8
Như vậy thế giới và khu vực đa phát triển vượt ta khá xa về mọi mặt đặc
biệt là về kinh tế. Vì thế đa đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức trong
qúa trình phấn đấu xây dựng và cải tiến nền KTTT định hướng XHCN.
2. Thực trạng quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt
Nam dưới tác động của những điều kiện cụ thể
2.1 Giai đoạn 1986 - 1991
Đây là giai đoạn đầu chúng ta chuyển sang nền KTTT. Do chưa nhận thức
được đầy đủ những yếu tố cụ thể ảnh hưởng đến nền kinh tế nên ta đa có
một số chính sách chưa đúng.
Một chính sách sai lầm trong giai đoạn này là tập trung công nghiệp hoá -
hiện đại hoá theo hướng ưu tiên cho công nghiệp nặng. Đây là một sai lầm
nghiêm trọng đa làm mất rất nhiều thời gian, tốn rất nhiều tiền bạc bởi lúc
này với xuất phát điểm và kinh tế rất thấp, cơ sở vật chất, công nghệ còn
quá lạc hậu thêm vào đó là thiếu vốn và thiếu đội ngũ các nhà khoa học tài
giỏi.
Trong khi đó ta có đầy đủ điều kiện để phát triển công nghiệp nhẹ. Sự
khéo léo cần cù của người dân Việt Nam, sự ưu đai của thiên nhiên khí
hậu tạo nên một danh mục nông sản đa dạng phong phú và nhiều loại hình
sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Với những điều kiện đó ta hoàn toàn có
thể phát triển những ngành công nghiệp nhẹ mà chỉ cần ít vốn như công
nghiệp chế biến thực phẩm, đồ mỹ nghệ,
Chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhưng trong giai
đoạn này lượng hàng hoá của chúng ta còn ít và chất lượng còn chưa tốt.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
9
Chính vì thế, hàng hoá sản xuất ra không có sức cạnh tranh trên thị trường
vì số lượng hàng hoá ít nên phần lớn vẫn phải nhập khẩu và chưa xuất
khẩu được hàng hoá ra thị trường thế giới.
Với điều kiện địa lý địa hình phức tạp, hệ thống giao thông vận tải yếu
kém như trên chưa có những chính sách phát triển kinh tế phù hợp với
từng vùng, từng miền, chúng ta đa rơi vào tình trạng đầu tư phát triển kinh
tế tràn lan, không tập trung, gây nên sự bất hợp lý giữa các vùng.
Cơ cấu giữa các thành phần kinh tế cũng là một vấn đề đáng quan tâm.
Trong giai đoạn này các thành phần kinh tế mới như kinh tế tư bản tư
nhân, kinh tế tư bản Nhà nước chưa phát triển, chủ yếu vẫn là thành phần
kinh tế Nhà nước. Nguyên nhân của vấn đề này là do ta vẫn còn chậm đổi
mới các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất đa có trong nền kinh tế bao cấp
cũ và chưa có được những chính sách phù hợp để kinh tế tư bản tư nhân
và tư bản Nhà nước phát triển.
Tóm lại, trong giai đoạn này mặc dù đa đạt được một số thành tựu, nền
kinh tế đa từng bước ổn định và phát triển, các cơn sốt do hậu quả của cơ
chế quan liêu bao cấp đa dần dà vơi đi nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn
chưa bước hẳn ra sự khủng hoảng của những năm trước đổi mới.
2.2Giai đoạn 1991 đến nay
Giai đoạn này, do đa dần điều chỉnh phù hợp với những điều kiện, nhân tố
cụ thể ảnh hưởng đến nền KTTT nên kinh tế Việt Nam đa đạt được một số
thành tựu đáng kể:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
10
Điều đầu tiên cần nói đến là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tương đối
ổn định. Giai đoạn 1986 - 1990, GDP tăng trung bình 3,9% thì đến giai
đoạn này GDP tăng bình quân 8,2%. Cơ cấu giữa các thành phần kinh tế
và các ngành cũng hợp lý hơn. Hàng loạt các công ty, doanh nghiệp tư
nhân hoạt động trong mọi lĩnh vực đa ra đời. Dịch vụ thương mại phát
triển tương đối mạnh đa tạo điều kiện cho việc sản xuất hàng hoá, làm cho
số lượng hàng hoá phong phú hơn và chất lượng không ngừng được cải
tiến. Giao thông vận tải được chú trọng sửa chữa và xây mới nên hàng hoá
đa đến được các vùng sâu, vùng xa và miền núi.
Một thành tựu quan trọng nữa là trong điều kiện nền kinh tế thế giới với
sự cạnh tranh rất khốc liệt gây ra sự phân cực giàu nghèo mạnh mẽ với
nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, Đảng ta kịp thời rút kinh
nghiệm và đa có những đường lối, chính sách định hướng cho nền kinh tế
phát triển theo đúng định hướng XHCN, hướng thị trường hàng hoá vào
ưũy đạo cạnh tranh lành mạnh cùng phát triển. Chính vì vậy nền KTTT
của ta chẳng những không xảy ra khủng hoảng mà còn tránh được ảnh
hưởng tiêu cực từ những cuộc khủng hoảng kinh tế ở các nước trong khu
vực và thế giới mà cụ thể là cuộc khủng hoảng tiền tệ vào năm 1997. Tuy
nhiên nền kinh tế nước ta so với khu vực và thế giới vẫn là một nền kinh
tế kém phát triển, cần có nhiều biện pháp để phát triển theo kịp các quốc
gia khác.
KTTT đa ra đời và phát triển qua nhiều gia đoạn và cho đến bây giờ nó
vẫn là kiểu kinh tế xa hội tiến bộ nhất. Trải qua các giai đoạn phát triển,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
11
KTTT ngày càng được hoàn thiện và được áp dụng trên nhiều quốc gia.
Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam mặc dù mới ra đời cách đây
hơn một thập kỷ nhưng cũng đa trải qua nhiều thăng trầm, không ngừng
vận động và luôn biến đổi dưới sự tác động của nhiều yếu tố cả bên ngoài
lẫn bên trong bản thân nền kinh tế. Các yếu tố này vừa không ngừng có
ảnh hưởng đến sự phát triển của nền KTTT vừa chịu sự tác động của chính
nền KTTT đó. Như vậy, trải qua mỗi giai đoạn lại hình thành nên những
yếu tố mới khiến cho công cuộc xây dựng và phát triển nền KTTT định
hướng XHCN Việt Nam ngày càng phức tạp, đòi hỏi phải có sự phân tích
kỹ lưỡng chi tiết kịp thời từng yếu tố. Chính vì vậy quan điểm lịch sử cụ
thể luôn là quan điểm gắn liền với quá trình xây dựng nền KTTT định
hướng XHCN Việt Nam.
III. Một số giải pháp nhằm xây dựng nền KTTT theo định hướng XHCN
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang từng bước xây dựng cơ sở vật
chất để đẩy mạnh quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN nhanh
chóng đưa đất nước trở thành nước công nghiệp hóa hiện đại hóa. Và việc
nghiên cứu tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng để tìm ra các giải pháp nhằm
khắc phục những mặt yếu kém phát huy những mặt mạnh đang là vấn đề
bức thiết. Cụ thể :
Đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trước mắt cần
tiếp tục cải tiến hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài với những
qui định rõ ràng thông suốt và đơn giản. Về lâu dài cần tiến tới xây dựng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
12
một hành lang pháp lý chung cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng như
trong nước để tạo một sân chơi bình đẳng.
Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong nước. Trong lĩnh
vực này, huy động tiết kiệm là mục tiêu hàng đầu, từ đó sẽ phát huy được
hết các nguồn nội lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tiếp tục cân đối lại các thành phần kinh tế và các ngành; chú trọng phát
triển kinh tế giữa các vùng hợp lý hơn. Tăng cường hội nhập hợp tác với
các nền kinh tế trong khu vực và thế giới; giữ vững vai trò của Nhà nước
trong việc điều tiết vĩ mô, định hướng nền KTTT theo định hướng XHCN,
lấy công bằng xa hội làm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, bảo đảm nguồn
nhân lực thông qua hệ thống giáo dục đào tạo, bảo đảm y tế, nâng cao
trình độ văn hoá cho người lao động. Giữ vững an ninh, trật tự xa hội,
củng cố sự nghiệp quốc phòng an ninh nhằm ngăn chặn mọi thế lực phản
động phá hoại trong và ngoài nước; Tích cực cải tạo xa hội, xoá bỏ các tệ
nạn xa hội như tham nhũng, nghiện hút, mại dâm, ma tuý, hạn chế ô
nhiễm môi trường, giữ vững sự cân bằng sinh thái. Muốn vậy cần nâng
cao nhận thức con người trong việc bảo vệ giữ gìn cuộc sống của chính
họ; vận dụng sáng tạo, không rập khuôn các mô hình KTTT trên thế giới;
Có phương hướng kết hợp định hướng XHCN với tăng trưởng kinh tế
trong những năm tới.
C. kết luận
Với việc áp dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào công cuộc đổi mới kinh tế
ở Việt Nam, chúng ta đa có được một nền kinh tế thị trường năng động,
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
13
một nền kinh tế theo định hướng XHCN với những thành tựu hết sức to
lớn: Nhịp độ bình quân hàng năm về sản phẩm quốc nội trong 5 năm 1991
-1995 là 8,5%, nhịp độ tăng bình quân hàng năm về sản xuất công nghiệp
là 13,3%, sản xuất nông nghiệp là 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%. Cơ
cấu kinh tế có bước chuyển đổi tích cực: tỷ trọng công nghiệp và xây
dựng trong GDP từ 22,7% năm 1990 lên 30,3% năm 1995, tỷ trọng dịch
vụ từ 38,6% lên 41,5%. Bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Vốn đầu
tư cơ bản toàn xa hội tăng từ 15,8% GDP năm 1990 lên 27,7% năm 1995.
Lạm phát bị đẩy lùi từ 67,1% năm 1991 xuống 12,4% đầu năm 1995.
Quan hệ sản xuất được điều chỉnhphù hợp hơn với yêu cầu của lực lượng
sản xuất. Số hộ có thu nhập trung bình số hộ giàu tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo
giảm.
Bên cạnh những thành tựu đa đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn còn những
hạn chế nhất định, đất nước ta vẫn còn chậm phát triển so với khu vực và
thế giới. Chúng ta cần phải áp dụng các giải pháp hợp lý để cải thiện tình
hình, đặc biệt chú trọng đến sự vận dụng đến sự vận dụng sáng tạo để có
được một nền KTTT hoàn chỉnh, phát huy hết tính ưu việt của nó và tránh
được những sai lầm của nền KTTT của các quốc gia khác.
Từng bước thực hiện các giải pháp để đề ra, Việt Nam sẽ có thêm tự tin
bước vào thế kỷ 21 với những thách thức mới, cơ hội mới. Nền KTTT
định hướng XHCN Việt Nam sẽ ngày càng phát triển ổn định và nhanh
chóng đuổi kịp trình độ của thế giới, trở thành một nước công nghiệp phát
triển trong tương lai không xa.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
14
d.Tài liệu tham khảo
1. Sách:
- Nguyễn Sinh Cúc “Kinh tế thị trường định hướng xa hội chủ nghĩa” -
NXB Chính trị quốc gia TP - HCM, năm 1996.
- Giáo trình “Triết học Mác - Lênin” - Tập II, NXB Chính trị quốc gia,
1997.
2. Tạp chí:
- Nghiên cứu trao đổi số 11 tháng 6 năm 1998.
- Triết học số 4 (110) - tháng 8 - 1998.
- Những vấn đề kinh tế thế giới số 1 (45) năm 1997.
- Cộng sản số 4 (2-2000).
- Triết học số 2 (96) tháng 4 - 1997.
- Triết học số 2 (108) tháng 4 - 1999.
- Triết học số 2 - 2001
Và một số tạp chí khác.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -