Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tổng quát cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1427)_2 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.39 KB, 6 trang )

Tổng quát cuộc Khởi nghĩa
Lam Sơn (1418 - 1427)

Nguyên nhân

Năm 1416, Lê Lợi và các cộng sự mở Hội thề Lũng Nhai, bắt đầu khởi
nghĩa chống quân Minh xâm lược.

Ban đầu nghĩa quân lập chiến khu ở vùng núi Lam Sơn (Thanh Hóa),
mặc dù có giành được một vài thắng lợi ở Lạc Thủy, Mường Một,
Mường Chánh, nhưng lực lượng mỏng lại bị quân Minh trấn áp quyết
liệt, nên phải rút về lập chiến khu mới ở vùng núi Chí Linh tại thượng
nguồn sông Chu (thuộc xã Giao An giữa Lang Chánh và Thường Xuân
của Thanh Hóa) vào khoảng năm 1418. Tại Chí Linh, quân Việt tiếp tục
gặp phải khó khăn về lương thực và lực lượng, bị quân Minh tấn công
dữ dội. Lê Lai đã phải cảm tử, đóng giả Lê Lợi để cứu nguy cho chủ
tướng. Giữa năm 1419, quân Minh lập căn cứ ngay tại vùng Lam Sơn,
gây sức ép mạnh trực tiếp tới Chí Linh, quân Việt buộc phải di chuyển
căn cứ của mình tới vùng Mường Khôi ở thượng lưu sông Mã, và phải
xin viện trợ về lương thực và voi, ngựa của các bộ tộc Lào. Nhưng về
sau Lê Văn Luật gièm pha, nên Lào không giúp nữa và còn liên minh
với quân Minh đánh quân Việt. Cuối năm 1420, sau khi hạ được trại
Quan Du của quân Minh, Lê Lợi chuyển đại bản doanh của mình về đây.
Đầu năm 1423, quân Minh sử dụng lực lượng lớn đánh vào Quan Du,
quân Việt phải rút về huyện Khôi (Nho Quan). Quân Minh phối hợp với
quân Lào tiến đánh huyện Khôi, tuy quân Việt phòng thủ thành công,
nhưng cũng thiệt hại lớn và nhận thấy huyện Khôi nằm giữa Tây Đô và
Đông Quan là những căn cứ lớn của địch, nên không phải là nơi thuận
lợi. Tháng 5/1423, quân Việt quay trở lại vùng núi Chí Linh, tướng sĩ
đều kiệt quệ, lương thực thiếu nghiêm trọng, lại rút tiếp về Lam Sơn.
Nhân việc nhà Minh giao chiến lớn với Mông Cổ ở phía Bắc, quân Minh


và quân Việt tạm hòa hoãn. Trong thời gian hòa hoãn khoảng 1 năm,
nghĩa quân Lam Sơn tranh thủ đẩy mạnh sản xuất, tích trữ lương thực,
chiêu mộ binh sỹ, và đặc biệt là nghiên cứu tìm một căn cứ chiến khu
mới.

Nguyễn Chích đã đề xuất nghĩa quân lấy Nghệ An làm nơi trú chân mới
vì nơi đây lực lượng quân Minh mỏng nên dễ giải phóng, lại xa Đông
Quan và Tây Đô nên sức ép của quân Minh không mạnh. Phía Nam
Nghệ An là vùng Tân Bình-Thuận Hóa, nơi lực lượng quân Minh không
nhiều. Điều quan trọng nữa là Nghệ An có thể cung cấp sức người cho
quân khởi nghĩa. vùng đồng bằng Nghệ An khi được giải phóng có thể
cung cấp lương thực.

Cuối năm 1424, Lê Lợi quyết định tiến hành chiến dịch giải phóng Nghệ
An.

Diễn biến

Quân Lam Sơn quyết định tiến theo đường núi vào Nghệ An, giải phóng
miền núi Nghệ An, và tiếp theo giải phóng vùng đồng bằng tại đây.

Trận Đa Căng

Để dọn đường vào Nghệ An, quân Việt đánh thành Đa Căng (ở Thọ
Xuân) vào ngày 12/10/1424. Thành này do Lương Nhữ Hốt, một viên
tướng người Việt theo quân Minh giữ chức tham chính, làm chỉ huy.
Trận này quân Việt giành thắng lợi, diệt hơn 1 ngàn quân địch, thu hết
quân giới, đốt sạch trại thành của địch. Lương Nhữ Hốt bỏ chạy về thành
Tây Đô. Quân Minh do Hoa Anh chỉ huy đến đánh, bị thua, cũng rút về
Tây Đô.


Trận Bồ Đằng

Sau khi đánh xong Đa Căng, quân Việt theo đường núi Bồ Lạp ở lưu
vực sông Hiếu, sông Con và sông Lam thuộc huyện Quỳ Châu ngày nay,
tiến tới đánh thành Trà Lân. Quân Minh chia làm 2 cánh chặn đầu và
chặn đuôi quân Việt. Cánh chặn đầu do Sư Hựu (người Minh, giữ chức
đồng tri), Cầm Bành (người Việt, giữ chức tham tri phủ châu Trà Lân),
Cầm Lạn (người Việt giữ chức tri phủ ở Quỳ Châu) chỉ huy có 5 nghìn
quân. Cánh chặn hậu do Trần Trí (tổng binh), Lý An, Phương Chính,
Thái Phúc (đều là người Minh) chỉ huy dẫn quân từ thành Tây Đô tới.

Cánh chặn hậu của quân Minh bị quân Việt phục kích đánh thua ở Bồ
Đằng (Quỳ Châu), phải rút lui. Trận này, quân Việt tiêu diệt trên 2000
quân địch, chém được Trần Trung (hoặc Trần Quý) là đô ty người Minh.
Cánh chặn đầu của quân Minh không dám đánh nữa, mà rút về lập trại ở
Trịnh Sơn để bảo vệ thành Trà Lân.

Trận Trà Lân

Thành Trà Lân ở châu Trà Lân là một sơn thành tọa lạc tại một trái núi ở
bờ Bắc sông Lam, chỗ hợp lưu của sông Con với sông Lam thuộc địa
phận xã Bồng Khê, huyện Con Cuông ngày nay. Thành này trấn giữ
đường từ miền núi Nghệ An xuống vùng đồng bằng. Thành đắp theo thế
núi, chu vi khoảng 2 km, ngoài có hàng rào tre và hào sâu. Lực lượng
của Cầm Bành vào khoảng 2.000 người.

Quân Việt vây thành Trà Lân, vừa đánh vừa dụ hàng. Cầm Bành cố thủ,
nhưng quân lính trốn mất dần. Tổng binh Trần Trí ở thành Nghệ An sau
trận thua đau ở Bồ Đằng không dám đến cứu Cầm Bành. Sơn Thọ (quân

Minh) thả sứ của quân Việt là Lê Trăn để xin Lê Lợi hòa hoãn.

Sau 2 tháng bị vây đánh, Cầm Bành xin hàng. Lê Lợi tha cho Cầm Bành,
tuyển mộ thêm 5000 tân binh. Thế lực của quân Việt lớn mạnh thêm.
Thành Trà Lân trở thành một căn cứ của quân Việt, khống chế cả vùng
miền núi Nghệ An, uy hiếp thành Nghệ An.

Trận ải Khả Lưu - Bồ Ải

Bị vua Minh phê bình, Trần Trí đành tiến quân tái chiếm Trà Lân. Từ
thành Nghệ An tới thành Trà Lân phải đi qua ải Khả Lưu, cách thành
Trà Lân khoảng 40 km.

Lê Lợi dẫn quân tới ải Khả Lưu, cho làm các hoạt động nghi binh tại ải
này, và bố trí trận địa mai phục ở sau ải. Mặt khác, ông phái một cánh
quân tinh nhuệ đến phục ở Bãi Sở (Long Sơn, Anh Sơn), sát trại Phá Lũ
của quân Minh.

Quân Minh đánh ải Khả Lưu, quân Việt giả vờ thua chạy nhử địch vào
trận địa mai phục rồi ập lại đánh. Trong khi đó, cánh quân Việt ở bãi Sở
đánh úp, chiếm được doanh trại Phá Lũy. Hai trận này, quân Minh bị
thiệt hại rất nặngTuy nhiên số quân Minh còn lại tiếp tục lập trại trên các
núi để ngăn chặn quân Việt. Lê Lợi bèn cho đốt phá trại ở Khả Lưu rồi
rút quân về ải Bồ (Đức Sơn, Anh Sơn) và bố trí một trận mai phục ở
đây. Quân Minh thấy quân Việt rút liền truy kích nhưng lại rơi vào ổ mai
phục, bị thiệt hại nặng; đô ti Chu Kiệt bị quân Việt bắt, và tiên phong
Hoàng Thành bị tử trận. Trần Trí phải rút tàn quân về thành Nghệ An cố
thủ.

Trận Độ Gia


Từ sau các trận Bồ Đằng, Trà Lưu, Khả Lưu, thanh thế của Lê Lợi nổi
mạnh, các lực lượng khởi nghĩa của người Việt ở Nghệ An đều xin theo.
Nhiều châu, huyện được giải phóng thêm. Cả Cẩm Quý, người Việt làm
tri phủ cho quân Minh ở phủ Ngọc Ma cũng xin quy thuận. Quân Việt áp
sát thành Nghệ An, đưa thành này vào thế bị cô lập. Quân Minh từ thành
Nghệ An đánh ra vài lần đều thất bại, đành cố thủ bên trong.

Đầu năm 1425, Quân Minh từ thành Đông Quan do Lý An chỉ huy đi
đường biển vào chi viện cho mặt trận Nghệ An. Quân Trần Trí từ trong
thành đánh ra. Quân Việt dụ đối phương đến cửa sông Độ Gia và dùng
chiến thuật phục kích đánh bại. Trần Trí chạy về Đông Quan. Lý An ở
lại cố thủ thành Nghệ An.

×