Ngài Thủ tướng
Chính phủ tại Diễn đàn ngày hôm nay tại một thời điểm vô cùng quan trọng đối
với cộng đồng doanh nghiệp.

Tôi tin tưởng rằng tất cả mọi người tại Diễn đàn ngày hôm nay đều thể hiện sự
tôn trọng và niềm tự hào đối với những thành tựu Việt Nam đã đạt được trong
20 năm trở lại đây. Chúng tôi hi vọng rằng thông qua Diễn đàn Doanh nghiệp Việt
Nam và các thành viên của Diễn đàn là các phòng thương mại, hiệp hội doanh
nghiệp trong nước và nước ngoài cùng 11 nhóm công tác trực thuộc Diễn đàn,
những cuộc đối thoại mang tính xây dựng và liên tục đã được thiết lập để thảo
luận những lĩnh vực và các giải pháp cần làm để đem đến thành công trong

tương lai của Việt Nam. Tất cả chúng ta đều vô cùng đau buồn bởi các sự kiện
đáng tiếc xảy ra giữa tháng Năm vừa qua; vì vậy, sự hiện diện của Ngài Thủ
tướng Chính phủ cùng các đại diện của các bộ ngành liên quan tại Diễn đàn ngày
hôm nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp.

Hôm nay chúng ta hy vọng sẽ làm nổi bật một số vấn đề phát sinh sau sự kiện
đáng tiếc tháng Năm vừa qua và các đồng nghiệp của tôi đến từ Hàn Quốc, Nhật
Bản và Đài Loan sẽ bày tỏ những ý kiến và đề xuất cụ thể liên quan đến vấn đề
này. Xin thay mặt đại biểu trong khán phòng ngày hôm nay, tôi xin được khẳng
định rằng chúng tôi luôn hỗ trợ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam và vai trò của
tăng trưởng kinh tế trong chuỗi cung ứng toàn cầu với mức độ phức tạp ngày
càng cao - tất cả chúng ta đang làm việc và cùng tin tưởng vào con người cũng
như công nghệ từ Việt Nam và nhiều quốc gia để góp phần phát triển hoạt động
kinh doanh, du lịch, và chuỗi cung ứng hiệu quả.

Chúng tôi hoan nghênh các hành động của Chính phủ sau sự kiện đáng tiếc vừa
qua và tin tưởng rằng Việt Nam sẽ có các biện pháp xử lý, khắc phục hậu quả
một cách minh bạch, hợp lý và chuyên nghiệp. Một ủy ban thực hiện các biện
pháp bồi thường, khắc phục sự cố với sự góp mặt của quốc tế và tuân theo các
tiêu chuẩn toàn cầu sẽ có thể có tác động tích cực to lớn và nâng cao đến hình
ảnh và danh tiếng của Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. Chúng tôi luôn sẵn
sàng hỗ trợ Chính phủ khi có yêu cầu.
Trang 1/4



Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, việc quyết định có đặt cơ quan thường trực,
tiến hành hoạt động kinh doanh hay không thường được thực hiện bởi trụ sở
chính ở nước ngoài sau khi xem xét các yếu tố, vấn đề cơ bản như tính ổn định,
môi trường kinh doanh thân thiện, nguồn nhân lực tại địa phương, khung pháp

lý, các hệ thống cơ sở hạ tầng cứng và mềm và chi phí tổng thể. Một số vấn đề
Việt Nam làm tốt hơn so với những quốc gia khác - nhưng tất cả những vấn đề
này gộp lại chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tương lai của tất cả chúng ta.

VBF hy vọng có thể tập trung vào việc Việt Nam cần tiến hành các bước từ đâu
để đảm bảo sẵn sàng cho một số Hiệp định thương mại hiện đang được đàm
phán. Trong khi tôi đang tham gia vào đàm phán Hiệp định TPP, một số hiệp định
khác như EU-FTA, RCEP và việc thực hiện các hiệp định thương mại dự do ASEAN
cũng mang lại cho nền kinh tế cũng như người dân Việt Nam rất nhiều cơ hội
tiềm năng.

Những hiệp định này có thể hỗ trợ việc giảm hàng rào thuế quan khi tiếp cận thị
trường trong các lĩnh vực may mặc, giày dép, nông nghiệp và các mặt hàng xuất
khẩu khác của Việt Nam. Và các hiệp định này cũng kêu gọi việc tiếp cận thị
trường trong các lĩnh vực khác như mua sắm và các dịch vụ chính phủ đồng thời
đưa ra những tiêu chuẩn mới cho việc liên kết các quy định, khung pháp luật cho
các doanh nghiệp nhà nước, NCMs, quyền công nhân, bảo vệ một trường và
quyền sở hữu trí tuệ. Những hiệp định này sẽ đòi hỏi các quy định của pháp luật
phải ở mức độ tiêu chuẩn cao.

Tuy nhiên, một số cơ sở hạ tầng cơ bản vẫn chưa sẵn sàng. Chúng ta đều có mối
lo ngại về bẫy thu nhập trung bình có thể xảy ra cho Việt Nam – nơi mà mặc dù
việc cải tổ có thể được thực hiện một cách dễ dàng nhưng một số thành phần cơ
bản của nền kinh tế thị trường thì không. Đối với Việt Nam, những lĩnh vực gặp
phải khó khăn này rất rõ ràng:

Đối với cơ sở hạ tầng mềm, chúng tôi lo ngại tham nhũng hiện đang là một vấn
đề nan giải mà các hiệp định thương mại không thể khắc phục được nhưng lại là
một cái nhìn khái quát ảnh hướng đến nền kinh tế và danh tiếng của Việt Nam.
Nền kinh tế hiện tại vẫn phụ thuộc quá nhiều vào tiền mặt. Một nền kinh tế mà

một số lượng lớn các giao dịch được thực hiện bằng tiền mặt, các khoản phí và
tiền phạt nộp cho chính phủ được thu bằng tiền mặt chính tạo điều kiện cho
tham nhũng hoặc trì trệ và đôi khi là cả hai. Cần có một hệ thống để thực hiện
các công việc thu phí hạ tầng, các khoản thuế và phí hải quan theo luật để từ đó
các khoản tiền phải nộp và việc thanh toán được thực hiện một cách minh bạch
và được đánh giá thống nhất.

Nhiều quốc gia hiện đang phải đối mặt với các vấn đề này và Dự án VBF 12 mới
được thành lập hi vọng sẽ phối hợp tích cực với VCCI và các cơ quan chính phủ
nhằm hỗ trợ việc triển khai hệ thống chống tham nhũng đã được thực hiện hiệu
quả trên toàn cầu này.

Trang 2/4


Một vài khó khăn cơ sở khác mà VBF đang làm cùng với chính phủ - nói chung –
là các quyết định của chính phủ thường rất chậm, thủ tục rất phức tạp và thường
nặng nề với số lượng các văn phòng liên quan, các quy định và pháp luật không
được thực thi thống nhất, và các tòa án yếu kém. Chúng tôi đang tìm cách để giải
quyết những vấn đề này để cho phép tất cả các công ty cạnh tranh trên giá trị
của họ - bao gồm cả tiếp cận nguồn vốn, đất đai và các cơ hội khác.

Một khó khăn khác liên quan đến cơ sở hạ tầng mềm mà VBF đang phối hợp với
các cơ quan của Chính phủ, nhìn chung, là việc các quyết định của Chính phủ
thường được đưa ra chưa kịp thời, các thủ tục thường phức tạp, nặng nề với sự
tham gia của nhiều cán bộ, các quy định pháp luật không thống nhất với nhau và
tính thực thi của tòa án còn chưa hiệu quả. Chúng tôi hi vọng rằng các giải pháp
để giải quyết các vấn đề này là cho phép tất cả các doanh nghiệp được cạnh
tranh dựa trên năng lực của mình – bao gồm cả khả năng tiếp cận vốn, đất đai và
các cơ hội khác.


Số lượng quy định trong một số lĩnh vực đã có sự gia tăng dẫn tới một số khó
khăn cho khu vực tư nhân và các thị trường trong các lĩnh vực như công nghệ
thông tin và thương mại điện tử, kiểm soát giá cả, giấy phép lao động, và về các
rào cản nói chung. Chúng tôi hy vọng rằng những giải pháp để cho phép và tạo
điều kiện sẽ được tập trung trong các chính sách của chính phủ, hơn là áp dung
các biện pháp hạn chế. Điều này có thể giúp chuẩn bị sẵn sàng cho các Hiệp định
Thương mại mới, và đưa khuôn khổ pháp lý của Việt Nam tiệm cận hơn với
khung quy định của các quốc gia thành công khác.

Chúng tôi cũng xin nhấn mạnh cải cách hệ thống giáo dục là một trong những ưu
tiên trọng tâm hàng đầu. Nhóm Công tác Giáo dục của chúng tôi xin được đề
xuất thời gian phê duyệt các dự án có vốn đầu tư nước ngoài hoặc vốn đầu tư tư
nhân trong lĩnh vực giáo dục được nhanh chóng hơn để Việt Nam có thể phát
triển một đội ngũ chất lượng cao các doanh nhân, nhà quản lý, kỹ sư, kỹ thuật
viên và các lao động ở các ngành nghề cần thiết khác. Chúng tôi kính đề nghị các
đơn vị công đoàn tăng cường các chương trình giáo dục và đào tạo để nâng cao
kỹ năng của lao động đang được tuyển dụng.

Đối với cơ sở hạ tầng cứng quan trọng, chúng tôi đang quan tâm đến thời gian
cần để phê duyệt các dự án cơ sở hạ tầng. Như trong lĩnh vực năng lượng, với
trọng tâm dường như thiên về tập trung vào kế hoạch tổng thể dài hạn trong khi
nhiều nguồn nhiên liệu trong nước chưa được khai thác. Chúng tôi hy vọng rằng
sau khi các cuộc thảo luận, một hệ thống PPP hiệu quả sẽ được thông qua sớm.
Ngoài ra, cơ sở hạ tầng hiệu quả hơn trong giao thông vận tải sẽ góp phần
khuyến khích lĩnh vực kinh doanh và du lịch.

VBF tiếp tục cam kết hợp tác với các đối tác của chúng tôi từ phía Chính phủ để
giúp giải quyết các vấn đề tồn tại, và tạo dựng một môi trường kinh doanh hấp
dẫn, minh bạch và ổn định hơn. Các hiệp định thương mại mới đem lại những cơ

Trang 3/4

hội, nhưng sự chuẩn bị thực sự phụ thuộc vào chúng ta để có thể chuẩn bị tốt
nhằm phát huy tối đa các tiềm năng.

Chúng tôi một lần nữa xin chân thành cảm ơn Thủ tướng Chính phủ và các Bộ
trưởng, Thứ trưởng và đại diện các Bộ, ngành liên quan, đại diện của các phái
đoàn ngoại giao và cộng đồng các nhà tài trợ, và các doanh nghiệp tham dự hôm
nay. Chúng tôi cũng xin bày tỏ lời cảm ơn trân trọng tới sự hỗ trợ tích cực của Bộ
trưởng Vinh đối với Diễn đàn, sự hỗ trợ của Tiến sĩ Lộc trong tăng cường quan hệ
đối tác của chúng tôi với VCCI , và chúng tôi xin được gửi lời chúc tốt đẹp đến tất
cả các đại biểu tham dự đã góp phần thành công cho Diễn đàn ngày hôm nay.

Phụ lục

I. Các Phòng Thương mại và Hiệp hội Doanh nghiệp tham gia Liên minh
Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam:

Thành viên Liên minh:

1. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)
2. Hiệp hội Doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham Vietnam)
3. Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu tại Việt Nam (EuroCham Vietnam)
4. Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam (KorCham Vietnam)

Thành viên Liên kết:

5. Hiệp hội Doanh nghiệp Úc tại Việt Nam (AusCham Vietnam)
6. Hiệp hội các Doanh nghiệp Anh Quốc tại Việt Nam (BBGV)
7. Hiệp hội Doanh nghiệp Canada tại Việt Nam (CanCham)

8. Hiệp hội Doanh Nghiệp Trung Quốc tại thành phố Hồ Chí Minh (CBAH)
9. Hiệp hội Doanh nghiệp HongKong tại Việt Nam (HKBAV)
10. Hiệp hội Doanh nghiệp Ấn Độ tại Việt Nam (InCham Vietnam)
11. Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam (JBAV)
12. Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại thành phố Hồ Chí Minh (JBAH)
13. Hiệp hội Doanh nghiệp Bắc Âu tại Việt Nam (NordCham Vietnam)
14. Hiệp hội Doanh nghiệp Singapore (SBG)
15. Hiệp hội Doanh nghiệp Thụy Sĩ (SBA)
16. Hiệp hội Doanh nghiệp Đài Loan (TCC)

II. Các nhóm công tác của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt nam:

- Nhóm Công tác Nông nghiệp
- Nhóm Công tác Công nghiệp Ô tô & Xe máy
- Nhóm Công tác Ngân hàng
- Nhóm Công tác Thị trường Vốn
- Nhóm Công tác Hải quan
- Nhóm Công tác Giáo dục & Đào tạo
- Nhóm Công tác Quản trị Doanh nghiệp & Minh bạch
- Nhóm Công tác Đầu tư và Thương mại
- Nhóm Công tác Cơ sở Hạ tầng
- Nhóm Công tác Khoáng sản
- Nhóm Công tác Du lịch
Trang 4/4

PHÒNG THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM (VCCI)

ĐỀ CƯƠNG PHÁT BIỂU
Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Giữa kỳ 2014
Hà Nội, Ngày 05/06/2014

Trình bày
Ông Vũ Tiến Lộc
Chủ tịch

Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam giữa kỳ năm nay diễn ra trong bối cảnh tương đối đặc biệt.

Thứ nhất,Việt Nam đứng trước ngưỡng cửa của nhiều hiệp định thương mại tự do quan trọng
(FTA), trong đó đặc biệt là hai FTA với các đối tác lớn nhất thế giới là Hiệp định Đối tác Xuyên
Thái Bình Dương (TPP) đang đi vào giai đoạn cuối và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU
(EVFTA) dự kiến kết thúc đàm phán trong tháng 10/2014. Việc Chính phủ và doanh nghiệp Việt
Nam cần chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận các cơ hội cũng như vượt qua các thách thức từ các
FTAs này được đặt ra ở thời điểm này cấp bách hơn bao giờ hết.

Thứ hai, sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, đồng thời đe dọa trực tiếp tới
hoạt động hàng hải, thương mại quốc tế và gây mất an ninh, phá vỡ sự ổn định tại Biển Đông và
trong khu vực. Hành động phi pháp này của Trung Quốc có tác động đáng kể tới quan hệ
thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc. Do vậy từ góc độ kinh tế, Việt Nam đang đứng trước
những đòi hỏi mới trong việc duy trì quan hệ thương mại ổn định với Trung Quốc, đồng thời
tăng cường các biện pháp hạn chế sự phụ thuộc quá lớn vào thị trường này. Tận dụng cơ hội từ
các hiệp định FTAs đầy triển vọng nói trên có thể là một cách thức hiệu quả nhằm đạt được
mục tiêu này.

Sự kiện Trung Quốc xâm phạm vùng biển Việt Nam cũng dẫn tới một sự việc đáng tiếc: lợi dụng
các hoạt động tuần hành biểu thị lòng yêu nước của người dân trước hành động trái pháp luật
của Trung Quốc, trong hai ngày 13 và 14/5/2014, tại Bình Dương, Đồng Nai và Hà Tĩnh, một số
đối tượng quá khích đã có những hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng tới trật tự an ninh xã
hội, gây thiệt hại cho nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), đặc biệt các doanh
nghiệp Trung Quốc, Đài Loan… Sự việc đáng tiếc này ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh đất nước
và môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư quốc tế và vì vậy đòi

hỏi Chính phủ cần nhanh chóng có hành động khôi phục niềm tin của nhà đầu tư đối với môi
trường đầu tư Việt Nam.

Trong bối cảnh này,để hỗ trợ doanh nghiệp trong thời gian tới, chúng tôi đề nghị Chính phủ cần
tiến hành các giải pháp sau đây:

Thứ nhất về giải pháp để các FTAs đang đàm phán, đặc biệt là TPP và EVFTA, có thể mang lại lợi
ích tốt nhất cho doanh nghiệp và nền kinh tế, đặc biệt là trong hạn chế sự phụ thuộc quá lớn
vào thương mại với Trung Quốc.

Trang 1/3
Lợi ích mà các FTAs Chính phủ đang đàm phán có thể mang lại cho các doanh nghiệp phụ thuộc
vào ít nhất hai yếu tố: (i) kết quả đàm phán có lợi cho doanh nghiệp hay không (doanh nghiệp
có cơ hội để tiếp cận thị trường đối tác ở điều kiện ưu tiên nhất có thể không, đồng thời việc
mở cửa nền kinh tế có tạo ra cho doanh nghiệp cơ hội tiếp nhận tốt nhất nguồn nguyên vật
liệu, máy móc công nghệ, vốn đầu tư tốt nhất không) và (ii) doanh nghiệp có được điều kiện tốt
nhất trong thực thi các FTAs để tận dụng tốt nhất các lợi ích hay không (điều kiện để tận dụng
các cơ hội mà các FTAs tạo ra cũng như vượt qua/khắc phục các thách thức mà các FTAs này
mang lại).

Do đó, chúng tôi mong muốn Chính phủ tập trung chú ý tới các vấn đề sau:

Liên quan tới quá trình đàm phán các FTAs: Một là có phương án đàm phán mềm dẻo nhưng
kiên quyết về các lợi ích xuất khẩu của doanh nghiệp, bao gồm các vấn đề về ưu đãi thuế quan,
quy tắc xuất xứ phù hợp với cơ cấu, phương thức sản xuất trong tương lai gần của Việt Nam;
các hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), vệ sinh dịch tễ (SPS) hợp lý, khoa học và không bị
lạm dụng…; trong đó đặc biệt chú trọng đàm phán các cơ chế tiếp cận thị trường cho nông sản,
nhằm đa dạng hóa thị trường đối với sản phẩm nhạy cảm và hiện đang phụ thuộc rất lớn vào
thị trường Trung Quốc. Hai là có phương án đàm phán tích cực và mạnh dạn hơn trong mở cửa
thị trường Việt Nam cho hàng hóa là máy móc, thiết bị, công nghệ, nguyên vật liệu, phương tiện

và các sản phẩm tương tự khác mà Việt Nam đã bảo hộ lâu nay nhưng không đạt hiệu quả hoặc
hiện đang phụ thuộc lớn vào nguồn cung từ các nước không tham gia đàm phán. Ba là có cách
tiếp cận mở trong các nội dung đàm phán về mua sắm Chính phủ, quy tắc cạnh tranh, từ đó tạo
điều kiện cho việc tăng cường cạnh tranh, minh bạch hóa và thay đổi thị phần giữa các nhà thầu
quốc tế ở thị trường Việt Nam. Bốn là có quan điểm đàm phán thận trọng và cứng rắn trong các
vấn đề có thể có ảnh hưởng lớn tới người lao động, nông dân và sản xuất nông nghiệp như bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thuốc, nông hóa phẩm, lao động. Năm là chú trọng bảo lưu các
không gian chính sách cần thiết để Chính phủ có thể hành động vì các lợi ích công cộng hoặc
định hướng cơ cấu kinh tế trong các đàm phán về đầu tư, giải quyết tranh chấp.

Liên quan tới việc chuẩn bị cho thực thi các FTAs: Một là xây dựng cơ chế để tư vấn, hướng dẫn
doanh nghiệp về các nội dung cam kết thương mại thông qua (i) một đầu mối cụ thể cung cấp
các thông tin cơ bản, cập nhật về tất cả các nội dung liên quan tới các FTAs; (ii) một đơn vị có
chức năng hướng dẫn, diễn giải và tư vấn cho doanh nghiệp trong quá trình thực thi các FTAs
tránh trường hợp doanh nghiệp không biết tiếp cận cơ quan nào để biết một cam kết có ý nghĩa
gì, thực hiện như thế nào hoặc nếu có cách hiểu khác biệt giữa các cơ quan thực thi thì làm như
thế nào; (iii) Cử các cán bộ có hiểu biết sâu sắc về các cam kết trong từng lĩnh vực phối hợp với
VCCI và các hiệp hội tổ chức tuyên truyền, đào tạo phổ biến với các nội dung chi tiết, thực chất
cho những nhóm doanh nghiệp cụ thể về những tác động cụ thể của cam kết tới hoạt động của
họ và hướng dẫn cách thức thực hiện hiệu quả nhất. Hai là có các biện pháp nhằm tăng cường
sự tham gia của doanh nghiệp, hiệp hội vào các quá trình thực thi FTAs của các cơ quan Chính
phủ, đặc biệt là quá trình nội luật hóa các cam kết trong FTAs. Ba là đẩy mạnh chuyển giao các
dịch vụ công từ Nhà nước sang các hiệp hội doanh nghiệp, đặc biệt liên quan tới các dịch vụ
nhằm kiểm soát, đáp ứng các rào cản TBT, SPS ở thị trường xuất khẩu (cấp chứng chỉ, kiểm soát
chất lượng ). Bốn là hiện thực hóa các cơ chế mà qua đó Chính phủ có thể bảo vệ các lợi ích
hợp pháp của doanh nghiệp ở nước ngoài theo các phương thức được dự liệu trong các FTAs.

Thứ hai, về giải pháp để giải quyết nhanh chóng, hiệu quả sự việc đáng tiếc ngày 13-14/5/2014,
khôi phục lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào môi trường đầu tư Việt Nam.


Trang 2/3
Sự việc đáng tiếc ngày 13-14/5/2014 vừa qua đã gây thiệt hại cho một số doanh nghiệp FDI cả
về cơ sở vật chất và tinh thần, ảnh hưởng đáng kể tới hình ảnh một điểm đến thân thiện, ổn
định và an toàn cho đầu tư mà Việt Nam đã tạo dựng thành công trong mắt các nhà đầu tư
nước ngoài nhiều năm qua.

Các doanh nghiệp bị thiệt hại đều mong muốn mau chóng vượt qua hậu quả sự cố, ổn định lại
sản xuất, tiếp tục gắn bó với Việt Nam thông qua các hoạt động đầu tư ổn định, an toàn tại Việt
Nam.

Chúng tôi cũng đánh giá cao sự vào cuộc nhanh chóng, quyết liệt của Chính phủ trong việc xử lý
hậu quả của sự việc đáng tiếc trên, đặc biệt là việc tiếp thu các đề xuất của chúng tôi về việc
thành lập một Tổ chuyên trách tại mỗi tỉnh, Khu công nghiệp/kinh tế nơi xảy ra sự cố cũng như
tập trung khảo sát và giải quyết các vướng mắc, khó khăn của doanh nghiệp phát sinh từ sự việc
này, nhất là các vấn đề liên quan tới lao động (lương, giấy phép lao động ), bảo hiểm (thủ tục
xác nhận tổn thất, tạm ứng bồi thường ), thuế, thủ tục hải quan (xuất khẩu các lô hàng bị ảnh
hưởng, nhập khẩu máy móc thiết bị thay thế ), an ninh trật tự (xử lý các đối tượng phá hoại,
tìm kiếm tài sản bị mất của doanh nghiệp ).

Chúng tôi đề nghị Chính phủ (i) Một là tiếp tục xử lý dứt điểm, triệt để các vấn đề phát sinh từ
sự cố, đặc biệt là những vấn đề có thể chỉ phát sinh/nhận thấy sau này (ví dụ từ các thiệt hại về
cơ sở dữ liệu của doanh nghiệp); (ii) Hai là có biện pháp rút kinh nghiệm để các sự việc tương
tự không xảy ra trong tương lai đồng thời có kế hoạch phòng ngừa, ứng phó nhanh chóng và
hiệu quả hơn trước các sự việc có thể gây thiệt hại cho doanh nghiệp.

Thứ ba, về việc triển khai mạnh mẽ các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tiếp tục khẳng định sự ổn định, thân thiện và
hấp dẫn của Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư trong nước và quốc tế.

Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt đánh giá cao những nỗ lực của Chính phủ trong việc

ban hành Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải
thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và Chỉ thị số 11/CT-TTg
của Thủ tướng Chính phủ ngày 21/5/2014 về giải quyết khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, thúc
đẩy phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nghị quyết 19 và Chỉ thị 11 đã xác định
mục tiêu rõ ràng trong từng giai đoạn, gắn với các chuẩn mực quốc tế, đưa ra những nhiệm vụ,
giải pháp cụ thể gắn với trách nhiệm của từng bộ ngành, địa phương, nhấn mạnh các biện pháp
giải quyết các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp, triển khai đồng bộ các hoạt động hỗ trợ
phát triển doanh nghiệp cũng như chuyển giao một số dịch vụ công cho hiệp hội.

Để Nghị quyết và Chỉ thị quan trọng này có thể phát huy hiệu quả trên thực tiễn, chúng tôi đề
nghị Chính phủ: (i) thường xuyên chỉ đạo các bộ ngành, địa phương kiểm tra, giám sát tiến độ
và kết quả thực hiện Chương trình hành động, chương trình công tác đã đề ra của các bộ, cơ
quan, địa phương về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, giải quyết
khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp, tăng cường hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, chuyển
giao một số dịch vụ công cho VCCI ; (ii) Công bố công khai các kết quả thực hiện Chương trình
hành động, Chương trình công tác này của Chính phủ, của Bộ, cơ quan, địa phương; (iii) Huy
động sự tham gia và đề xuất sáng kiến của các hiệp hội doanh nghiệp trong việc giám sát, phối
hợp và đánh giá hiệu quả việc thực hiện các Chương trình hành động, Chương trình công tác
này của Chính phủ, của Bộ, cơ quan, địa phương./
Trang 3/3


PHÁT BIỂU CỦA HIỆP HỘI THƯƠNG MẠI MỸ TẠI VIỆT NAM
Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Giữa kỳ 2014
Thứ Năm, Ngày 05 Tháng 06 năm 2014
Trình bày bởi
Ông Marc Townsend
Chủ tịch
Kính thưa
Thủ tướng Chính phủ,

Các vị Bộ trưởng
Lãnh đạo Doanh nghiệp
Các vị Đại biểu
Cùng toàn thể Quý vị,

Tôi rất vui mừng được tham dự cuộc họp quan trọng của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam với chủ đề
“Từ Chương trình tới Hành động – Chuẩn bị cho các Hiệp định Thương mại mới.”

Như những gì diễn ra tại Hội nghị của Thủ tướng Chính phủ đối thoại với Cộng đồng Doanh nghiệp được
Văn phòng Chính phủ tổ chức vào ngày 28 tháng 04, có một sự tách biệt trong nền kinh tế của Việt Nam
giữa khu vực nội địa và khu vực nước ngoài: tuy nhiên những vấn đề của nền kinh tế tác động tới tất cả
các khu vực. Chúng tôi hy vọng là trong quá trình chuẩn bị tham gia các Hiệp định Thương mại Tự do
mới, các vấn đề này sẽ được giải quyết hiệu quả.

Năm 2013, các công ty hội viên AmCham rất vui với tình hình giao thương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ tăng
khoảng 20%, đạt 29.7 tỷ đô la Mỹ. Thương mại song phương trong ba tháng đầu năm nay đã tăng 14%.
Nếu xu hướng hiện nay được tiếp tục duy trì, thương mại song phương về hàng hóa có thể đạt 60.2 tỷ
đô la Mỹ vào năm 2020, và có thể lên đến gần 70 tỷ đô la Mỹ năm 2020 nếu có TPP. Đồng thời, doanh
thu của các công ty hội viên AmCham và đối tác trong thị trường nội địa cũng tiếp tục tăng trưởng


2004
208
2012
2013
2014
2016
2020
VN nhập khẩu từ Hoa Kỳ
$1.2

$2.8
$4.6
$5.0
$5.4
$6.1
$7.7
VN xuất khẩu vào Hoa Kỳ
$5.3
$12.9
$20.3
$24.6
$28.4
$36.4
$52.5
Tổng cộng
$6.4
$15.7
$24.9
$29.7
$33.8
$42.6
$60.2
VN Dệt may xuất khẩu vào Hoa Kỳ
$2.7
$5.4
$7.7
$8.8
$9.4
$11.0
$14.0

Nguồn: BộThương mại Hoa Kỳ
Tầm quan trọng của TPP:

Hiệp định Đối tác Chiến lược Xuyên Thái BìnhDương (TPP) đem đến một cơ hội mới cho Việt Nam đổi
mới mô hình tăng trưởng của đất nước và đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội.

Trang 1/4
TPP sẽ mang đến một hướng phát triển tốt cho nền kinh tếViệt Nam: TPP sẽ giúp tăng 28,4% GDP của
Việt Nam trong năm 2025 so với mức tăng khi không có sự hỗ trợ từTPP, đồng thời gia tăng 35,7% xuất
khẩu của Việt Nam.
1


AmCham tin tưởng rằng TPP và các Hiệp định Thương mại khác sẽ đem lại nhiều cơ hội mới hỗ trợ chiến
lược phát triển của Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa. Các Hiệp định
này có thể hỗ trợ quá trình gỡ bỏ các rào cản thương mại trong các lĩnh vực như tiếp cận thị trưởng và
mua sắm chính phủ. Đồng thời quá trình này cũng giúp phát triển các chuẩn mực mới trong hệ thống
quy định chặt chẽ, quyền của người lao động, bảo vệ môi trường và quyền sở hữu trí tuệ.

Tuy nhiên, để chuẩn bị cho TPP và các hiệp định thương mại khác, chúng ta cần lưu ý đến một số yếu tố
sau:

Vấn đề tham nhũng
Vấn đề tham nhũng là vấn đề làm ăn mòn và phổ biến ở Việt Nam và có tác động tiêu cực tới nền kinh tế
và xã hội nói chung. Trong khi Chính phủ đã có một số hành động cụ thể, đây là thời điểm thích hợp để
triển khai việc phòng chống tham nhũng trên quy mô rộng hơn thông qua việc áp dụng các hệ thống
giảm thiểu các cơ hội cho các khoản chi trả không hợp pháp gắn với thực hiện một đạo luật tương tự
như Đạo Luật Chống Tham Nhũng Tại Nước Ngoài của Hoa Kỳ (FCPA) hoặc Đạo Luật Chống Hối Lộ của
Anh Quốc. Một bước tiến đáng kể là thực hiện các hành động hạn chế tối đa việc sử dụng phương thức
thanh toán tiền mặt và tăng cường sử dụng thương mại điện tử.


Thực hiện thiếu mạnh mẽ các cam kết WTO, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư và dịch vụ, đã gây khó khăn
trong việc đạt được lợi ích từ những hiệu quả của các lĩnh vực then chốt. Đây là thời điểm cần đảm bảo
các cam kết WTO được thực hiện đúng thời hạn, và với tinh thần tạo dựng một môi trường kinh tế cạnh
tranh và hiệu quả - đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư và dịch vụ.

Thiếu hụt cơ sở hạ tầng, cụ thể là năng lượng và giao thông vận tải, đã cản trở dòng vốn FDI. Đây là,
hoặc nên là vấn đề quốc gia và cần được giải quyết ở tầm quốc gia với mô hình đối tác công – tư và các
mô hình đối tác khác được thực hiện nhanh chóng.

Việc thiếu lực lượng lao động có tay nghề cao đã cản trở việc phát triển dây chuyền sản xuất ngay cả
khi chi phí lao động đang trên đà tăng cao. Các công ty hội viên AmCham đã đi đầu phát triển một lực
lượng lao động có tay nghề gồm những kỹ sư và kỹ thuật sản xuất. Các công ty trong và ngoài nước đã
cung cấp các chương trình giáo dục và đào tạo nhưng vấn đề cấp bách là Việt Nam đổi mới và nâng cấp
chương trình giảng dạy quốc gia, đặc biệt là ở cấp giáo dục đại học và dạy nghề. Một ví dụ thành công và
sự phát triển của Chương Trình Hợp Tác Đào Tạo Kỹ Sư (HEEAP). Hợp tác với các trường đại học và cao
đẳng dạy nghề hàng đầu Việt Nam, cùng với Bộ Giáo dục và Đào tạo, và Bộ Lao động, Thương binh và Xã
hội, hợp tác công tư đã được thiết lập, Chương trình Hợp tác Đào tạo Kỹ Sư trong ba năm qua, 2010-
2012.Giờ đây,với những chương trình như HEEAP2.0 trong năm năm từ 2013 - 2017, một quỹ PPP 40
triệu đô la Mỹ được đồng tài trợ của chính phủ,với ngành công nghiệp và các học viện,sẽ đảm bảo rằng
vào năm 2017, "Việt Nam sẽ đào tạo được kỹ sư giỏi có thể cạnh tranh với bất kỳ khu vực nào trên thế
giới.”
2


Thiếu hụt sự phối hợp giữa nhà nước và doanh nghiệp trong việc cải tiến khu vực nội địa, chúng tôi
kiến nghị Doanh nghiệp nhà nước cần được tái cơ cấu và được quản lý với tính minh bạch và trách
nhiệm. Họ phải hoạt động trên một "sân chơi bình đẳng" với các doanh nghiệp khu vực tư nhân, cả
doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp FDI. Cần phải có sự đối xử công bằng trong việc tiếp cận vốn,
đất đai, v.v.

1
Petri-TPP-Vietnam-24mar13-v2-
web.pdf, pg 13
2
What will HEEAP 2.0 achieve in 5 years?” Presentation by Intel Products Vietnam at the “Higher Engineering
Education Conference,” in Can Tho, Mar 19-20, 2013, pg 15
Trang 2/4


Đã có một số tiến triển trong việc triển khai các cải cách trong lĩnh vực ngân hàng và tài chính; tuy nhiên
cần có nhiều hành động nhanh chóng để giúp phát triển hệ thống kinh tế hiệu quả.

Những vấn đề trên không thể giải quyết một cách dễ dàng, nhanh chóng và ít tốn kém. Tuy nhiên, việc
thực hiện các giải pháp sẽ giúp tăng cường niềm tin của nhà đầu tư, giúp Việt Nam duy trì hình ảnh của
một điểm đến cạnh tranh và hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài, và sẽ giúp đổi mới mô hình tăng trưởng
của đất nước.

Kết luận

Tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam giữa năm 2013, AmCham đã đề nghị "một bước mới của quá trình
cải cách, mang tên Đổi Mới 2, để khuyến khích hơn nữa các doanh nghiệp tư nhân; thúc đẩy thương mại
và đầu tư thông qua các sáng kiến nhưTPP; thúc đẩy tuân thủ pháp lý và tái cấu trúc doanh nghiệp nhà
nước," và cho phép và tạo điều kiện chứ không phải là “hạn chế” kinh doanh.

Chúng tôi rất vui mừng với thông điệp năm mới của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng 2014
3
và Nghị quyết
19 của Chính phủ được công bố vào ngày18 tháng 3 năm 2014
4
cho thấy sự cần thiết của việc thay đổi.


Chúng tôi mong muốn môi trường kinh doanh minh bạch nơi sự tương tác giữa cơ quan nhà nước, giữa
bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội phải được tăng cường. Đối thoại với người dân và
doanh nghiệp phải được mở rộng dưới nhiều hình thức để thúc đẩy mối quan hệ gần gũi hơn giữa Nhà
nước, cán bộ, công chức, người dân và chính sách và pháp luật phù hợp hơn với thực tế.
5
Và cơ quan
chính phủ cần có chỉ số đo lường hiệu quả công việc (KPIs), chẳng hạn số ngày cấp giấy phép, số giờ để
hoàn thành quyết toán thuế, số ngày để thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu, để đo lường và tăng
cường hiệu quả tương tác với nhân dân và doanh nghiệp.

Một số vấn đề trước mắt sẽ được đề cập bởi các nhóm công tác khác và chúng tôi hy vọng được thấy
các hành động thành công và tích cực để giải quyết các vấn đề này.

AmCham sẽ tiếp tục đóng vai trò đóng góp hiệu quả, phối hợp xác định và thực hiện các giải pháp, và là
một chủ thể ủng hộ tích cực cho một môi trường kinh doanh tốt hơn tại Việt Nam. Rất nhiều công việc
cần được triển khai. Chúng tôi muốn Việt Nam thành công và AmCham giữ vững cam kết phối hợp với
các đối tác Chính phủ để giải quyết các vấn đề, triển khai hoạt động chuẩn bị cho Việt Nam trở thành
thành viên của các Hiệp định Thương mại mới, và tạo dựng một môi trường kinh doanh ổn định, minh
bạch và hấp dẫn.

Một lần nữa, chúng tôi xin được bày tỏ sự ủng hộ đối với hướng dẫn trong Nghị quyết 19 và thông điệp
năm mới của Thủ tướng Chính phủ, và cảm kích trước cơ hội đối thoại hôm nay hướng tới “…sự tương
tác giữa cơ quan nhà nước, giữa bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội… Đối thoại với người
dân và doanh nghiệp phải được mở rộng… để thúc đẩy mối quan hệ gần gũi hơn giữa Nhà nước, cán bộ,
công chức, người dân và chính sách và pháp luật phù hợp hơn với thực tế."
6


Tôi xin chúc tất cả mọi người sức khỏe, hạnh phúc, thành công và xin chúc buổi họp hôm nay thành công

mỹ mãn.



3

4
/>national-competitiveness/No. 19/NQ-CP, Ha Noi, Mar 18, 2014
5

6

Trang 3/4

Phụ lục:
1. Thay đổi nhận thức trong môi trường kinh doanh ở Việt Nam, 2008 – 2013 (5 năm) So sánh với những
quốc gia trong khu vực ASEAN



Trang 4/4


KIẾN NGHỊ CỦA HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP CHÂU ÂU TẠI VIỆT NAM
Diễn Đàn Doanh Nghiệp Việt Nam Giữa kỳ 2014
Hà Nội, Ngày 05/06/2014
Trình bày
Ông Tomaso Andreatta
Phó Chủ tịch
Kính thưa các Bộ trưởng, các Đại sứ, các vị khách quý!


Thưa các quý ông và quý bà!

Thay mặt cho Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam và đối tác của các Hiệp hội Doanh
nghiệp Châu Âu, tôi xin chân thành cảm ơn Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan liên quan đã
có mặt tại đây ngày hôm nay trong cuộc đối thoại đầy tính xây dựng với khu vực kinh tế tư nhân
thông qua Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam.

Việt Nam đang trong tiến trình đàm phán các Hiệp định Thương mại tự do với tiềm năng thúc
đẩy nền kinh tế đáng kể. Cụ thể là Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) giữa Liên minh Châu Âu
(EU) và Việt Nam đang có những bước tiến thuận lợi, và hy vọng sẽ được ký kết trong năm nay.
Liên minh Châu Âu là một trong những nhà đầu tư lớn nhất Việt Nam với 1.810 dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) với tổng vốn đăng ký là 723 nghìn tỉ đồng (34,28 tỉ đô la Mỹ) tính đến
tháng 1 năm 2013. Mối quan hệ giữa Châu Âu và Việt Nam ngày càng lớn mạnh, không chỉ về
chính trị, mà còn về phát triển và hội nhập kinh tế. Hai khía cạnh này đã gia cố niềm tin của các
nhà đầu tư châu Âu về thị trường Việt Nam, được phản ánh qua Chỉ số môi trường kinh doanh
(BCI) quýI/2014 tăng vọt từ 50 lên 59 điểm - vượt qua mức trung bình lần đầu tiên kể từ năm
2012. Đây là một bước tiến quan trọng cho thấy niềm tin ngày càng mạnh mẽ của các doanh
nghiệp Châu Âu vào thị trường Việt Nam. Sau khi Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) giữa Việt
Nam và EU được ký kết, ước tính GDP của Việt Nam có thể tăng hơn 15%, tiền lương thực tế
của lao động có tay nghề cao có thể tăng khoảng 12%, tiền lương thực tế của lao động phổ
thông có thể tăng khoảng 13% và giá trị xuất khẩu có thể tăng lên gần 35%.
1
Tuy nhiên, các lợi
ích tiềm năng này có thể bị suy yếu nếu Việt Nam không cam kết thực hiện toàn diện các điều
khoản thương mại quốc tế và đảm bảo việc thi hành hiệu quả các điều khoản này.

Điều quan trọng là Việt Nam phải đảm bảo việc ký kết và thi hành các Hiệp định thương mại tự
do, trong bối cảnh Cộng đồng Kinh tế ASEAN sẽ được thành lập vào năm 2015. Trong khuôn khổ
đó, Việt Nam cần đảm bảo các doanh nghiệp của mình có sức cạnh tranh không chỉ ở thị trường

nội địa mà cả thị trường quốc tế. Do đó, các chính sách bảo hộ cần được lược bỏ nhanh chóng
để các doanh nghiệp Việt Nam có thể thích ứng với các tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, giá cả,
thương hiệu, v/v. Việt Nam đang bước vào một giai đoạn vô cùng quan trọng, bởi lẽ những
thành tựu của các năm tới sẽ có ảnh hưởng đáng kể trong sự thành công lâu dài của Việt Nam.
1
Phụ lục về Các dịch vụ uỷ thác trong thư khuyến nghị “Đánh giá tác động của thương mại bền vững từ Hiệp định
Thương mại ựT do giữa EU và ASEAN”,
22
tháng 5 năm 2013

Trang 1/5

Với hy vọng các Hiệp định này sẽ đạt được kết quả như mong đợi, chúng tôi – Cộng đồng doanh
nghiệp Châu Âu mong muốn tiếp cận sâu rộng hơn vào thị trường Việt Nam với nhiều điều kiện
ưu đãi hơn khi đầu tư vào Việt Nam. Điều này sẽ góp phần đẩy mạnhquá trình chuyển giao tri
thức mà Việt Nam đang rất cần để thoát khỏi bẫy lao động giá rẻ. Bên cạnh đó, nếu Việt Nam
cắt giảm thuế quan đối với các mặt hàng nhập khẩu, chắc chắn điều này tạo ra nhiều giá trị gia
tăng cho tiến trình chuyển giao. Qua đó, việc nhanh chóng loại bỏ các rào cản thương mại cũng
sẽ khuyến khíchcác doanh nghiệp Việt Nam thích ứng với môi trường mới và tăng cường khả
năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu đưa ra 5 luận điểm chính mà Việt Nam cần chú trọng: Tôn
trọng và thi hành các cam kết của WTO trước khi ký kết Hiệp định Thương mại Tự do (FTA); Việc
cấp phép phân phối cho các doanh nghiệp nước ngoài; Vấn đề cấp thị thực nhằm thu hút khách
du lịch và công tác; Gỡ bỏ giới hạn sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là tại
các ngân hàng; và Thủ tục hòa giải tranh chấp từ Doanh nghiệp tới Chính phủ.

I. Tôn trọng và thi hành các cam kết của WTO
Điều quan trọng là Việt Nam đưa ra những thông điệp mạnh mẽ về việc tuân thủ các điều
khoản quy định trong Hiệp định Tương mại Tự do – và cách tốt nhất để thực hiện việc này là

tuyệt đối thi hành và tôn trọng những thỏa thuận đã có, ví dụ như những cam kết của Việt Nam
với WTO, đây là cơ sở đầu tiên để Việt Nam bước vào một nền kinh tế cởi mở và hội nhập sâu
rộng. Điều này sẽ tăng cường niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp Châu Âu và thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài.

II. Du lịch
Mặc dù có nhiều giải thích chi tiết được đề ra trong báo cáocủa nhóm công tác về Du lịch,
EuroCham vẫn mong muốn được nhấn mạnh hai điểm, đó là vấn đề thị thực và quảng bá du
lịch.

Thị thực
Chúng tôi đề xuất việc miễn thị thực nên được mở rộng cho các nước có tiềm năng đóng góp
đáng kể cho doanh thu ngành du lịch, ví dụ các nước thành viên của Liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ,
Ca-na-da, Úc, Hồng Kông và Đài Loan. Miễn thị thực cho các nước này nên được cấp với thời
gian lưu trú lên đến 90 ngày.

Chúng tôi cũng kiến nghị Việt Nam áp dụng biện pháp cấp thị thực tại sân bay (visa on arrival)
hiệu quả và có tính thực tiễn cao. Theo đó, khách nhập cảnh không nhất thiết phải hoàn thiện
các thủ tục xin thị thực trước khi hạ cánh. Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của Lào hoặc
Cam-pu-chia, nơi mà việc cấp và thu phí xin thị thực được tiến hành ngay tại cửa khẩu. Các thủ
tục và chính sách cấp thị thực tại sân bay phải được tiến hành minh bạch, thống nhất và có kèm
chỉ dẫn, các mức phí cụ thể và được thực thi nhất quán tại các sân bay khác nhau.

Quảng bá du lịch
Hiện tại, vẫn chưa rõ thu nhập từ việc cấp thị thực đang được sử dụng ra sao. Tuy nhiên, chúng
tôi cho rằng một trong những cách hiệu quả nhất để hạn chế những nhận thức tiêu cực về tiêu
chuẩn dịch vụ du lịch tại Việt Nam là tiếp tục thực hiện những chiến dịch quảng cáo ở cấp quốc
gia lẫn quốc tế. Những chiến dịch này phải tiếp tục làm nổi bật những vẻ đẹp hấp dẫn của Việt
Nam như di sản văn hóa đầy màu sắc, phong cảnh thiên nhiên hữu tình, những bãi biển tuyệt
đẹp và con người hiếu khách. Để thực hiện những đề xuất trên, Việt Nam cần có một ngân sách

đáng kể, đặc biệt là khi ngành du lịch chiếm 7% GDP. Vì thế, chúng tôi đề xuất Việt Nam tái đầu
Trang 2/5
tư ít nhất 20,000 đồng trên một thị thực vào ngân quỹ để thực hiện các chiến dịch quảng bá du
lịch.

III. Cấp phép phân phối
Việc các doanh nghiệp theo sát và chăm sóc sản phẩm tới tận tay người tiêu dùng là yếu tố cần
thiết để đảm bảo chất lượng sản phẩm. Chẳng hạn như trong trường hợp về nước uống có cồn,
vào ngày 12 tháng 11 năm 2012, Việt Nam đã thông qua Nghị định 94/2012/ND-CP về điều
chỉnh việc sản xuất và kinh doanh rượu. Nghị định 94 cho phép các doanh nghiệp chỉ được phép
sở hữu một trong các loại giấy phép: phân phối, bán buôn hoặc bán lẻ. Điều này đã hạn chế
phạm vi các dịch vụ mà các nhà khai thác nước ngoài có thể cung cấp, trong khi không đặt giới
hạn cho các nhà sản xuất trong nước.

Cũng theo đó, quyền nhập khẩu chỉ được trao cho người có giấy phép phân phối. Với việc chỉ
được phép sở hữu một loại giấy phép, các nhà nhập khẩu thực tế bị cấm tham gia vào bất kỳ
hoạt động nào khác ngoài phân phối. Về lý thuyết, một thực thể đa quốc gia có thể sẽ phải
thành lập một công ty thứ hai (cùng chủ sở hữu) để thực hiện các hoạt động bán buôn, chẳng
hạn như bán cho các siêu thị, cửa hàng, quán bar, nhà hàng, v/v.

Điều này đã tạo nên những gián đoạn đáng kể cho chuỗi cung ứng hiện nay, đặc biệt là đối với
các kênh phân phối hiện đại không hoạt động một cách tập trung. Hiện nay, các cửa hàng đều
có thể hoạt động theo mô hình bán buôn và bán lẻ các sản phẩm, đồng thời có mối quan hệ
trực tiếp với nhà sản xuất và nhập khẩu. Theo quy định mới, các cửa hàng cần có giấy phép bán
lẻ để bán trực tiếp cho người tiêu dùng, nhưng sẽ bị hạn chế thâm nhập vào các mối quan hệ
thương mại trực tiếp với các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu trên cơ sở hợp tác kinh doanh.
Những khó khăn này có thể sẽ kìm hãm đầu tư và thương mại tại Việt Nam.

Nghị định 94 cũng đặt ra giới hạn về số lượng giấy phép phân phối, giấy phép bán buôn và bán
lẻ dựa trên dân số. Điều này sẽ tạo điều kiện để hình thànhmột thị trường thứ cấp nhằm buôn

bán các loại giấy phép, đồng thờigiới hạn lựa chọn phân phối cho các doanh nghiệp, đặc biệt là
ở cáckhu vực ít dân cư và vùng nông thôn.

Vấn đề này cũng gây những tác động nhất định tới nhiều ngành nghề khác, trong đó có
ngànhdược phẩm.

Ngoài ra, kiểm tra về nhu cầu kinh tế (Economic Need Test) là một trở ngại lớn cho kênh phân
phối hiện đại tại Việt Nam.Trong khi chúng tôi đề xuất chấm dứt hoàn toàn động thái này, thực
tế là thuật ngữ này đang được định nghĩa khá mơ hồ trong các quy định hiện hành. Vì vậy,
chúng tôi hi vọng Việt Nam có thể điều chỉnh thuật ngữ này theo hướng khách quan và dễ thực
hiện hơn trong tương lai gần.

IV. Sở hữu nước ngoài –đặc biệt trong ngành ngân hàng
Theo cam kết WTO, đến năm 2012, các nhà đầu tư nước ngoài có quyền thành lập công ty
100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra, Nghị định 58/2012/ND-CP ngày 20/07/2012 cũng
cho phép các nhà đầu tư nước ngoài sở hữu 100% vốn điều lệ của công ty chứng khoán đang
hoạt động, hoặc thành lập công ty môi giới có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, sở hữu
cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam (trừ công ty chứng
khoán) vẫn còn giới hạn ở mức 49% theo quy định hiện hành. Do đó, chúng tôi rất hoan nghênh
việc Bộ Tài chính đưa ra các đề xuất nâng hoặc gỡ bỏ hoàn toàn giới hạn này.
Trang 3/5
Đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng, giới hạn về sở hữu nước ngoài vẫn không rõ ràng.(theo Nghị
định 01/2014/ND-CP). Do đó, có hai trở ngại chính để khuyến khích các doanh nghiệp nước
ngoài thuộc lĩnh vực ngân hàng tham gia: đó là việc tham gia vào các hoạt động của ngân hàng
địa phương và thiếu tiếng nói tại Hội đồng quản trị. Như vậy, nhà đầu tư nước ngoài không chỉ
quan tâm tới giới hạn sở hữu mà còn lo ngại về quyền kiểm soát thực tế tại các tổ chức tín dụng
Việt Nam.

Các ngân hàng được hợp nhất bởi các tổ chức tài chính quốc tế luôn được hỗ trợ về mọi nhu
cầu, bao gồm hỗ trợ vốn, ngay cả trong những tình huống áp lực, khi hình ảnh của họ bị ảnh

hưởng trên phạm vi toàn thế giới. Tuy nhiên, những hỗ trợ như vậy không thể được hiện thực
hoá nếu nhà đầu tư nước ngoài không được kiểm soát hoạt động của ngân hàng.

Do đó, chúng tôi kêu gọi việc loại bỏ giới hạn sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các
ngân hàng trong nước, đồng thời tăng thêm mức độ hoạt động/ sự hiện diện/ tầm kiểm soát
của nhà đầu tư nước ngoài trong sự chỉ đạo của tổ chức tín dụng.

V. Thủ tục giải quyết tranh chấp từ Doanh nghiệp tới Chính phủ
Điều vô cùng quan trọng với các doanh nghiệp là quyền truy đòi hợp pháp trong trường hợp
tranh chấp về các bất đồng trong thương mại. Lập luận này tất nhiên đi theo cả hai hướng, bởi
nó sẽ cho phép các doanh nghiệp Việt Nam bảo vệ các khoản đầu tư của họ ở châu Âu và ngược
lại. Theo kinh nghiệm từ các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) hiện nay, rất cần có một cơ chế
rõ ràng để giải quyết tranh chấp - nhưng không chỉ hạn chế giữa Chính phủ với Chính phủ như
trường hợp ví dụ tại WTO. Một điểm tương tự đã được MUTRAP ghi rõ trong Bản phân tích Tác
động Định lượng và Định tính của FTA EU-Việt Nam năm 2011. Nếu một công ty bị đối xử bất
công, công ty đó phải được quyền thực thi cơ chế truy đòi, vốn không đòi hỏi quá nhiều thời
gian và đầu tư nguồn lực. Bởi lẽ, hầu hết các công ty không thể đầu tư mức độ nguồn lực và do
đó sẽ hạn chế giá trị của thủ tục giải quyết tranh chấp, tiếp đến là hạn chế giá trị của các thỏa
thuận thương mại tự do.

Trong trường hợp xảy ra tranh chấp giữa các doanh nghiệp, cần có sự công nhận của trọng tài
quốc tế và thi hành tại Việt Nam. Điều này sẽ góp phần nâng cao đáng kể sức hấp dẫn của Việt
Nam như một điểm đến đầu tư và là một đối tác kinh doanh.

VI. Kết luận
Những động thái kinh tế trong vài năm tới sẽ là nhân tố quyết định chủ yếu với tương lai của
Việt Nam. Nếu Việt Nam muốn theo đuổi mô hình tăng trưởng kinh tế cạnh tranh toàn
cầuvàbền vững, cần phải thu hút vốn đầu tư nước ngoài với số lượng và chất lượng tốt hơn. Để
làm được điều này, Chính phủ Việt Nam nên tập trung nỗ lực của mình vào năm 2014 để giải
quyết các vấn đề nêu trên và đảm bảo một Hiệp định Thương mại Tự do hiệu quả, khả thi,với

thủ tục giải quyết tranh chấp từ doanh nghiệp tới Chính phủ. Nếu điều này không được thực
hiện, nó sẽ tạo ra sự hoài nghi cho nhà đầu tư và đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Namsẽ
vẫn hạn chế so với tiềm năng của nó.

Ngoài ra, nhiều vấn đềcòn tồn tại trong các lĩnh vực cụ thể cũng được trình bày trong Sách
Trắng (Whitebook) của EuroCham năm 2014.Những vấn đề này cần được giải quyết hài hoà
giữa các bộ ngành và doanh nghiệpliên quan, và EuroCham rất sẵn sàng thúc đẩy quá trình này.
Chúng tôi đưa ra nhiều đề xuất khác nhau trong bản khuyến nghị này, đại diện cho tiếng nói và
vì lợi ích của Cộng đồng doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam.Tuy nhiên, trong phần lớn các
trường hợp, những khuyến nghị của chúng tôi nhằm hướng đến lợi ích lâu dài của Chính phủ và
Trang 4/5
người dân Việt Nam.Nền kinh tế chỉ có thể phát triển một cách bền vững nếu môi trường kinh
doanh thuận lợi, nếu Việt Nam tạo được một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp; nếu
quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ; nếu tình trạng tham nhũng và đầu tư không hiệu quả bị xoá
bỏ; nếu việc giám sát Chính phủ hoạt động hợp lý. Chúng tôi chân thành hy vọng đề xuất của
chúng tôi sẽ giúp Chính phủ đạt được nhữngthành quảnhư vậy và EuroCham sẽ tiếp tục hỗ trợ,
nếu có thể, để hướng tới đạt được mục tiêu này.

Cuối cùng, tôi xin phép kết thúc bản khuyến nghị này bằng cách nhấn mạnh rằng tại EuroCham
chúng tôi sẽ tiếp tục làm việc chăm chỉ để đảm bảo việc đàm phán Hiệp định Thương mại Tự do
(FTA) kết thúc với kết quả tốt nhất, có thểtrong năm nay. Chúng tôi mong muốn được làm việc
với Chính phủ Việt Nam, với tất cả các doanh nghiệp thành viên và các đối tác của EuroCham, cả
Việt Nam và châu Âu, nhằm tối đa hoá thành công của họ tại một Việt Nam sôi động hơn bao
giờ hết!

Trang 5/5


HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP HÀN QUỐC TẠI VIỆT NAM(KORCHA


ĐỀ XUẤT CỦA HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP HÀN QUỐC TẠI VIỆT NAM
Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam Giữa kỳ 2014
Hà Nội, Ngày 05/06/2014
Trình bày
Ông Kim Jung In
Chủ tịch

I. GIỚI THIỆU
Trước hết, chúng tôi xin được bày tỏ sự cảm thông sâu sắc tới Chính phủ Việt Nam và những
công ty có vốn đầu tư nước ngoài đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn do biến động tại
khu vực Nam Trung Bộ của Việt Nam. Chúng tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới ngài Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng và Chính phủ Việt Nam vì những nỗ lực to lớn trong việc giải quyết tình hình
khó khăn này. Chúng tôi tin rằng chúng ta hoàn toàn có thể vượt qua giai đoạn khó khăn này
bằng việc chung tay giải quyết khủng khoảng với sự cảm thông lẫn nhau và đánh giá tình hình
một cách sáng suốt.

Liên quan đến tình hình khó khăn này, chúng tôi xin được mạn phép đưa ra một vài đề xuất như
sau:

Thứ nhất, chúng tôi cho rằng Chính phủ Việt Nam nên có một công bố chính thức cho các nhà
đầu tư nước ngoài trên toàn thế giới rằng Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực đưa ra những giải
pháp cụ thể để ổn định môi trường kinh doanh cho các công ty đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Thứ hai, chúng tôi có ý kiến rằng Chính phủ Việt Nam nên đề xuất và xem xét bù đắp thiệt hại
kịp thời hoặc một kế hoạch bồi thường cụ thể.

Thứ ba, chúng tôi cũng xin kính đề nghị Chính phủ Việt Nam đưa ra những khoản vay với lãi
suất thấp bằng những quy định pháp lý cụ thể như là một cách kiểm soát khủng hoảng để
những công ty có vốn đầu tư nước ngoài có thể phục hồi trong thời gian sớm nhất và ổn định lại
hoạt động kinh doanh của họ tại Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng tôi kính đề nghị Chính phủ Việt

Nam miễn thuế cho các công ty bị thiệt hại để đẩy nhanh các thủ tục hải quan nhập khẩu
nguyên vật liệu nhằm khôi phục mạng lưới cung ứng bị thiệt hại.

Thứ tư, chúng tôi xin đề nghị Chính phủ Việt Nam thực hiện các giải pháp phù hợp dành cho
người lao động bị mất việc bởi sự cố này.

Hiệp hội doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam (“KorCham”) vô cùng hoan nghênh và ủng hộ
nhiệt thành những thiện chí và nỗ lực mà Chính phủ Việt Nam đã thể hiện trong việc xử lý
khủng hoảng. Như một người đồng hành với nền kinh tế của Việt Nam, Korcham sẽ luôn cố
gắng hết sức để biến tình trạng khủng hoảng này thành cơ hội dành cho đầu tư nước ngoài bền
vững ở Việt Nam.

Việt Nam đang trong quá trình đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP, Hiệp
định Thương mại Tự do FTA với EU và Hàn Quốc. Chúng tôi tin rằng Việt Nam sẽ có những đóng
góp lớn cho nên kinh tế thế giới. Hàn Quốc cũng đang cố gắng kết thúc đàm phán và ký kết FTA
Trang 1/5
với Việt Nam trong năm tới. Hơn nữa, đối với ngành dệt may và giầy dép mà các công ty Hàn
Quốc đang tập trung đầu tư, quy tắc xuất xứ trong đàm phán FTA là một vấn đề hết sức nhạy
cảm. Chúng tôi hy vọng Chính phủ Việt Nam cung cấp những thông tin về tình hình đàm phán
FTA cho không chỉ những bên của hiệp định mà còn cả các công ty có vốn đầu tư nước ngoài để
họ có thể hoạch định kế hoạch kinh doanh tổng thể cho tương lai và tiến hành đầu tư đúng thời
điểm.

Chúng ta đều đồng ý rằng, khối kinh tế tư nhân luôn mong có được một mô hình đối thoại cởi
mở và mang tính xây dựng với Chính phủ Việt Nam. Tôi nghĩ rằng hỗ trợ phát triển tự bản thân
nó không thể thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Mà thay vào đó, đầu tư và giao thương trực tiếp
nước ngoài mới thúc đẩy sự tăng trưởng đó. Các quốc gia, các khu kinh tế, các tỉnh, thành phố
cần phải có những chính sách kinh tế tốt và một khuôn khổ pháp lý lành mạnh để thu hút đầu
tư quốc tế, thúc đẩy giao thương và tăng cường phát triển kinh tế, xã hội. Xin được nói trước
rằng, KorCham luôn có cách nhìn tích cực về các chính sách đầu tư của Việt Nam, nhưng những

chính sách đó vẫn có một số vấn đề cần được cải thiện hơn nữa. Thông qua sự cải thiện pháp
luật này, chúng tôi tin rằng Việt Nam là quốc gia được nhiều kỳ vọng và đầy tiềm năng.

II. NHỮNG KIẾN NGHỊ CỦA CỘNG ĐỒNG DOANH NGHIỆP HÀN QUỐC
Tại hội nghị hôm nay, bốn (4) đề xuất do các thành viên của cộng đồng doanh nghiệp Hàn Quốc
tại Việt Nam kiến nghị xin được trình bày như sau.

1. Bền vững trong đầu tư nước ngoài
Điều 32 Luật Đầu tư quy định rằng:

“1. Nhà đầu tư có dự án đầu tư thuộc lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư quy định tại Điều 27 và
Điều 28 của Luật này được hưởng các ưu đãi theo quy định của Luật này và các quy định khác
của pháp luật có liên quan.
2. Việc ưu đãi đầu tư quy định tại khoản 1 Điều này cũng được áp dụng đối với dự án đầu tư
mới và dự án đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao công suất, năng lực kinh doanh, đổi mới công
nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi trường.”

Tuy nhiên, hướng dẫn thi hành của một số thông tư, như Phần I mục 6 của thông tư
130/2008/TT-BTC và Điều 23.5 của Thông tư 123/2012/TT-BTC năm 2008 đã gây ra một số vấn đề
cho các công ty Hàn Quốc khi hưởng ưu đãi thuế theo như quy định tại Điều 32 của Luật Đầu tư,
cụ thể như sau:




HƯỞNG ƯU
ĐÃI THUẾ
THU NHẬP
DOANH
NGHIỆP

(TNDN)
Từ 2004 - 2008
(Luật Thuế TNDN 2003)
Hình thức đầu tư mở rộng sẽ được hưởng ưu đãi thuế TNDN
(tại Điều 18, Luật Thuế TNDN 2003)
Từ 2009 – 2013
(Luật Thuế TNDN 2008)
Hình thức đầu tư mở rộng sẽ không được hưởng ưu đãi thuế TNDN,
ngoại trừ việc mở rộng đầu tư kéo theo việc thành lập pháp nhân mới

(tại Điều 23.5 Thông tư 123/2012/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Luật
Thuế TNDN 2008)
Từ 2014 – nay
(Luật Thuế TNDN 2013)
Trang 2/5

×