Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng_2 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.22 KB, 6 trang )

Cảm hứng lịch sử
trong tiểu thuyết
Nguyễn Huy Tưởng




Thời gian trong tiểu thuyết lịch sử là thời gian quá khứ. Trong hai tiểu thuyết Đêm
hội Long Trì và An Tư, Nguyễn Huy Tưởng tuân thủ thời gian theo trật tự tuyến tính, theo
trình tự các sự kiện xảy ra, với con mắt của một sử gia thế hệ sau, đã biết trước kết cục của
nó, không có thời gian hồi chỉ. Nhưng nhà văn cũng khéo léo tạo ra những khoảng thời gian
kéo dài hay dồn nén để tạo nên kịch tính cho cốt truyện. Ví như đoạn miêu tả đêm tân hôn
của Quỳnh Hoa được miêu tả trong quãng thời gian rất dài với rất nhiều sự kiện, nhằm làm
nổi bật sự bất hạnh của nàng. Trong khi đó, cả quãng đời còn lại của nàng chỉ được tóm gọn
trong lời thông báo: “đã ngót hai tháng nay, cậu Trời không xuống phủ. Dân gian đã mừng
và cho rằng vì lấy quận chúa nên Lân đỡ ngông cuồng”. Thời gian trong tiểu thuyết An
Tư cũng biến chuyển linh hoạt theo đời sống nội tâm của nhân vật. Đêm chia tay Trần
Thông, An Tư thấy thời gian thật ngắn ngủi, trong khi đó thời gian sống trong trại giặc,
ngóng tin quân nhà lại kéo dài lê thê theo diễn biến nỗi nhớ, nỗi tủi nhục trong lòng nàng.
Nhà văn không trình bày thời gian theo lối sử biên niên như hình thức trần thuật của những
tiểu thuyết lịch sử trung đại. Thời gian ở đây mang tính phiếm chỉ, không có dấu mốc cụ thể
của ngày tháng năm nhưng người đọc có thể xác định qua những hình ảnh tín hiệu thời
gian: cái rét nàng Bân, tiếng chim vịt gọi vào hè, những trận mưa rào đầu hạ. Xoá đi tính
biên niên, Nguyễn Huy Tưởng đưa quá khứ về gần với hiện tại, chuyện của hôm qua mà
như chuyện của ngày hôm nay.
Sống mãi với thủ đô có một cấu trúc thời gian thật đặc biệt so với hai tiểu thuyết trên.
Độ dồn nén thời gian căng thẳng trong một không gian chật hẹp và bức bối là một môi
trường thử thách nghiệt ngã đối với bản lĩnh của dân tộc và cá nhân con người. Mấy chục
tiếng đồng hồ ngắn ngủi trong tác phẩm là một ranh giới mong manh giữa chiến tranh và
hoà bình, giữa sự sống và cái chết, giữa độc lập tự do và nô lệ, giữa anh hùng và đê hèn.
Chọn thời gian ngắn ngủi, nhà văn đã cô đúc được những gì tiêu biểu nhất của mốc lịch sử


trọng đại, thể hiện tập trung nhất những gì là tinh thần của cuộc kháng chiến. Dù thời gian
trong tiểu thuyết cách thời gian tác giả sáng tác không xa nhưng nó là “hiện thực đã hoàn
kết”. Vấn đề đặt ra với nhà văn là phải phục sinh con người và sự kiện trong tác phẩm, để
những gì đã xảy ra, diễn ra chân thực trong con mắt người đọc, khám phá nó ở những vỉa
tầng chưa biết, để người đọc có dịp so sánh, chiêm nghiệm với hiểu biết của họ. Thời gian
miên man theo những suy ngẫm của nhân vật xen lẫn thời gian khách thể. Đan xen vào thời
gian tuyến tính theo diễn biến chiến sự, nhà văn đan cài cả những đoạn thời gian hồi tưởng
theo dòng suy tư của nhân vật. Có thể nói chính thời gian tâm trạng giúp người đọc cảm
nhận, thấu hiểu rõ hơn về con người trong quá khứ, biết được họ đã sống và chiến đấu với
tinh thần như thế nào.
Trong tiểu thuyết của mình, Nguyễn Huy Tưởng giữ được sự độc lập, không phụ
thuộc quá nhiều vào thời gian hiện thực của quá khứ. Coi trọng quá khứ, nhưng biết khéo
léo kết hợp với góc nhìn hiện tại, nhà văn tạo ra cảm quan song hành giữa quá khứ và hiện
tại. Sự cô đúc thời gian làm cho con người của ngày hôm qua trở nên gần gũi hơn với con
người hôm nay, với những góc nhìn, phân tích mổ xẻ tâm lý sâu sắc.
4. Hư cấu nghệ thuật.
Tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng rất khác với tiểu thuyết lịch sử của
những người đi trước. Nguyễn Triệu Luật thành công trong việc dựng lại không khí lịch sử
một cách khá chính xác bằng sự khai thác những yếu tố, chi tiết li kỳ chốn thâm cung
nhưng vì thế mà ít đi chất tiểu thuyết. Lan Khai và Khái Hưng chỉ dựa vào bối cảnh lịch sử
để tập trung khai thác khía cạnh lãng mạn của tiểu thuyết diễm tình. Nguyễn Huy Tưởng
dựa vào một dữ kiện lịch sử có thật được ghi trong chính sử rồi xây nên tiểu thuyết, với
những nhân vật, việc thật và hư cấu thêm tình tiết nhằm tạo dựng những câu chuyện ngợi ca
lịch sử. Đêm hội Long Trì dựa trên một chi tiết hiện thực xảy ra trong lịch sử cuối thế kỷ
XVIII dưới thời Trịnh Sâm. Vượt lên trên cách khai thác lịch sử của những nhà tiểu thuyết
đương thời, Nguyễn Huy Tưởng đã sàng lọc, lựa chọn một chi tiết để dựng lên những luận
đề về chính trị: về sự thao túng của nữ sắc trong một tập đoàn phong kiến, về vai trò kẻ sĩ
trước thời cuộc, trong sự vận động theo dòng lịch sử. An Tư khai thác một chi tiết khá mờ
nhạt trong trang sử oanh liệt và hào hùng thời đại nhà Trần, viết về một nhân vật chính sử
“cố tình bỏ quên”. Không lựa chọn những anh hùng dân tộc đã quá quen thuộc trong sử

sách, chọn An Tư, Nguyễn Huy Tưởng muốn nhấn mạnh bài học lịch sử về tinh thần hi
sinh, nghị lực và niềm tin vào sức mạnh đoàn kết của dân tộc nằm trong những con người
bé nhỏ, vô danh. Hư cấu về một mối tình bi thảm của nàng công chúa tài sắc với chàng
tráng sĩ Trần Thông, nhà văn muốn nói sâu hơn về những vấn đề mà lịch sử thường lạnh
lùng lướt qua: thân phận tình yêu, số phận người phụ nữ trong mỗi cuộc chiến tranh. Từ
những hư cấu về các nhân vật Thiệu Bảo, Hưng Đạo, nhà văn muốn bàn luận sâu hơn về
các biểu hiện của lòng yêu nước trong mỗi thời điểm. Dù là quá khứ hay hiện tại, đứng
trước nạn xâm lăng, hai tư tưởng chiến hay hoà luôn luôn chao đảo trong tư tưởng của
chính những nhà lãnh đạo. Sống mãi với thủ đô khai thác một đoạn lịch sử ngắn nhưng
ngổn ngang, chồng chất những sự kiện và bi kịch. Không chọn hình ảnh Hà Nội rực rỡ, hào
hùng trong ngày tổng khởi nghĩa để làm đề tài, Nguyễn Huy Tưởng chọn thời điểm mở đầu
cuộc kháng chiến của thủ đô để phản ánh. Nhìn ở góc độ lịch sử thì đây là thời điểm cam go
với một chính phủ non nớt, một nền Cộng hoà vừa chào đời. Cuộc kháng chiến diễn ra
trong con mắt của nhà văn không hào hùng như các tác giả cùng thời văn học minh họa vẫn
ca ngợi, ngược lại nó chứa đựng rất nhiều sự bất ổn, lộn xộn. Không còn sự đồng thuận một
lòng của những hội nghị Diên Hồng, Bình Than năm xưa, lòng người đi theo kháng chiến
còn nhiều băn khoăn và hoài nghi. Hiện thực được tái hiện hết sức chân thực, Hà Nội đổ nát
và tăm tối trong đêm phát lệnh kháng chiến gợi cảm giác bi hơn là hùng. Người Hà thành
chiến đấu với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” nhưng tất cả những con người
tham gia kháng chiến đều mang trong mình niềm khao khát sống mãnh liệt. Hình ảnh Trần
Văn đón lấy bé Diễm trong tay Trinh, “mùi thơm của cái chăn và mùi sữa hoi hoi như át
được cái mùi tanh tưởi của máu và mùi khét của súng đạn đầy trong không khí của cái đêm
giá lạnh”, gợi cho độc giả niềm xúc động sâu sắc về khát vọng sống trong cảnh chết chóc.
Hiện thực đi qua cảm nhận riêng của nhà văn đã mang những ý niệm riêng. Mỗi thảm kịch
chiến tranh đều hàm chứa những luận đề về thân phận con người trong dòng thác lịch sử.
Tuy nhiên bên cạnh những cái tiều tụy, bất ổn của hàng ngũ quân kháng chiến người ta vẫn
thấy nhiệt tình cháy bỏng của những người dám dấn thân vào gian khổ vì đại nghĩa.
Nguyễn Huy Tưởng không khai thác hiện thực với tất cả sự bề bộn của nó, mà là
người biết tinh lọc, từ những chi tiết ấy, ông hư cấu theo tinh thần của hiện thực, phát triển
theo tư duy của con người hiện đại. Thành công của tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Huy

Tưởng chính là ở chỗ phản ánh trung thực quá khứ, không tô hồng, không nhuộm đen mà
để người đọc tự cảm nhận về bài học lịch sử.
5. Ngôn ngữ nghệ thuật
Nguyễn Huy Tưởng không có văn phong cầu kỳ như Nguyễn Tuân, không thâm
thúy như Nam Cao, không sắc sảo, trào lộng như Vũ Trọng Phụng, mà có chất văn điềm
đạm, uyên thâm pha chút lãng mạn, hào hoa như cốt cách con người ông. Nguyễn Huy
Tưởng viết với một văn phong cổ điển và cao sang. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết
của ông có sự tinh tế, trầm lắng, thanh lịch, không ồn ào, phô trương. Cảm hứng lịch sử
buộc nhà văn chọn cho mình một văn phong mang tính trang nghiêm cổ kính. Dù viết về
quá khứ xa xưa hay hiện thực cách ông mới chỉ một thập kỷ, dù đó là chi tiết trong sử
sách hay chỉ là hư cấu nhưng ngôn ngữ vẫn gợi cho ta cảm giác lịch sử từng diễn ra như
thế. Ngôn ngữ của ông làm sống lại những cung điện, đền đài, làm sống lại sự xa hoa,
sống lại những nhan sắc khuynh thành, làm sống lại cả những bất hạnh của dân chúng lầm
than. Ngôn ngữ của ông làm phục sinh khí thế hào hùng của những chiến trận lịch sử. Nó
là sản phẩm của những suy tư trăn trở, những băn khoăn lâu dài của người cầm bút, để
hoàn thành một tác phẩm nghệ thuật sống mãi với thời gian, một thứ văn chương cổ điển
mẫu mực với mọi thời. Chất cổ điển trong ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn thể hiện ở âm
hưởng biền ngẫu, nghiêm trang, đài các. Vốn liếng cổ văn dầy dặn đủ phát huy trong việc
tái tạo lại không khí cổ sử, với những đối thoại gắn bó với nghi thức triều đình. Không
phụ thuộc nhiều vào những tư liệu từ những pho tiểu thuyết lịch sử trước đó, Nguyễn Huy
Tưởng tự nghiên cứu về xã hội, phong tục, ngôn ngữ thời đại, hư cấu thêm để tạo nên một
bối cảnh khá chính xác. Viết về lịch sử bằng tinh thần trung thực, khách quan, Nguyễn
Huy Tưởng luôn giữ một thái độ đúng mực trong sự phản ánh. Không như một số tác giả
khác thường bộc lộ sự yêu ghét rõ ràng trong ngôn ngữ, đôi khi thô thiển, Nguyễn Huy
Tưởng chọn những khinh ngữ chứ không dùng lối thậm xưng, cường điệu. Với Tuyên phi,
Tĩnh vương, tác giả không thoá mạ, chỉ nhẹ nhàng phản ánh: “Tĩnh vương chỉ vì say đắm
Tuyên phi mà toàn làm những điều bất chính”. Viết về Thoát Hoan (An Tư) và viết về
người Pháp (Sống mãi với thủ đô) sau này, Nguyễn Huy Tưởng vẫn giữ một giọng văn
hoà nhã, đưa ra những khía cạnh hào hoa, nhân bản của kẻ địch. Đây là lý do vì sao văn
phẩm và tên tuổi của nhà văn vẫn đồng hành với người đọc hôm nay, vẫn được sẻ chia và

trân trọng.
Với một tiểu thuyết về thời hiện đại như Sống mãi với thủ đô, nhà văn không thể
dùng lớp từ cổ để tạo ra không khí lịch sử. Ngôn ngữ ở tác phẩm này là ngôn từ hiện đại,
song được chọn lọc kỹ lưỡng, nên những đối thoại, độc thoại nội tâm của các nhân vật
phù hợp với thời đại, với xuất thân và cá tính của họ. Sắc thái lịch sử trang nghiêm được
gợi lên từ những đoạn văn tả cảnh hay hoài niệm của nhân vật. Thế giới nhân vật và sự
kiện theo đó tạo cảm giác sống động mà chân thực như vừa bước ra từ những trang sử
hôm qua. Viết về đề tài lịch sử nhưng chất văn của Nguyễn Huy Tưởng không hề khô
khan mà trái lại, đậm màu sắc lãng mạn. Chất lãng mạn thấm trong những dòng miêu tả
về Hà Nội, về thủ đô yêu dấu. Khác với giọng văn lãng mạn của Thạch Lam, Vũ Bằng,
những nhà Hà Nội học, Nguyễn Huy Tưởng viết về Thăng Long xưa và nay bằng cảm
nhận của một nhà văn hoá. Những trang văn viết về Hà Nội bàng bạc một chất thơ như
màn sương Tây Hồ những ngày cuối thu. Màn sương khói ấy gợi ra phong vị cổ kính
của mảnh đất ngàn năm tuổi, hứa hẹn nhiều vỉa tầng văn hoá chờ đợi người khám phá,
tạo nên sức cuốn hút đặc biệt. Có nhiều độc giả sau khi đọc văn ông đều có chung nhận
xét: “Muốn tìm cốt cách của người Hà thành gốc, phải đọc văn Nguyễn Huy Tưởng”.
*
Trân trọng quá khứ, tự hào về truyền thống dân tộc là điều nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng muốn gửi gắm qua tác phẩm của mình. Ước mơ được tái hiện mọi khoảnh khắc
trọng đại dù ở quá khứ hay hiện tại để lưu truyền cho hậu thế đã thôi thúc nhà văn đi theo
cảm hứng lịch sử. Mỗi câu chuyện, mỗi bài học lịch sử của cộng đồng hay cá nhân được
đan lồng khéo léo bằng các thủ pháp nghệ thuật tự sự hiện đại, cho đến nay vẫn còn
nguyên sức hấp dẫn với độc giả
___________

×