ĐẶC TRƯNG VỀ TINH THẦN ĐOÀN KẾT
CỦA PHONG TRÀO TÂY SƠN
Do đó, vấn đề vời gọi và sử dụng nhân tài, tức là tập hợp một bộ
tham mū đồng tâm nhất trí đã trở thành một quan tâm rất bức xúc
trong suy tư và hoạt động của Nguyễn Huệ. Ông tranh luận cởi mở
và nhiều lần kiên trì thuyết phục Trần Công Xán - một danh sĩ Bắc
Hà; ông tha thiết mời gọi bằng lời lẽ nhún nhường, bằng thái độ
"chiêu hiền đãi sĩ" với ẩn sĩ Nguyễn Thiếp: "15 năm tới bây giờ chưa
một phút nào quên tìm người tài giỏi nay trông lên thành Lục Niên
có người tài ở đó, ấy là trời dành Phu tử cho Quả đức vậy", cũng
không ngoài mục đích đó. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, việc Trần Công
Xán khăng khăng thà chết cho lòng trung với vua Lê, Nguyễn Thiếp
nhất mực chối từ , không nhận lờ xuống núi cũng cho ta thấy rằng
lực hấp đẫn của phong trào, của Nguyễn Huệ chưa đủ mạnh đối với
tri thức, quan lại triều cũ, thức tỉnh họ rũ được quan niệm "trung
quân" truyền thống.
Thế nhưng, từ cuối năm 1786, sau khi hoàn tất thoát vượt sự kiềm
tỏa của Nguyễn Nhạc, trở thành lãnh tụ chính của phong trào thì
Nguyễn Huệ đã bắt tay ngay vào việc thực hiện những nhiệm vụ to
lớn, phức tạp: củng cố và tăng cường lực lượng, trấn áp những thế
lực chống đối đang ngóc dậy, thiết lập quyền kiểm soát trên lãnh thổ
phía Bắc, cắt đặt quan chức, thu phục nhân tài, yên ủy muôn dân.
Đến giữa năm 1788, ông hành quân ra Bắc giết tướng Vũ Văn Nhậm,
trao binh quyền cho tướng Ngô Văn Sở. Theo một số tài liệu thì Ngô
Văn Sở xuất thân từ dòng dõi "Thạch Hà tướng phiệt", một dòng họ
nhiều đời phục vụ chính quyền Lê Trịnh. Các chức hiệp trấn và vị trí
quan trọng ở các bộ do tướng soái Tây Sơn đảm lãnh. Nguyễn Huệ
hạ chỉ văn để Lê Duy Cận làm giám quốc, tập trung phủ dụ triều Lê
để nêu rõ chính nghĩa của mình và kêu gọi họ "ở lại giúp đỡ giám
quốc". Với các danh sĩ ông chủ động phái người tìm mời, tiến cử.
Nhớ lại trước đây, hồi ra Thăng Long lần 1 (1786), quan lại triều cũ
nói chung "thấy thần sắc của Bắc Bình Vương nghiêm nghị, rực rỡ, ai
cũng run sợ, hãi hùng". Ngay cả khi tướng tiết chế Vũ Văn Nhậm
được sai ra giết Nguyễn Hữu Chỉnh, tình hình cũng chưa sáng sủa
thêm là bao. Vũ Văn Nhậm tưởng rằng "uy vũ của mình đủ khiến
người ta phải phục", thế mà, nhân danh Nguyễn Huệ, ông lệnh "đòi
các quan văn võ phải đến chầu hầu rốt cuộc, các viên quan có thế
lực cũng chẳng ai đến".
Khác hẳn tình hình trên, bây giờ, bao trùm Thăng long cổ kính là bầu
không khí cởi mở và tin tưởng. Ngay từ ngày đầu nhiều người đã ra
mắt Nguyễn Huệ: các tiến sĩ Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nhuyễn
Thế Lịch, Ninh Tôn, Nguyễn Bá Lân Đối với những người này, tất
thảy, Nguyễn Huệ đều đối xử chân thành, không kiểu cách. Ông dành
cho họ sự thù tiếp thân mật, giản dị, tin cậy, ban cho họ tước phẩm;
dùng họ vào những chức vụ quan trọng tương ứng với tài năng của
mỗi người. Mặt khác, tôn trọng quyền lựa chọn của các cựu thần, ông
đã đồng ý để những người như tiến sĩ Phan Lê Phiên, tiến sĩ nguyễn
Hoàn về lại cố hương dưỡng nhàn như sở ngưyện "cho giữ nguyên
chức tước , sai bộ Lễ cấp phát giấy tờ" cho họ. Với những ai còn náu
mình ẩn nhãn, ông bền lòng mời gọi, do bản chất tiến bộ của phong
trào, cùng với những ứng xử thoáng đạt của Nguyễn Huệ trên đây,
chẳng máy chốc sự nghiệp của Bắc Bình Vương đã trở nên thuận lẽ
trời, hợp lòng người". Và đó là lực hấp dẫn chính để Nguyễn Huệ có
thể nhanh chóng thu phục được những nhân tài trong "nước cũ" về
mình để ổn định và sắp xếp công việc ở Bắc Hà.
Sau khi cắt đặt xong những việc căn bản ở Bắc Hà, trao phó toàn bộ
quyền hành cho các tướng soái cao cấp (như Ngô Văn Sở, Phan Văn
Lân, Nguyễn Văn Tuyết, Ngô Thì Nhậm ) với lời dặn: "mọi việc cho
tùy tiện mà làm, cùng nhau bàn bạc ổn thỏa, đừng vì mới - cũ mà xa
cách nhau, Nguyễn Huệ rời Thăng Long về lại Phú Xuân, khẩn trương
tăng cường lực lượng, sẵn sàng đối phó với những đe thách nguy
hiểm ở hai đầu đất nước. Ngày 24 tháng 1 năm Mậu Thân (1789),
nhận được cấp báo quân Thanh đã tràn xuống xâm lược nước ta,
ngày 25 Nguyễn Huệ lập tức lên ngôi hoàng đế để "chính vị hiệu, giữ
lòng người", thống lĩnh đại quân theo đường thủy - bộ, tiến ra Bắc
đại phá quân Thanh. Bước ngoặt đó trong lịch sử dân tộc đã làm
chuyển biến sâu sắc tâm linh của giới trí thức, quan lại triều cũ mà
tiêu biểu là thái độ của Nguyễn Thiếp khi ông tâu trình với Quang
Trung Nguyễn Huệ trong một lần tiêp kiến ở đất Nghệ An: "Bây giờ
trong nước trống không, lòng người tan rã. Quân Thanh từ xa tới,
không biết quân ta yếu hay mạnh, không hiểu rõ thế đánh giữ ra sao,
chúa công ra đi chuyến này, không quá mười ngày, giặc Thanh sẽ bị
dẹp tan". Rõ ràng là, tới đây, khi vươn lên làm nhiệm vụ dân tộc,
củng cố hơn nữa nền thống nhất đất nước, tiến hành chiến tranh giải
phóng, bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, phong trào
Tây Sơn đã trở thành đại biểu duy nhất cho lợi ích tối cao của dân
tộc mà Quang Trung Nguyễn Huệ là tâm điểm hợp tụ lòng người cả
nước, có sức thu hút mãnh liệt nhân tài. Lịch sử đã cho thấy, tất cả
quan lại triều cũ mà Nguyễn Huệ đã tìm mời, tin trao trọng trách,
chủ động tạo ra những điều kiện rất thuận lợi với quyền hành rộng
rãi cho họ thì, họ đều tỏ rõ tài năng, sức lực và phát huy được những
sở trường của mình, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của cả dân
tộc.
Đánh bại hoàn toàn 200.000 quân Thanh cũng là khởi đầu một thời
kỳ mới, trong đó nhiều vấn đề đặt ra, đòi hỏi phải đồng thời giải
quyết. Tình hình có dịu lắng mà chưa hẳn bình yên: phía Nam "quốc
thù" đang mạnh mẽ bành trướng thế lực; phía Bắc, lửa chiến tranh
đã tắt nhưng chưa nguôi, trong nước, các thế lực phản động đang
lăm le ngóc dậy; đất nước sau bao phen binh lửa và thiên tai, li loạn
và đói kém cần được phục hồi và ổn định; những vấn đề xã hội nóng
bỏng đòi hỏi phải khẩn trương khắc phục Tất thảy những điều đó
là thách đố nặng nề đối với vua Quang Trung và vương triều mới của
ông. "Chiêu cầu hiền" được ban ra trong hiện tình đất nước lúc đó, là
điều dễ hiểu: "Trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, thức ngủ mong mỏi
mà có người tài cao học rộng chưa từng thấy đến. Hay Trẫm ít đức
không đáng để phò tá chăng? hay đang thời đổ nát chưa thể ra
phụng sự? Trẫm nơm nớp lo nghĩ, một ngày hai ngày cũng có hàng
vạn sự việc nảy sinh Ngẫm cho kỹ: cái nhà to lớn - sức một cây không
dễ gì chống đỡ, sự nghiệp thái bình - sức một người không thể đảm
đương". Sự thực, sau cuộc kháng chiến chống quân Thanh thắng lợi,
bên cạnh đội ngũ tướng soái văn, võ tiếp tục cống hiến tài sức cho
Vương triều, cuộc canh tân của đất nước đang đòi hỏi rất nhiều nhân
tài để gánh vác việc chung. Giờ đây, cảm tấm lòng của vua Quang
Trung và giác ngộ hơn về bao biến chuyển vừa qua, các "bậc có tài
năng đều ra giúp việc, những vị danh thần hưởng ứng chính nghĩa,
những kẻ sĩ phu bỏ tối theo sáng" mà tiêu biểu là các tiến sĩ Đoàn
Nguyễn Tuấn, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Nễ, Nguyễn Huy Lượng, Bùi
Dương Lịch…. Đến như Nguyễn Thiếp bây giờ cũng nhận lời xuống
núi, giúp vua Quang Trung xây dựng nước non nhà. Đành là, mỗi
người mang theo những tâm niệm không hệt nhau nhưng rõ ràng,
trong họ, hình ảnh vua Quang Trung tài năng và tấm tình xứng đáng
xứng đáng là vị vua hiền của nước: "Mênh mông vương đạo mở ra,
một tấc cũng thu, một li cũng nhấc; dùng người không phân mới - cũ,
thân - sơ, khiến cho bọn lười biếng cũng thấy thanh minh, thịnh Sự".
Cho nên, không phải là vô cớ mà Ngô Trọng Khuê, một đại thần triều
Lê dẫu chối từ lời mời của Quang Trung nhưng vẫn nói về ông bằng
những lời ca tụng đẹp: "Lòng nhân hiếu cảm đến đất trời … Với các sĩ
phu thì cuốn vào máy, thu vào lồng, tìm trong hang núi, hỏi chốn
thôn quê, thu hái chẳng sót loài cỏ mọn". các tài liệu trên đây đã
chứng tỏ lòng mến mộ vua Quang Trung của các nhân tài. Thực ra,
việc dùng những người vốn là con đẻ của một vương triều, một chế
độ vừa bị đánh đổ không chỉ diễn ra với Nguyễn Huệ. Lịch sử còn lặp
lại ở các phong trào, ở những cuộc cách mạng thời cận, hiện đại. Có
điều, để vời gọi được và sử dụng có hiệu quả các tài năng, nhất là
những tài năng lớn của đất nước, nếu tấm lòng và "sức dùng" của cá
nhân lãnh tụ là yếu tố tác động trực tiếp thì, tính tiến bộ của một
phong trào chính là yếu tố căn bản. Tuy vậy, với Quang Trung, việc
sử dụng nhân tài cũng còn đôi điều hạn chế.
Trong cuộc đời cầm quân của mình, Nguyễn Huệ đã ra lệnh trừng trị
hai viên tướng là Nguyễn Hữu Chỉnh và Vũ Văn Nhậm. Ở hai trường
hợp này, nhiều quan điểm xem xét và đánh giá khác nhau. Bằng một
số tư liệu, chúng tôi cho rằng: bỏ Chỉnh ở lại Thăng Long, sau đó
khước từ nài xin của Chỉnh theo về Phú Xuân mà cho ở lại Nghệ An,
Nguyễn Huệ chưa thực sự nổ lực nhằm hạn chế tối đa phản bội cũng
như chưa triệt để khai thác tài năng vốn có ở viên tướng này, nhằm
phục vụ cho lợi ích phong trào. Dựa trên những tin báo chưa được
minh định vội lấy đó làm bằng chứng, cộng với định kiến (Nhậm,
cũng như Chỉnh, vốn là hàng tướng, Nhậm lại là con rể của Nguyễn
Nhạc) đã giết Vũ Văn Nhậm là việc làm mà, theo chúng tôi nghĩ, là
chưa đủ sức thuyết phục. Phải chăng, việc phế bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh
và triệt bỏ Vũ Văn Nhậm là xạ ảnh của một thời kỳ đấu tranh trong
nội bộ phong trào, trong đó, Nguyễn Huệ đang nổ lực thâu tóm
quyền lực, khẳng định quyền, uy vượt thoát ảnh hưởng của Nguyễn
Nhạc để trở thành lãnh tụ chính của phong trào Tây Sơn?
Dù vậy, nhìn chung lại, qua 21 năm hoạt động sôi nổi, đặc biệt trong
6 năm là lãnh tụ tối cao của phong trào (1787 - 1792), trước những
đòi hỏi của phức tạp và đầy rẫy khó khăn, Nguyễn Huệ đã giải quyết
tương đối thành công vấn đề sử dụng con người; sử dụng nhân tài.
Chỉ riêng nhiều đại diện ưu tú của giới quan lại văn võ triều cũ đã
dứt khỏi một dĩ vãng vàng son chưa mấy xa xăm mà bản thân, gia
đình, gia đình và họ mạc hơn một lần hưởng nhiều ân trạch để tập
hợp dưới cờ đỏ Tây Sơn cũng chứng tỏ sức thu hút lớn lao của
phong trào và cá nhân Nguyễn Huệ. Mẫn cảm, xét đoán tinh và sâu,
không mặc cảm nặng nề bởi hoàn cảnh xuất thân và quãng đời hôm
qua của các quan lại triều cũ, Nguyễn Huệ đã vì nghĩa cả mà vời gọi
tha thiết, tin giao trọng trách, bán cho họ quyền hành rộng rãi đủ để
họ tùy tài khu xử, ứng tác. Vậy nên, dưới cờ đào của Người anh hùng
áo vải, trí tuệ, tâm lực của các nhân tài, tướng soái đã phát huy đầy
đủ, góp phần to lớn vào thắng lợi chung của toàn dân tộc.
Phong trào Tây Sơn thắng lợi là một sự kiện minh chứng cho tinh
thần đoàn kết được giữa anh em Tây Sơn, các tầng lớp nhân dân và
các thành phần dân tộc mà theo em nó vừa mang tính kế thừa truyền
thống và tính chất chính nghĩa của phong trào thông qua các chính
sách, con đường của người lãnh đạo phong trào. Thu phục nhân tâm,
ổn định lòng người…trên dưới đồng lòng trong suôta quá trình khởi
nghĩa. Yếu tố đoàn kết trong phong trào Tây Sơn, theo em đó là sự
kết dính của một chất keo bền vững tạo nên thắng lợi vĩ đại của
phong trào Tây Sơn vào cuối thế kỉ XVIII.