Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Thực trạng thiếu dinh dưỡng, một số yếu tố liên quan và đề xuất giải pháp can thiệp ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện việt yên bắc giang, 2006 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.17 MB, 135 trang )

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG - BỘ Y TẾ



NGUYỄN THỊ NGỌC BẢO




NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG THIẾU DINH DƯỠNG,
MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
CAN THIỆP Ở TRẺ EM DƯỚI 5 TUỔI
TẠI HUYỆN VIỆT YÊN - BẮC GIANG, 2006-2008


LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

- CHUYÊN NGÀNH: Y TẾ CÔNG CỘNG
- MÃ SỐ: 62.72.03.01



CÁN BỘ HƯỚNG DẪN : 1. GS.TS. TRỊNH QUÂN HUẤN
2. TS. NGUYỄN THỊ LAN ANH



NĂM, 2012


1



ĐẶT VẤN ĐỀ
Đánh giá thực trạng thiếu dinh dưỡng của trẻ em tại cộng đồng luôn
luôn là một đòi hỏi thiết yếu của các hoạt động can thiệp dinh dưỡng, giúp
định hướng các hành động trong các giai đoạn tiếp theo [11], [43].
Trong vòng hai thập kỷ qua, xu hướng chuyển dịch theo chiều hướng
tích cực về phát triển cũng như tình trạng dinh dưỡng của trẻ em tại cộng
đồng ngày càng rõ rệt, đặc biệt ở các nước đang phát triển [12], [15].
Ở Việt Nam, từ những năm 80, các vấn đề dinh dưỡng đã được theo dõi
qua các cuộc điều tra toàn quốc và cho thấy tỷ lệ thiếu dinh dưỡng trẻ em mặc
dù có giảm đi so với trước đây nhưng vẫn ở mức đáng lo ngại. Suy dinh
dưỡng (SDD) là một trong các chỉ tiêu nhạy, đáng tin cậy phản ánh tình trạng
sức khỏe và phát triển ở trẻ em. Suy dinh dưỡng gắn liền với vấn đề sinh thái,
tình trạng phát triển kinh tế và mức độ nhận thức, hiểu biết và thực hành chăm
sóc sức khỏe. Suy dinh dưỡng ở trẻ em để lại những hậu quả nặng nề cả về
thể chất và tinh thần ở tuổi ấu thơ cũng như khi trưởng thành sau này [15],
[53].
Đánh giá thực trạng thiếu dinh dưỡng trẻ em giúp cung cấp các thông
tin chính xác và cập nhật về thực trạng thiếu dinh dưỡng trẻ em, đồng thời
định hướng các chính sách của các Bộ ngành có liên quan [12].
Trẻ em suy dinh dưỡng thường xuyên bị mắc bệnh và có thời gian bị
ốm kéo dài… Thiếu dinh dưỡng thúc đẩy quá trình mắc bệnh tật, đặc biệt là
bệnh sởi và một số bệnh ký sinh trùng. Tỷ lệ trẻ em tử vong do SDD đóng
góp tới: 61% trường hợp tử vong do bệnh tiêu chảy, 57% trường hợp tử vong
do bệnh sốt rét, 52% trường hợp tử vong do viêm phổi và 45% trường hợp tử
vong do bệnh sởi (Black 2005, Bryce 2007) [6], [9]. Ngược lại, suy dinh
dưỡng cũng là hậu quả của bệnh tật, như tiêu chảy, viêm đường hô hấp cấp
tính [45], [52].



2

Từ những năm đầu tiên của thập kỷ 90, các vấn đề về chăm sóc dinh
dưỡng và sức khỏe đã và đang ngày càng được Nhà nước quan tâm. Các
chương trình chăm sóc sức khỏe trẻ em như tiêm chủng mở rộng, các can
thiệp phòng chống suy dinh dưỡng và thiếu vi chất như phòng chống thiếu
vitamin A, thiếu sắt, thức ăn bổ sung, phát triển hệ sinh thái Vườn-Ao-
Chuồng (VAC), giáo dục dinh dưỡng, tẩy giun v.v đã đóng góp một phần
quan trọng vào việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe cho các đối
tượng có nguy cơ cao như trẻ em và bà mẹ [43], [44].
Suy dinh dưỡng vẫn là một vấn đề sức khoẻ cộng đồng nghiêm trọng,
đặc biệt ở các vùng nghèo, vùng khó khăn như tỉnh Bắc Giang
Trên thực tế, Bắc Giang là một trong những tỉnh có tỷ lệ suy dinh dưỡng
cao. Qua đợt điều tra về tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi năm
2005 thì tỷ lệ suy dinh dưỡng của tỉnh là 25,7%. Bên cạnh những thành tựu về
kinh tế-xã hội cũng như công tác chăm sóc sức khoẻ, tỉnh Bắc Giang còn phải
đương đầu với nhiều khó khăn trở ngại, đặc biệt là tình trạng suy dinh dưỡng
trẻ em.
Để góp phần thiết thực xây dựng các giải pháp phòng chống SDD trẻ
em ở các vùng khó khăn trong giai đoạn tới, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
“Thực trạng thiếu dinh dưỡng, một số yếu tố liên quan và đề xuất giải pháp
can thiệp ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Việt Yên - Bắc Giang, 2006-2008”
nhằm đánh giá thực trạng thiếu dinh dưỡng trẻ em tại một huyện miền núi, mô
tả mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng với khẩu phần ăn của trẻ và xác
định mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng với khẩu phần ăn, nhiễm ký
sinh trùng đường ruột ở trẻ từ đó đề xuất các giải pháp thích hợp, góp phần
thực sự vào công cuộc phòng chống SDD trẻ em ở nước ta.


3


MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mô tả thực trạng thiếu dinh dưỡng, khẩu phần ăn của trẻ; nhiễm ký sinh
trùng đường ruột và một số bệnh nhiễm khuẩn thường gặp ở trẻ em.
2. Mô tả mối liên quan giữa thực trạng thiếu dinh dưỡng với khẩu phần
ăn, nhiễm ký sinh trùng đường ruột ở trẻ.
3. Đánh giá hiệu quả can thiệp dinh dưỡng cộng đồng ở trẻ dưới 5 tuổi ở
huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.

GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Khẩu phần ăn nghèo nàn gây ra tình trạng SDD cao và suy dinh
dưỡng và thiếu máu dinh dưỡng có liên quan với tình trạng nhiễm ký sinh
trùng đường ruột ở trẻ em dưới 5 tuổi.











4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Thực trạng thiếu dinh dưỡng trẻ em
Hậu quả tất yếu của tình trạng thiếu ăn là suy dinh dưỡng [39]. Tình

trạng thiếu ăn ảnh hưởng trước hết đến các đối tượng bị đe dọa nhất, đó là phụ
nữ có thai, phụ nữ đang cho con bú và trẻ em trước tuổi học đường. Điều đó
được thể hiện qua các số đo nhân trắc của cơ thể [101]. Trong điều kiện thực
địa người ta dựa chủ yếu vào các chỉ tiêu nhân trắc dinh dưỡng gồm cân nặng
theo tuổi, chiều cao theo tuổi, cân nặng theo chiều cao, vòng cánh tay để phân
lọai tình trạng suy dinh dưỡng [101], [121], [127].
Năm 1956, Gomez - một thầy thuốc người Mexico đã dựa vào cân nặng
theo tuổi để phân loại tình trạng dinh dưỡng trẻ em. Cách phân loại của
Gomez đã xác định cân nặng của đối tượng theo phần trăm so với cân nặng
chuẩn vào quần thể tham khảo Havard. Trong một thời gian dài, cách phân
loại này đã được sử dụng như là chỉ tiêu duy nhất phân loại suy dinh dưỡng ở
cộng đồng [22].
Năm 1966, Jelliffe - người đã có công đưa ra khái niệm suy dinh
dưỡng protein - năng lượng, tức là đã nhấn mạnh đến vai trò năng lượng ăn
vào đối với bệnh sinh suy dinh dưỡng - cũng đã đưa ra cách phân loại dựa
vào quần thể Havard. Sau đó còn có các đóng góp của các tác giả khác như
Welcome dựa vào triệu trứng lâm sàng bổ sung và của Waterlow đưa ra chỉ
tiêu chiều cao theo tuổi và cân nặng theo chiều cao nhằm phân biệt suy dinh
dưỡng cấp tính mới xảy ra hay đã trường diễn [213], [214], [216]. Cách phân
loại của Waterlow dựa vào quần thể tham khảo NCHS. Mặc dù quần thể tham
khảo NCHS chưa thể được coi là lý tưởng nhưng để có được quần thể tham
khảo tốt không phải là dễ dàng [217]. Vào thời điểm thập kỷ những năm 70,


5

80 của thế kỷ XX, quần thể tham khảo NCHS đáp ứng được các tiêu chuẩn
cần thiết và được sử dụng rộng rãi trên thế giới nên rất thuận tiện cho việc so
sánh quốc tế [141]. Năm 1980, Tổ chức Y tế thế giới khuyến nghị cách phân
loại tình trạng dinh dưỡng theo các điểm ngưỡng dưới hai độ lệch chuẩn (-

2SD) so với quần thể NCHS. Đối với suy dinh dưỡng theo chỉ tiêu cân nặng
theo tuổi có 3 mức độ: suy dinh dưỡng độ 1 (vừa), suy dinh dưỡng độ 2
(nặng), suy dinh dưỡng độ 3 (rất nặng) theo các mức tương ứng là từ -2SD
đến -3SD, từ -3SD đến -4SD và dưới -4SD. Đối với suy dinh dưỡng chiều cao
theo tuổi (SDD kéo dài hoặc thuộc về quá khứ) thường lấy điểm ngưỡng dưới
-2SD (thể vừa) và -3SD (thể nặng) so với quần thể NCHS. Đối với SDD cân
nặng theo chiều cao (thiếu dinh dưỡng hiện tại) thường lấy điểm ngưỡng dưới
-2SD [141]. Những biến đổi về phát triển nhân trắc dinh dưỡng xảy ra trong
một vài thập kỷ qua đã cho thấy quần thể tham khảo này không còn thích hợp
cho việc theo dõi tình trạng dinh dưỡng của mọi nhóm dân tộc khác nhau
[161].
Đến năm 2005, nhận thấy quần thể NCHS chỉ gồm trẻ em Mỹ da trắng
không đủ tính đại diện cao nên Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã tiến hành xây
dựng Chuẩn WHO 2005 tập hợp số liệu của bảy quốc gia từ các châu lục khác
nhau theo mức đại diện dân số với điều kiện trẻ được nuôi dưỡng hoàn toàn
bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu và những trẻ này sống ở địa phương có độ cao
dưới 1.500 m so với mặt nước biển, đồng thời môi trường sống không có khói
thuốc lá và được nuôi dưỡng tốt. WHO sau đó đã khuyến nghị toàn thể các
nước thành viên sử dụng chuẩn WHO và Việt Nam cũng đã sử dụng chuẩn
này. Cách phân loại SDD tương tự như với chuẩn NCHS nhưng thay vì dùng
SD thì nay sử dụng Zscore-SD.
Người ta coi những trẻ sinh đủ tháng có cân nặng lúc đẻ dưới 2.500g là
những trẻ bị suy dinh dưỡng bào thai (SDDBT). Về nguyên nhân, thường do


6

trong thời gian mang thai, người mẹ không được ăn uống đầy đủ, làm việc và
nghỉ ngơi không hợp lý hoặc bị ốm đau bệnh tật. Thường các bà mẹ có mức
tăng cân ở cuối thai kì thấp, dưới 6kg, chắc chắn là bào thai đã bị SDD, khi

sinh ra cân nặng của trẻ sẽ rất thấp.
SDD bào thai là thể suy dinh dưỡng sớm nhất. Ở những trẻ này, các cơ
quan như da, cơ, xương, não, gan, thận đều bị ảnh hưởng mà điều dễ nhận
thấy nhất là trẻ sinh ra nhẹ cân. Hậu quả của tình trạng này tuỳ thuộc vào giai
đoạn bào thai bị SDD, chế độ nuôi dưỡng trẻ sau khi chào đời. SDD xảy ra ở
3 tháng cuối của thai kì làm cho bộ não chậm phát triển, sau này trẻ sẽ kém
thông minh. Trẻ bị SDD bào thai khi chào đời dễ bị hạ thân nhiệt, hạ đường
máu gây rối loạn nhịp thở, hạ canxi máu gây co giật. Nếu được nuôi dưỡng
đúng, trẻ sẽ phát triển bình thường và đạt mức cân nặng như những trẻ khác
sau 2-3 tháng. Ngược lại, nuôi dưỡng không tốt, trẻ tiếp tục bị SDD, trẻ ốm
đau, quặt quẹo, còi cọc, chậm phát triển trí tuệ, kém thông minh. Theo Tổ
chức Y tế thế giới (WHO), có đến 1/3 số trẻ có cân nặng khi sinh dưới 2.500g
bị chết trong năm đầu đời.





7


Hình 1.1: Dinh dưỡng theo chu kì vòng đời

1.2. Xu hướng về tỷ lệ thiếu dinh dưỡng trên thế giới
Theo Tổ chức Y tế thế giới, hiện nay trên phạm vi toàn thế giới có
khoảng 165 triệu trẻ em dưới 5 tuổi - chủ yếu tập trung ở các nước đang phát
triển - bị suy dinh dưỡng [227], [12]. Đồng thời, người ta quan sát thấy hơn
một nửa số trường hợp tử vong trẻ em có liên quan đến suy dinh dưỡng. Bên
cạnh đó, những hậu quả ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất và tinh thần do



8

suy dinh dưỡng gây ra có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội của
từng quốc gia [1].
Cũng theo tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới [227], hiện nay tỷ lệ suy
dinh dưỡng theo chỉ tiêu cân nặng theo tuổi ở trẻ em dưới 5 tuổi ở các nước
đang phát triển có xu hướng giảm đi. Từ năm 1975 đến 1995, tỷ lệ này giảm
từ 42,6% xuống còn 34,6%, từ năm 1995 đến năm 2010 tỷ lệ giảm xuống còn
khoảng 25%. Suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm dần đi được quan sát
thấy ở tất cả các vùng trên thế giới. Mức giảm suy dinh dưỡng ở khu vực châu
Á mạnh hơn so với các vùng khác và có ý nghĩa rất quan trọng, bởi vì tỷ lệ trẻ
em suy dinh dưỡng cao nhất cùng với số lượng dân số tập trung đông nhất. Có
ít nhất 2/3 số trẻ em bị suy dinh dưỡng sống ở châu Á và dù tính theo chỉ tiêu
cân nặng theo tuổi hoặc cân nặng theo chiều cao thì một nửa số trẻ em suy
dinh dưỡng trên thế giới sống ở 8 nước Nam Á [73], [132], [157].



9

Bảng 1.1. Tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng theo chỉ tiêu cân nặng theo tuổi các
khu vực của các nước đang phát triển từ 1975-2010 [200].

Khu vực Năm 1975 Năm 1990 Năm 1995 Năm 2010
% Triệu

% Triệu

% Triệu


% Triệu

Châu Phi
Châu Mỹ la tinh
Châu Á
30,4

15,6

47,8

22,9

7,5

164,6

27,3

11,5

41,3

31,6

6,4

154,6


27,0

10,8

40,0

34,8

6,0

158,6

28,5

8,0

24,0

24,8

5,4

88,3

Các nước chậm
phát triển
42,6

195,6


35,8

193,4

34,6

199,8

33,6

105,9

Tòan thế giới 34,6

198,6

31,3

195,8

-

-

26,0

167,0





Mức giảm trong 5 năm về tỷ lệ SDD protein-năng
lượng ở các nước đang phát triển
% giảm trong 5
năm tới để đạt
mục tiêu

Giai đoạn
1975
-
1980
1980
-
1985
1
985
-
1990
1990
-

1995
1995
-
2010
2010
-
2015



Mức giảm (%)

5,2

6,2

5,5

3,4

3,2

4,3

1.3. Xu hướng của thực trạng SDD trẻ em ở Việt Nam.
Tỷ lệ SDD trẻ em Việt Nam dưới 5 tuổi qua các cuộc điều tra quốc gia
cho thấy [35], [42]:


10
Bảng 1.2. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi ở Việt Nam qua các
cuộc điều tra quốc gia [35], [42]
Thời gian SDD CN/T (%) SDD CC/T (%)
Thời kỳ 1981-1985 51,5 60,9
Năm 1994 44,9 46,9
Năm 2000

33,8

36,5


Năm 2010 17,5 29,3



Biểu đồ 1.2. Xu hướng thực trạng SDD của trẻ em ở Việt Nam

Qua các số liệu trên cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em Việt Nam
đang giảm đi.
Trong thời gian gần đây, cùng với những thành tựu bước đầu của một
nền kinh tế đang trên đà đổi mới và những nỗ lực của các chương trình dinh
dưỡng và sức khỏe, nhiều nghiên cứu cắt ngang tại các thời điểm khác nhau


11
cho thấy mức giảm khá nhanh về tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em, đặc biệt các
vùng thành phố và đồng bằng. Tuy vậy, suy dinh dưỡng protein - năng lượng
ở trẻ em vẫn còn là một thách thức quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng và
phát triển ở nước ta. Từ sau năm 1990, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em ở nước ta
đã giảm đi rõ rệt, tốc độ giảm nhanh đáng ghi nhận. Tuy nhiên, cho đến nay,
suy dinh dưỡng vẫn còn cao, đặc biệt là tỷ lệ thấp còi và sự chênh lệch về tỷ
lệ suy dinh dưỡng theo địa lý là rất đáng kể [39]. Bên cạnh đó, thiếu vitamin
A tiền lâm sàng, thiếu máu do thiếu sắt vẫn còn là thách thức dinh dưỡng lớn,
nhất là ở các vùng nghèo, vùng khó khăn [43], [44].
1.4. Nguyên nhân của suy dinh dưỡng trẻ em
Suy dinh dưỡng protein - năng lượng (PEM) là kết quả của một quá
trình thiếu hụt dinh dưỡng trong một thời gian dài dẫn đến thiếu hụt tổng
lượng calo kèm theo thiếu hụt protein [48], [49], [62], nhất là thiếu hụt các
axit amin thiết yếu. Quá trình đó vừa tác động đến sự tăng trưởng thể lực của
trẻ, vừa ảnh hưởng đến quá trình hoàn thiện các chức phận cấu tạo tế bào, mô

cũng như chức năng sinh lý khác của trẻ.
1.4.1. Suy dinh dưỡng protein năng lượng
Suy dinh dưỡng do thiếu protein năng lượng được coi là vấn đề dinh
dưỡng chủ yếu của các nước đang phát triển như châu Phi, châu Á, Nam Mỹ,
khu vực Trung Đông [95]. Trong đó, các nước thuộc châu Phi có tỷ lệ suy
dinh dưỡng cao nhất. Đó là những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến
tranh và thiên tai kéo dài, sản xuất đình trệ, nhất là sản xuất nông nghiệp kém
phát triển. Trình độ dân trí thấp và sinh đẻ thiếu kế hoạch là những nguyên
nhân tiềm tàng dẫn đến tỷ lệ suy dinh dưỡng protein năng lượng cao. Bảng
1.1 ở trên đã cho hình ảnh tổng quát về tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng trẻ em theo
chỉ tiêu cân nặng theo tuổi theo khu vực được UNICEF và WHO thống kê
đến hết năm 2010.


12
1.4.2. Khẩu phần và chất lượng bữa ăn không đảm bảo
Đặc điểm sinh lý học và nhu cầu năng lượng của trẻ em trong độ tuổi
ăn bổ sung.
Lứa tuổi ăn bổ sung (hay còn gọi là ăn sam, ăn dặm ) là một giai đoạn
phát triển rất quan trọng của cơ thể. Về hình thức đây là giai đoạn chuyển tiếp
từ bú mẹ hoàn toàn đến cai sữa. Về mặt sinh lý học, lứa tuổi này đảm đương
những chức năng phát triển hệ thống căn bản như hệ miễn dịch, hệ thần kinh
[21]. Các cơ quan và tổ chức mô, não bộ, bộ xương, trí tuệ và thể lực, chức
năng sinh lý… ở trẻ em được hình thành chủ yếu trong thời gian đến 3 tuối
(Marberly G) [78]. Giải quyết tốt vấn đề dinh dưỡng ở lứa tuối này sẽ làm cho
trẻ tiếp tục phát triển bình thường như thời kỳ còn bú mẹ, tạo đà cho cả quá
trình phát triển về sau, góp phần giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em nói chung.
Theo bảng Nhu cầu năng lượng của Viện Dinh dưỡng khuyến nghị cho
người Việt Nam, trong đó có nêu rõ khẩu phần cho trẻ em thì nhất thiết cần
chú ý tỷ lệ hợp lý (tính bằng %) Protit/ Lipid/ Gluxit bước đầu là 12/18/70,

tiến tới 14/20/66 [10] (Bảng 1.3).
Bảng 1.3. Giá trị năng lượng và nhu cầu Protein khuyến nghị cho trẻ em
dưới 10 tuổi [10]
Tuổi Nhu cầu năng lượng (Kcal) Nhu cầu Protein (g) *

Dưới 6 tháng 620 21
Từ 6-12 tháng 820 23
Từ 1-3 tuổi 1300 28
Từ 4-6 tuổi 1600 36
Từ 7-9 tuổi 1800 40
*. Trong đó Protein động vật phải chiếm từ 25-30%.
Đối với nhu cầu chất khoáng và vitamin, tài liệu cũng đã tính toán và
đưa ra mức nhu cầu khuyến nghị như sau (Bảng 1.4).


13
Bảng 1.4. Nhu cầu chất khoáng và vitamin khuyến nghị cho trẻ em [11]:
Tuổi
Chất khoáng (mcg)

Vitamin (mcg)
Can-xi Fe A B1 B2 PP C
Dưới 6 tháng 300 10 325

0,3 0,3 5 30
T
ừ 6
-
12 tháng


500

11

350

0,4

0,5

5,4

30

Từ 1-3 tuổi 500 6 400

0,8 0,8 9 35

Do ở nước ta, trẻ em chưa có tập quán (hoặc điều kiện) ăn sữa và các
loại thức ăn nhân tạo dành cho trẻ nhỏ, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu dinh
dưỡng đối với trẻ ở lứa tuổi này, đặc biệt là trẻ ở nông thôn, chủ yếu là bột
gạo. Thực tế đó tạo nên mâu thuẫn lớn giữa nhu cầu và giải pháp, giữa một
bên là bộ máy tiêu hóa chưa hoàn chỉnh với một bên là nguồn thực phẩm
không giàu năng lượng.
Có thể lấy lứa tuổi 6-12 tháng là những trẻ đã quen ăn bột, có nhu cầu
năng lượng 820 Kcal/ngày làm đại diện cho nhóm trẻ ăn bột. Đây cũng là
nhóm trẻ vẫn tiếp tục bú mẹ và bắt đầu ăn sam để tiến tới độc lập với sữa mẹ.
Thử tính phần ăn sam cung cấp tương ứng 1/2 hoặc 2/3 nhu cầu nói trên, với
giá trị năng lượng của bột gạo khoảng 350 Kcal/100g, thì mỗi ngày trẻ phải
tiêu thụ từ 120 đến 170 gam bột khô. Với những trẻ không bú sữa mẹ thì phải

ăn đến 240 gam bột khô mỗi ngày mới đủ nhu cầu năng lượng. Quả là một
khẩu phần quá lớn đối với một đứa trẻ còn nhỏ. Đây cũng chính là một
nguyên nhân quan trọng và phổ biến gây ra tỷ lệ suy dinh dưỡng protein -
năng lượng cao ở lứa tuổi này.
Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển, hệ thống
nhà trẻ hoàn chỉnh ở giai đoạn phát triển kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa thì không còn khó khăn cho hoạt động truyền thông giáo dục
dinh dưỡng, nhu cầu thức ăn chế biến sẵn càng trở nên bức xúc.


14
Việc giải đáp nhu cầu đó đòi hỏi những giải pháp cụ thể và phù hợp với
điều kiện kinh tế xã hội của từng đối tượng trong đó trẻ em nông thôn là một
đối tượng phổ biến.
Giải quyết nhu cầu năng lượng cho đối tượng này còn phải tính đến
tiềm năng sẵn có trên địa bàn và khả năng kinh tế của từng hộ gia đình, đó là
khả năng tự cung tự cấp từ mô hình VAC, mức thu nhập thấp của một bộ
phận quan trọng các gia đình nông thôn thuộc nhóm hộ đói nghèo (chiếm tỷ lệ
khoảng trên 30%).
1.4.3. An ninh lương thực hộ gia đình không đảm bảo
An ninh lương thực hộ gia đình không đảm bảo là yếu tố quan trọng
dẫn đến thiếu lương thực về số lượng và chất lượng - bao gồm thiếu năng
lượng, protein và vi chất dinh dưỡng [117], [94], [47].
Hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo đói ở các vùng sâu, vùng xa và vùng khó khăn
còn cao. Đó chính là nguyên nhân tiềm tàng đe dọa tình trạng thiếu dinh
dưỡng cá thể. Ngoài ra mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố phụ thuộc vào khả
năng tiếp cận thực phẩm ở từng hộ gia đình mà cụ thể là phụ thuộc rất nhiều
vào kiến thức dinh dưỡng của từng cá thể, từng gia đình và phong tục tập
quán kiêng khem của từng nhóm dân tộc.
Nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng ngay ở khu vực đồng bằng Bắc bộ và

Trung du cho thấy chưa xác lập được an ninh lương thực hộ gia đình. Tình
trạng thiếu ăn ở một số địa phương còn phổ biến: Vào lúc giáp hạt, năm 1996
có 97,2% số hộ gia đình ở tỉnh Quảng Bình thiếu ăn với số tháng thiếu ăn cao
nhất là 8 tháng/năm [17]. Tổng Điều tra Dinh dưỡng toàn quốc năm 2010 gần
đây cũng cho thấy vẫn còn từ 10-25% số hộ thiếu đói lương thực vào thời
điểm giáp hạt [26], [28].
Tình trạng mất an ninh thực phẩm theo mùa là một vấn đề rất đáng
quan tâm. Đây vẫn còn là một tồn tại khá phổ biến; ở những hộ nghèo, có


15
33% gia đình thiếu ăn trước thời vụ và 19% gia đình trong tình trạng thiếu ăn
sau thu hoạch [28].
1.4.4. Thực hành dinh dưỡng kém
Thực hành dinh dưỡng kém liên quan đến sự mất cân đối trong bữa ăn
và sự lựa chọn ưu tiên hợp lý cho đối tượng là trẻ em và người mẹ mang thai
[69], [80]. Ngay cả khi một hộ gia đình đảm bảo được an ninh lương thực vẫn
có thể thiếu lương thực thực phẩm đối với cá thể, nhất là các cá thể có nguy
cơ cao như trẻ em dưới 5 tuổi, phụ nữ mang thai… mà nguyên nhân chủ yếu
là do thực hành dinh dưỡng. Hai yếu tố nhạy cảm nhất trong thực hành dinh
dưỡng ở trẻ em là sữa mẹ và chế độ ăn bổ sung.
a) Vấn đề sữa mẹ:
Sữa mẹ là nguồn thức ăn tự nhiên của trẻ em. Ngoài việc cung cấp chất
dinh dưỡng hợp lý về số lượng, sữa mẹ được đảm bảo sự cân đối lý tưởng
giữa các chất dinh dưỡng và là nguồn cung cấp các chất globulin miễn dịch từ
thức ăn duy nhất của đứa trẻ (Hanson, Lars A.et.al) [64]. Hàm lượng và tỷ lệ
các chất dinh dưỡng trong sữa mẹ của phụ nữ Việt Nam tương đương với các
nước khác (Bùi Thị Nhu Thuận, [38]). Tuy nhiên, phần lớn trẻ em, đặc biệt là
ở các nước kém phát triển và đang phát triển, thời gian bú sữa mẹ chưa được
đảm bảo, nhất là thời gian bú sữa mẹ hoàn toàn (De Zoysa, I., M.Rea and

J.Martines, 1991)[54].



16
Bảng 1.5. Tình hình bú sữa mẹ ở các khu vực trên thế giới và Việt Nam
(Viện Dinh dưỡng) [93]
Năm Tỷ lệ nuôi con
bằng sữa mẹ
Tỷ lệ nuôi con
bằng sữa mẹ hoàn
toàn 6 tháng đầu
Chung các nước
đang phát triển –
Trong đó:
2009 87,3% 22,4%
Châu
Á

2009

89,7%

29,6 %

Châu Phi 2009 96,2 % 32,7%
Khu vực cận Sahara
–châu Phi
2009 27,3%
Khu vực Nam Á 2009 87,4 % 22,1%

Một số quốc gia:

Brunei 2009 81,5 % 28,1%
Indonesia

2008

88,7 %

17,8 %

Nhật Bản 2009 96,8 % 46,7 %
Singapore 2005 92 % 49,6%
Việt Nam
(Số liệu giám sát
dinh dưỡng của
Viện Dinh dưỡng -
Bộ Y tế)
2009 93,5% 19,6 %

Rõ ràng tình hình nuôi con bằng sữa mẹ là vấn đề đang quan tâm vì có
ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ, trong khi tỷ lệ nuôi con
bằng sữa mẹ hoàn toàn ở nước ta vẫn còn quá thấp.


17
b) Vấn đề số bữa ăn và chất lượng ăn bổ sung:
Chất lượng chế độ ăn bổ sung liên quan đến số bữa ăn và dạng thức ăn
được sử dụng. Các dạng thức ăn phổ biến ở nông thôn hiện nay là bột gạo,
cháo, cơm nhai.

+ Về số lượng bữa ăn, chế độ chăm sóc ưu tiên không được chú trọng dẫn
đến số bữa ăn không đảm bảo và không đúng bữa đang còn tồn tại phổ
biến. Hiện nay ở nông thôn, hệ thống nhà trẻ không còn nên việc chăm
sóc trẻ được ủy thác cho người già hoặc trẻ vị thành niên. Những người
này hầu như hoàn toàn không có kiến thức dinh dưỡng. Chính vì với
chế độ chăm sóc như vậy nên dạng thức ăn được sử dụng cũng rất tùy
tiện. Có một bộ phận lớn (45%) trẻ dưới 8 tháng tuổi được cho ăn bằng
cháo nấu một lần ăn cả ngày. Đây là dạng thức ăn rất nghèo năng lượng
nhưng lại rất phổ biến ở nông thôn [34]. Nghiên cứu tại tỉnh Bắc Giang
của Viện Dinh dưỡng cho thấy chỉ có 52% trẻ được ăn bột gạo, còn lại
là ăn cháo hoặc cơm nhai [39].
+ Về chất lượng bữa ăn, tập quán nuôi dạy trẻ tùy tiện vẫn còn tồn tại khá
phổ biến ở nhiều vùng miền và có ảnh hưởng quan trọng đến tỷ lệ suy
dinh dưỡng chung trong cộng đồng. Ngày nay, trình độ dân trí đã thay
đổi đáng kể so với những thập niên trước, nhiều tập quán xấu đã được
loại trừ nhưng vấn đề cân đối bữa ăn cũng đang là tồn tại khá phổ biến.
+ Tần suất sử dụng thức ăn giầu năng lượng và giữ vai trò sinh học quan
trọng không cao; Số liệu giám sát tại tỉnh Bắc Giang của Viện Dinh
dưỡng cho thấy có 28,6% không sử dụng protein động vật; 24,2%
không sử dụng dầu mỡ; 22,5% không sử dụng rau xanh [24], [37].
+ Tập quán ăn kiêng, nguyên nhân đầu tiên là các bà mẹ không dám cho
trẻ nhỏ ăn thêm dầu mỡ, rau xanh vẫn còn tồn tại. Bên cạnh đó, bà mẹ
không có thời gian để chế biến cẩn thận từng bữa ăn cho trẻ. Nguyên


18
nhân thứ ba là do nghèo đói, không có tiền để mua thực phẩm thường
xuyên cho trẻ.
1.4.5. Trình độ văn hóa thấp và thiếu kiến thức dinh dưỡng gây ảnh hưởng
quan trọng đến chất lượng nuôi trẻ

Nhiều tập quán ăn uống không có lợi như ăn kiêng (kiêng dầu mỡ, cá,
rau xanh…) còn duy trì; không biết tận dụng nguồn thức ăn giầu dinh dưỡng
sẵn có như đậu, vừng, lạc…bán trứng gà, hoa quả để mua thực phẩm chế biến
sẵn; không cho ăn đủ bữa, không thực hành bữa ăn cân đối…
1.4.6. Thiếu vitamin và khoáng chất
Bên cạnh suy dinh dưỡng do thiếu Protein và năng lượng, khoa học
ngày nay đã thừa nhận kết quả tăng trưởng nghèo nàn ở trẻ em còn có thể do
mất cân đối các yếu tố vi lượng (như sắt, kẽm, iod- Mendoza, 1996 [82]),
vitamin (như thiếu vitamin A) hoặc một số axit béo thiết yếu và một số loại
khoáng chất khác (UNICEF, 1998), [12], [78], [73], [62].
Vi chất dinh dưỡng cần thiết cho mọi lứa tuổi, song nó ảnh hưởng rõ rệt
trên những cơ thể đang phát triển nhanh như phụ nữ mang thai, trẻ sơ sinh và
trẻ còn bú. Hầu hết các vitamin (nhóm B, vitamin A, vitamin C ) được hấp
thu chủ yếu qua thức ăn. Chỉ có vitamin D được tổng hợp ở da dưới ánh nắng
mặt trời trực tiếp.
Từ nhiều năm trước đây, người ta đã nhận thấy vai trò của các vi chất
dinh dưỡng và càng ngày người ta lại càng tập trung nghiên cứu về mối liên
quan giữa thiếu vi chất dinh dưỡng đối với tình trạng suy dinh dưỡng. Do đó,
nhiều nghiên cứu tập trung vào việc xác định xem thiếu vi chất dinh dưỡng
loại nào cản trở quá trình phát triển và quan trọng hơn là cần xác định suy
dinh dưỡng xảy ra do thiếu một hay thiếu nhiều vi chất dinh dưỡng xảy ra
đồng thời.


19
Theo Engle, mô hình nguyên nhân SDD của Quỹ nhi đồng Liên hợp
quốc (UNICEF) đã được phổ biến khá rộng rãi hoặc mô hình gần đây về
Chăm sóc Ban đầu - Care Initiative đều tập trung vào vai trò chăm sóc dinh
dưỡng sức khoẻ bà mẹ trẻ em. Trong các mô hình trên người ta không rút ra
được các yếu tố nguyên nhân của tình trạng suy dinh dưỡng [63], [64].

1.4.7. Vai trò của bệnh tật
Bệnh tật được coi là một trong hai nguyên nhân trực tiếp gây suy dinh
dưỡng ở trẻ em. Năm 1995, ở các nước đang phát triển có 55% trẻ em tử vong
do các bệnh nhiễm trùng có liên quan đến suy dinh dưỡng, dẫn đầu là bệnh
nhiểm khuẩn hô hấp cấp tính - ARI (19%), tiêu chảy (19%), sởi (7%)
(C.Murray,1996) [83], [55] (UNICEF, 1995).
1.4.8. Dịch vụ y tế, nước sạch và vệ sinh môi trường liên quan đến bệnh tật.
Một yếu tố quan trọng của nền y tế tốt là dịch vụ y tế phải đa dạng và
chất lượng tốt. Các điểm cung cấp dịch vụ phải gần với khu dân cư. Theo
đánh giá của UNDP, có tới 30-50% dân cư ở 35 quốc gia nghèo nhất không
được cung cấp dịch vụ y tế. Nước sạch và vệ sinh môi trường là những yếu tố
liên quan đến các bệnh truyền nhiễm (UNDP, 1997 [100]). Năm 2000, chỉ có
khoảng 3,2 tỷ người được cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường. Ở nông
thôn, chỉ có khoảng 18% dân cư được cung cấp nước sạch [101].
Từ năm 1990, Chiến lược dinh dưỡng của UNICEF đã phát triển quan
niệm về cấu trúc của nguyên nhân gây rối loạn dinh dưỡng theo những
nguyên lý trên. Sự phân tích đó đã được ứng dụng ở mức độ quốc gia, vùng
và phân vùng để trợ giúp cho các kế hoạch hành động cải thiện dinh dưỡng
đạt hiệu quả. Nó phục vụ cho việc lượng giá và phân tích những nguyên nhân
của vấn đề dinh dưỡng và hỗ trợ lựa chọn những vấn đề thích đáng nhất các
hoạt động phòng, chống suy dinh dưỡng.



20

Tình tr
ạng dinh
dưỡng trẻ em
Khẩu phần

của trẻ em
Tình trạng sức
khỏe của trẻ em

An ninh
LTTP h

gia đình

Chăm sóc
bà mẹ và
tr
ẻ em

Môi trư
ờng
sức khỏe
&và dịch
vụ y tế
- Sản xuất l
ương
thực, thực
phẩm

- Thu nhập

- Quà
Nguồn lực cho an
ninh lương thực
th

ực phẩm

Nguồn lực cho
chăm sóc
Ngu
ồn lực cho
sức khỏe
- Cung cấp nư
ớc
sạch
- Vệ sinh đầy đủ
- C
ó chăm sóc y
tế
- A
n toàn môi
trường
- Ki
ểm soát nguồn lực
và tự quyết của ngư
ời
chăm sóc trẻ
- Tình tr
ạng sức khỏe
thể chất và tinh th
ần
của ngư
ời chăm sóc
trẻ
- Kiến thức và ni

ềm tin
c
ủa ng
ư
ời chăm sóc

N

G

U

Y

Ê


N

N

H

Â

N


T


I


M


T

À

N

G

Cấu trúc chính trị-xã hội và kinh t
ế
Nguyên
nhân
trực tiếp
Môi trường văn hoá - xã hội

Các nguồn tiềm năng:
môi trư
ờng, công nghệ, con ng
ư
ời

Nguyên nhân

cơ b

ản

Đ Ó I N G H È O
Ngu
ồn: IFPRI: Overcoming Child Malnutrition in Developing Countries:
Past achievements and future choices; 2/2000, trang 5

Mô hHình 1.23. Mô hình nguyên nhân SDD của UNICEF


21
Đối với nước ta, mức giảm SDD không đồng đều giữa các vùng. Các
vùng tập trung dân cư đông hiện nay tỷ lệ SDD còn cao: Đồng bằng sông
Hồng 14,6%; Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung 19,8%; Đồng bằng sông
Cửu long 16,8% (Nguồn: Viện Dinh dưỡng - Tình hình dinh dưỡng Việt Nam
năm 2009-2010, tháng 4/2011). Cơ sở hạ tầng đảm bảo cho việc thực hiện có
hiệu quả các hoạt động chăm sóc trẻ em và bà mẹ không đồng đều và khó có
thể có những tiến bộ nhanh trong một thời gian ngắn. Bên cạnh đó, những
thách thức không nhỏ về tăng trưởng kinh tế trong 5 năm tới đã và đang đặt ra
đồng thời khả năng có thể có những diễn biến bất lợi về thời tiết, thiên tai.
Tóm lại: Nghèo đói chính là nguyên nhân cơ bản của suy dinh dưỡng
và mối quan hệ giữa nghèo đói và suy dinh dưỡng giống như một vòng tròn
luẩn quẩn. Tình trạng dinh dưỡng vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của các
cơ hội tìm kiếm thu nhập. Bên cạnh nghèo đói, các yếu tố khác cũng quan
trọng. Những yếu tố này bao gồm chế độ ăn không cân đối, khẩu phần ăn
thiếu về số lượng và mất cân đối về chất lượng, thực hành chế biến thực phẩm
kém, mất an toàn thực phẩm và dinh dưỡng, không có hoặc thiếu khả năng
tiếp cận nước sạch, điều kiện vệ sinh kém và dịch vụ chăm sóc sức khoẻ
không đầy đủ. Suy dinh dưỡng trẻ em còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
quan trọng khác, đặc biệt là những yếu tố liên quan đến việc sử dụng nguồn

lực trong hộ gia đình như thời gian và kiến thức của người chịu trách nhiệm
chính trong việc chăm sóc trẻ - thường là người mẹ.
1.4.9. Tình trạng nhiễm giun và tình trạng dinh dưỡng
Nhiễm ký sinh trùng đường ruột như giun đũa, giun tóc, giun móc là
một vấn đề sức khỏe cộng đồng ở các nước đang phát triển do điều kiện vệ
sinh môi trường không đảm bảo. Nhiễm giun là nguyên nhân làm cho trẻ chán
ăn, giảm hấp thu các chất dinh dưỡng, thiếu máu, và gây ảnh hưởng đến tình
trạng dinh dưỡng của trẻ. Nhiễm ký sinh trùng đường ruột với cường độ cao


22
và trong một thời gian dài có thể gây suy dinh dưỡng như thấp còi và nhẹ cân,
và ở những trường hợp nặng có thể gây tử vong (Stoltzfus, và CS, 1997;
Hadidjaja, và CS, 1998; World Bank, 2003).
Theo một số nhà nghiên cứu cho rằng trẻ em bị nhiễm giun là một
trong các nguyên nhân gây suy dinh dưỡng trẻ em, phòng chống nhiễm giun
tốt sẽ góp phần phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ trong nhà trường cũng
như tại cộng đồng ngày một tốt hơn làm giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng đến năm
2020 còn dưới 12,5%, trong nhà trường giảm 2 đến 3% so với đầu năm.
a. Tình hình nhiễm giun trên thế giới:
Hiện nay bệnh giun vẫn còn phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, nhất
là các nước ở các vùng nhiệt đới như Châu Phi, Châu Á và một số nước Châu
Âu. Ở Việt Nam, bệnh giun lưu hành khá cao.
Trên thế giới có khoảng 1,4 tỷ người đang bị nhiễm giun, trong đó trẻ
em dưới 5 tuổi là 69,5%, các nước phát triển tỷ lệ nhiễm giun ở trẻ em dưới 5
tuổi là 10%, các nước đang phát triển có nơi lên đến 90%. Ở Châu Phi trẻ em
bị nhiễm giun 93,7%, Trung Quốc có số người bị nhiễm giun là 358 triệu trẻ
em dưới 5 tuổi chiếm tỷ lệ 37,8%, Ấn Độ với số người bị nhiễm giun là gần
319 triệu, trẻ em dưới 5 tuổi là 42,1% (theo Thống kê của Tổ chức Y tế thế
giới, 1995).

Nhiễm giun đường ruột rất phổ biến ở trẻ em tại các nước đang phát
triển, đặc biệt là các nước trong vùng nhiệt đới do khí hậu nóng ẩm, tập quán
ăn uống, vệ sinh thân thể, vệ sinh môi trường kém.
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới, điều kiện khí hậu, tập quán sinh
hoạt cũng như vệ sinh môi trường rất thuận lợi cho sự phát triển và lây nhiễm
giun. Người dân chưa có thói quen rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh
chiếm tỉ lệ trên 82%, người dân còn dùng phân tươi để bón rau nên tỉ lệ nhiễm
giun ở trẻ em rất cao khoảng 80% (đặc biệt trẻ em vùng nông thôn). Tỉ lệ


23
nhiễm giun ở trẻ em khác nhau tuỳ từng vùng, từng khu vực, tuỳ theo điều
kiện phát triển kinh tế của xã hội. Ở các nước phát triển, tỉ lệ nhiễm giun ở trẻ
em dưới 5 tuổi là 10%, trong khi đó ở các nước đang phát triển thì tỷ lệ này có
nơi lên đến trên 90% .
b. Tình hình nhiễm giun ở Việt Nam
Theo số liệu của Bệnh viện Nhi Trung ương, trẻ em dưới 2 tuổi bị
nhiễm giun rất thấp 17,6%, trẻ em từ 2 đến 5 tuổi tỉ lệ nhiễm giun đũa là
84,5%, giun kim 52,3%, giun móc 9,2%. Trong thực tế trẻ em tuổi mầm non
bị nhiễm giun sẽ biếng ăn, mất ngủ, thiếu máu, suy dinh dưỡng. Các nhà
nghiên cứu đã cho thấy các biến chứng của bệnh giun như sau: viêm hoại tử
ruột non, tiêu đàm máu, tiêu chảy cấp và mạn, xuất huyết tiêu hoá, giun chui
ống mật, nhiễm trùng đường tiểu…làm ảnh hưởng đến tình trạng suy dinh
dưỡng trẻ em, sức khoẻ và sự phát triển về thể lực và phát triển trí tuệ của trẻ.
Theo số liệu điều tra gần đây của Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn
trùng Trung ương, bệnh giun truyền qua đất ở nước ta vẫn còn khá phổ biến.
Tỷ lệ nhiễm giun đũa là 33,9 triệu người (chiếm khoảng 44,4%); giun tóc là
17,6 triệu người (chiếm khoảng 23,1%) và 21,8 triệu người nhiễm giun móc
(28,6%).
Tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất phân bố rộng rãi trên cả nước, với các

tỷ lệ nhiễm khác nhau. Ở miền Bắc, nhiễm giun đũa từ 50-95%, giun tóc là
28-89%, giun móc từ 3-67%; Ở miền Trung tỷ lệ nhiễm giun đũa, giun tóc,
giun móc tương ứng là 12,5-70,5%, 12,7-47% và 36,7-69%; nhưng ở miền
Nam tỷ lệ nhiễm giun đũa, giun tóc, giun móc tương ứng là 10-60%, 0,5-1,7%
và 47-68%.
Bên cạnh đó, tỷ lệ nhiễm giun ở học sinh tiểu học đã giảm nhưng tỷ lệ
tái nhiễm tương đối cao. Chẳng hạn, tại tỉnh Thừa Thiên Huế, tỷ lệ nhiễm


24
giun trước khi can thiệp là 70%, sau can thiệp 2 tuần là hơn 24% và sau 6
tháng thì đã gần như trở lại với tỷ lệ ban đầu.
Tỷ lệ nhiễm giun tại các tỉnh như Yên Bái, Sơn La, Thanh Hóa…đều
ở mức trên 50%. Tại Hà Nội, tỷ lệ này cũng lên đến gần 20%.
c. Mối liên quan giữa nhiễm giun và tình trạng thiếu máu
Trẻ em dưới 60 tháng tuổi bị thiếu máu có nhiều nguyên nhân, trong
đó nhiễm giun đường ruột là một nguyên nhân cần được quan tâm. Nhiễm
giun gây nên chán ăn, hấp thu kém, tiêu hóa kém, viêm mạn tính ống tiêu hóa,
cạnh tranh sử dụng và làm tăng mất các chất dinh dưỡng: protein, lipid,
vitamin A Lâu dài, giun làm thiếu máu. Thiếu máu nặng sẽ ảnh hưởng đến
quá trình phát triển cả về thể chất và sự phát triển tinh thần của trẻ [24], [37].
Với phụ nữ trưởng thành và phụ nữ ở độ tuổi sinh sản, nhiễm giun ảnh
hưởng tới thời kỳ mang thai, gây thiếu máu ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe
của con cái họ, có thể gây đẻ non, trẻ thiếu cân, tử vong mẹ và tử vong sơ
sinh. Trẻ bị nhiễm giun sẽ bị rối loạn tiêu hóa, cản trở quá trình hấp thu chất
dinh dưỡng. Lâu ngày có thể khiến trẻ bị thiếu máu, sức đề kháng kém, dễ
mắc các bệnh nhiễm khuẩn.
Thiếu máu là một trong những vấn đề mang ý nghĩa sức khỏe cộng
đồng phổ biến nhất ở các nước đang phát triển. Các đối tượng có nguy cơ bị
thiếu máu cao nhất là trẻ em và phụ nữ có thai. Thiếu máu gây ảnh hưởng đến

sự phát triển trí tuệ, sự tăng trưởng, nó làm giảm khả năng họat động thể lực
và tăng nguy cơ mắc bệnh (Nestel và Davidsson, 2002). Thiếu máu có thể do
nguyên nhân như: thiếu dinh dưỡng, mắc các bệnh nhiễm trùng và do mất
máu. Thiếu sắt là nguyên nhân chính của gần 50% các trường hợp thiếu máu
(Staubli, và CS, 2001). Thiếu một số các vi chất dinh dưỡng khác như vitamin
A, một số vitamin nhóm B (B6, B12, riboflavin, và acid folic) cũng có thể gây
thiếu máu (Allen, 2002). Nguy cơ thiếu máu cũng tăng ở những đối tượng

×