Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

ĐẶC TRƯNG VỀ TINH THẦN ĐOÀN KẾT CỦA PHONG TRÀO TÂY SƠN_2 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.81 KB, 5 trang )

ĐẶC TRƯNG VỀ TINH
THẦN ĐOÀN KẾT CỦA
PHONG TRÀO TÂY SƠN




1. LỰC LƯỢNG NÀO BIỂU HIỆN SỰ “ ĐOÀN KẾT” TRONG PHONG TRÀO?.
2. HIỂU NHƯ THẾ NÀO VỀ VẤN ĐỀ “ ĐOÀN KẾT” THỂ HIỆN TRONG PHONG
TRÀO?
3. NHẬN ĐỊNH VỀ NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA VẤN ĐỀ “ĐOÀN KẾT” TRONG
PHONG TRÀO?(CÓ RÚT RA BÀI HỌC…)


Thế kỷ 16, Đại Việt chìm trong chia cắt: hết cuộc chiến giữa tập đoàn phong kiến Trịnh-
Mạc cho đến cuộc đối đầu triền miên giữa dòng họ Trịnh-Nguyễn. Cuối thế kỷ, cục diện
đàng trong đàng ngoài chính thức hình thành và kéo dài mãi từ đó đến gần hai thế kỷ
sau.
Đất nước lâm nguy, vua chúa cả hai miền chỉ lo vơ vét của cải, ăn chơi hưởng lạc, khiến
nhân dân lầm than. Trong bối cảnh ấy, không ít cuộc khởi nghĩa đã nổ ra. Tuy nhiên,
chưa cuộc khởi nghĩa nào thắng lợi.
Năm 1771, trên vùng Tây Sơn Thượng Đạo (An Khê, Gia Lai ngày nay), 3 anh em
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ phất cờ khởi nghĩa. Được nhân dân ủng hộ,
trong vòng 12 năm, từ 1777-1789, nghĩa quân Tây Sơn liên tiếp lập nên những chiến
công hiển hách: lật đổ 2 tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn; đánh tan 5 vạn quân Xiêm
và đè bẹp 29 vạn quân Thanh Xâm lược.
Trong suốt chặng đường chiến đấu, Ba anh em Tây Sơn, đặc biệt là Nguyễn Huệ đã
không chỉ chứng tỏ mình là nhà lãnh đạo chính trị xuất sắc mà còn là một nhà cầm quân
tài ba. Những gì ông làm, không phải vị tướng nào cũng thực hiện được.
Xuất phát điểm của phong trào Tây sơn là Ấp Tây Sơn, là cuộc đấu tranh giữa nhân dân
với giai cấp thống trị phong kiến Đàng trong sau đó lan ra cả Đàng ngoài. Quá trình


chuyển biến (vào Nam ra Bắc, thống nhất đất nước) đó, yếu tố nào đã tạo nên mộ sức
mạnh tổng lực đưa cách mạng Tây Sơn đến thắng lợi, mà từ trước đến thời điểm này
chưa hề có? Thông qua diễn biến của cuộc khởi nghĩa, chúng ta thấy nhân tố rất quan
trọng làm nên thắng lợi của phong trào Tây sơn-đó là tinh thần “đoàn kết”, đặt dưới sự
chỉ đạo chung của một lực lượng thống nhất:
Ở Đàng trong, Ngay từ khi mới khởi nghĩa, địa bàn hoạt động chỉ mới trong phạm vi
nhỏ hẹp của miền núi rừng Qui Nhơn-Ấp Tây Sơn, phong trào Tây Sơn cũng cũng đã có
một khả năng đoàn kết, thu hút được đông đảo từng tầng lớp nhân dân và thành phần
dân tộc tham gia. Trong hàng ngũ nghĩa quân, đã có cả người đa số và người thiểu số.
Những đội quân người Thượng “cởi trần trùng trục, đầu quấn khăn, cổ đeo tầu vàng lá
bạc….là những đội quân rất hăng và gan dạ. Nhứng thổ hào như Nguyễn Thung, chàng
Lía…tích cực hưởng ứng than gia phong trào. Thương gia cũng tích cực tham gia phong
trào như Huyền Khê, một người giàu lớn ở Qui Nhơn đã giúp đỡ nghĩa quân về mặt tài
chính, lương thực… “Hào mục bản thổ đua nhau nổi dậy hưởng ứng với Nhạc, thế giặc
ngày càng bùng lên” (theo Cương mục). Phong trào Tây Sơn đã lôi cuốn cả người Hoa ở
miền Nam lúc này, tập hợp thành những đơn vị chiến đấu, dưới sự chỉ huy của Lí Tài và
Tập đình. Những lãnh tụ Tây Sơn liên lạc với cả người Chiêm Thành: nữ chúa Chiêm đã
từng đem quân tới đóng ở Thạch Thành ủng hộ Tây sơn đánh Nguyễn ở Đàng
Trong.Lính Tây Sơn còn có bộ phận gồm những người thiểu số khác ở Cao Miên, Cam
Biên, Xiêm…(theo Giáo sĩ Le Roy).
Ở Đàng ngoài, quân Tây sơn luôn luôn tranh thủ sự ủng hộ đồng tình của quân chúng
nhân dân. Trong cuộc đấnh quân Trịnh, quân Tây Sơn đã phối hợp chặt chẽ với nhân
dân, nhân dân đã tự bố trí khắp ngả để chặn đường đón giết quân Trịnh; Trong trận đánh
quân Thanh, khi hành quân và dừng chân mười ngày để nghĩ, nhân dân đã tham gia
nghĩa quân đông đảo. Trong thư Nguyễn Huệ gửi cho vua Thanh có Đoạn: “Quân Sĩ
Nghị xông vào đánh, vừa mới giao phong đã tan vỡ, chạy trốn khắp ngả, xô đè lên nhau
mà chết…những quân chạy trốn ra được các thôn xã ngoài thành bị dân đánh giết hầu
hết…” và Thành công của Nguyễn Huệ về chính trị còn ở việc ông được nhân tài trong
nước ủng hộ. Về võ tướng có Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, Đặng Tiến Đông, Ngô
Văn Sở Ra Thăng Long, Nguyễn Huệ thu phục được Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích,

Nguyễn Thế Lịch, Đoàn Nguyễn Tuấn, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp là những kẻ sĩ
đất bắc có thực tài, biết thời thế. ở Phú Xuân, Nguyễn Huệ được sự cộng tác hết lòng
của Trần Văn Kỳ, một bậc danh sĩ nổi tiếng ở đất Đàng Trong, người có công lớn giúp
Nguyễn Huệ tổ chức bộ máy cai trị và giới thiệu cho Nguyễn Huệ những nhân tài trong
nước.

Như vậy, phong trào Tây Sơn được tập hợp-đoàn kết bởi nhiều thành phần, tầng lớp vừa
biểu hiện tính phức tạp và vừa thể hiện tính phong phú và đa dạng làm cho phong trào
lớn mạnh hơn tất cả những phong trào đấu tranh của nông dân Việt Nam từ trước

Từ 1771 - 1792, từ 18 tuổi đến tuổi 38, trong 21 năm liền, Quang Trung Nguyễn Huệ đã
cống hiến tất cả tài năng và nghị lực cho cuộc đất tranh vì lợi ích của nhân dân, "Tưới
mưa dầm kẻo cùng dân sa chốn lầm than" (Hịch đánh Trịnh), "Quét trừ loạn lạc, cứu dân
trong vòng nước lửa" (Chiếu lên ngôi), vì độc lập dân chủ và chủ quyền quốc gia, "Đánh
cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ" (Hiệu dụ quân sĩ).
Phát huy sức mạnh quật khởi của nhân dân kết hợp với sức mạnh yêu nước, đoàn kết của
dân tộc, Quang Trung đã tạo nên sức mạnh thắng lợi của phong trào Tây Sơn và quân
đội Tây Sơn. Dấu chân và chiến công của người anh hùng bách chiến bách thắng đó, từ
đất Tây Sơn lịch sử đã lan tỏa ra khắp nước, từ đồng bằng sông Cửu Long phía nam, qua
đô thành Phú Xuân của miền Trung, đến đất Thăng Long nghìn năm văn vật và đồng
bằng sông Nhị phía Bắc. Nét nổi bật trong nghệ thuật quân sự của Quang Trung Nguyễn
Huệ là tinh thần tiến công mãnh liệt và lối đánh thần tốc, bất ngờ. Kẻ thù cũng phải thừa
nhận, dưới sự chỉ huy của Quang Trung, quân Tây Sơn "hành binh như bay, tiến quân
rất gấp, đi lại mau chóng vùn vụt như thần" (lời một viên quan nhà Lê, Hoàng Lê nhất
thống chí), "tướng như trên trời rơi xuống, quân như dưới đất chui lên" (lời quân Thanh,
Hoàng Lê nhất thống chí), tiến công "như nước triều dâng" (lời Trần Nguyên Nhiếp, bí
thư của Tôn Sĩ Nghị, An Nam Quân doanh kỷ yếu).
Tài năng của Nguyễn Huệ biểu thị tập trung nhất trong việc cổ vũ và tập hợp lực lượng
các tầng lớp xã hội, các dân tộc miền núi, kể cả một số quan lại, sĩ phu, tướng lĩnh trong
chính quyền Trịnh - Nguyễn. Đặc biệt khi tiến lên làm nhiệm vụ dân tộc, chống giặc

ngoại xâm bảo vệ dân tộc, Quang Trung đã giương cao ngọn cờ yêu nước, ra sức thu nạp
những người yêu nước trong xã hội. Quang Trung rất coi trọng việc chiêu hiền đãi sĩ và
đã nhận được sự phò tá của khá nhiều trí thức yêu nước tài năng. Những trí thức tiêu
biểu là Trần Văn Kỷ, Lê Công Miễn… ở Đàng Trong, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích,
Nguyễn Thiếp, Vũ Huy Tuấn, Nguyễn Thế Lịch… ở Đàng Ngoài. Tài năng của Quang
Trung Nguyễn Huệ khá toàn diện mà cơ sở quyết định là xuất phát từ lòng yêu nước
thương dân, từ quyết tâm "giúp dân dựng nước" (Ngọc Hân, Ai tư vãn) của một anh
hùng cứu dân, cứu nước.
Năm 1786, Nguyễn Huệ đem quân ra bắc với khẩu hiệu "Phù Lê diệt Trịnh", cô lập triệt
để quân Trịnh nên lấy được Bắc Hà một cách dễ dàng. Nguyễn Huệ nói với Nguyễn
Hữu Chỉnh: "Ta đem mấy vạn quân ra đây, chỉ đánh một trận mà dẹp yên được cả thiên
hạ Ví phỏng ta muốn xưng đế, xưng vương, gì mà chẳng được. Sở dĩ ta nhường nhịn
không ở những ngôi ấy, là hậu đãi nhà Lê đó thôi!" (Hoàng Lê nhất thống chí). Nhưng
Nguyễn Huệ cũng biết trong nhân dân và nho sĩ Bắc Hà còn nhiều người luyến tiếc nhà
Lê nên ông bằng lòng lấy công chúa Ngọc Hân nhà Lê rồi lui về Thuận Hóa. Năm 1787,
sau khi sai Vũ Văn Nhậm đem quân ra bắc giết Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ vẫn để
cho Lê Duy Cẩn làm giám quốc bù nhìn. Nguyễn Huệ chỉ chính thức lên ngôi hoàng đế
thay nhà Lê khi Lê Chiêu Thống lộ rõ bộ mặt phản quốc, rước quân Thanh vào giày xéo
đất nước.

Trước khi tốc thắng ra Bắc phù Lê, diệt Trịnh, lịch sử ghi nhận về Nguyễn Huệ là một
tài năng về quân sự, còn những cố gắng của ông trên lĩnh vực chính trị rộng lớn, có
chăng, cũng mới chỉ biểu hiện mờ nhạt. Bởi vì ngày ấy, những chiến công quân sự lẫy
lừng ở miền Gia định không được chuyển hóa thành thắng lợi chính trị bền vững tuy
thuộc về Nguyễn Nhạc, nhưng là một trong các lãnh tụ của phong trào Tây Sơn, Nguyễn
Huệ cũng dự một phần trách nhiệm.

×