Một vài đặc điểm của tiểu
thuyết Campuchia trong buổi
đầu hình thành
1. Về lực lượng sáng tác
Tiểu thuyết đầu tiên của Campuchia là Sô Phát của Rim Kin xuất bản năm 1938
(1)
. Sau Sô
Phát, một số tiểu thuyết khác nữa tiếp tục ra đời như Hoa tàn, Tình yêu bóng ma, Hoa hồng Pay-
lin, Tuyệt đỉnh tình yêu, Tận cùng đau khổ
(2)
, đã thực sự tạo nên "một làn gió mới" trên văn đàn
Campuchia đương thời.
Một trong những đặc điểm dễ nhận thấy là đội ngũ những người tạo nên "làn gió mới”
này đều rất trẻ. Rim Kin viết Sô Phát(1938) lúc 27 tuổi, Nu Hách viết Hoa tàn (1941) lúc 25
tuổi, Kim Hắc viết Nước hồ Tôn-lê Sáp (1939) lúc 34 tuổi, Hang Yeng viết Nỗi đau chia
cắt (1944) lúc 23 tuổi, và ở tuổi 25, Um Hô đã viết Bất hạnh, v.v (trong khi các tác giả viết
truyện thơ phần lớn đều lớn tuổi, Nu Kon viết Tiêu Ek khi đã 68 tuổi, người ít tuổi nhất như
Yupon, khi viết Sovasam cũng đã ở độ tuổi 42).
Hầu hết các tác giả tiểu thuyết đều xuất thân từ các trường bảo hộ của thực dân Pháp
hoặc trường dạy theo chương trình của Pháp; nhiều nhà văn sau nay như Rim Kin, Nu Hách,
Hem Yeng vốn là học sinh của trường trung học Si-sô-vat
(3)
. Ở đây, họ được học chương
trình giáo dục mang tính thế tục (trường được tách khỏi nhà chùa), được học tiếng Pháp và tiếp
xúc với nền văn học Pháp. Một số người trong số họ đã dịch các tác phẩm văn học Pháp
như Không gia đình, Những người khốn khổ, v.v
Phần lớn lực lượng sáng tác thời gian đầu cao nhất cũng chỉ có trình độ trung học (thời
gian này ở Campuchia chưa có trường đại học, muốn học lên, những học sinh trung học hoặc là
phải sang Pháp, hoặc sang Việt Nam và một vài quốc gia Tây phương khác). Trong những năm
40 (thế kỷ XX), nhiều trí thức du học ở Pháp lần lượt trở về, trong số này nhiều người có học vị
cao như Hoàng thân Yu-tha-vong, tiến sĩ y khoa (về nước năm 1946), Chen Vam, cử nhân văn
chương (về nước năm 1945), Keng-văn-sắc, tiến sỹ ngữ văn (về nước năm 1952) Phần lớn họ
đều có tư tưởng cấp tiến, chống thực dân Pháp, chống chế độ quân chủ. Đặc biệt là Keng-văn-
sắc, một giáo sư văn chương, ngôn ngữ, đồng thời là người sáng tác thơ chủ trương xây dựng
nền văn học dân tộc theo hướng hiện đại (ngay từ năm 1936, một số trí thức cấp tiến đã sáng lập
tờ báo mang tên Nokor Vat làm cơ quan ngôn luận để tập hợp lực lượng trong cuộc đấu tranh
chống chế độ quân chủ).
2. Một vài khuynh hướng tiểu thuyết
Ngay từ lúc mới ra đời, Tiểu thuyết Campuchia phải đối diện với hai vấn đề then chốt của
đất nước Campuchia lúc bấy giờ là giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp
(4)
và
thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Nhưng cái nan giải, cái nghịch lý là ở chỗ, tuy độc lập và tiến bộ xã
hội là hai vấn đề cấp thiết của xã hội Campuchia trong những năm 30, 40 của thế kỷ trước, có
mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, nhưng không phải lúc nào cũng đi song hành với nhau.
Từ giải phóng cá nhân đến khát vọng dân chủ và độc lập dân tộc là một đặc điểm nổi trội
của tiểu thuyết Campuchia trong buổi đầu hình thành của nó.
2.1. Khuynh hướng giải phóng cá nhân. Một điều dễ nhận thấy, từ những tiểu thuyết đầu
tiên như Sô Phát (1938), Hoa Tàn (1941), đến các tiểu thuyết Tình yêu bóng ma (1942), Hoa
hồng Pay-lin (1943), Tận cùng đau khổ (1944), Tuyệt đỉnh tình yêu (1946), v.v… đề tài tình yêu
luôn được đặt ở vị trí trung tâm. Thật ra, tình yêu là một đề tài chưa bao giờ xưa cũ nhưng cũng
chẳng có gì mới, vả lại, cốt truyện trong các tiểu thuyết này thường đơn giản, thường là hai người
trẻ tuổi yêu nhau, mối tình của họ gặp nhiều gian nan trắc trở, nhưng cuối cùng đạt được hạnh
phúc viên mãn. Nhưng phía sau các câu chuyện tình là những vấn đề của xã hội Campuchia
đương thời như: giải phóng phụ nữ, mà trước hết là giải phóng về tình cảm, tự do yêu đương:
quan hệ giữa các thế hệ: bố mẹ-con cái, già-trẻ; sự khẳng định vị trí của cá nhân trong xã hội,
v.v… Đúng ra thì chẳng đợi đến lúc này, khi xã hội Campuchia - nhất là ở các đô thị đang phát
triển theo chiều hướng tư bản (dù còn sơ khai), với sự xuất hiện của tầng lớp thương nhân, tiểu
thương, tiểu chủ, của học sinh, sinh viên, của tầng lớp trí thức, công nhân, v.v… đã có vấn đề
giải phóng phụ nữ hoặc tự do yêu đương. Ít ra, những điều này đã có từ thời Tum Tiêu
(5)
. Nhưng
phải đến cuối những năm 30, đầu những năm 40 trở đi, vấn đề này mới được đặt ra một cách
trực tiếp và được phản ánh vào trong các tác phẩm theo cách riêng của nó, nhằm đáp ứng nhu
cầu của một lớp công chúng độc giả mới.
Tình yêu giữa Sô Phát-Mangyang (Sô Phát), Chất-Nari (Hoa hồng Pay-lin, của Roth Xa-
run, Xa-ri (Tình yêu bóng ma), Pun Thươn – Vi-thi-vi (Hoa tàn) , hoàn toàn khác với tình yêu
giữa Tum và Tiêu (Tum-Tiêu), mặc dù về mức độ “mãnh liệt” dường như chúng cũng chẳng
khác gì nhau. Cái khác là ở cách biểu lộ tình yêu, ở sự diễn biến của tình huống, cảnh ngộ, ở sự
đắn đo, cân nhắc, ở từng cách biểu hiện, cách ứng xử trong tình yêu. Đây chính là sự biểu hiện
tính cách của một lớp người mới đa diện hơn về mặt tâm lý, tính cách. Họ - những nhân vật
chính trong các tác phẩm, biết khám phá, phát hiện đối tượng nhưng cũng tự biết đánh giá bản
thân mình và do vậy tất cả họ ánh lên vẻ đẹp lãng mạn nhưng đồng thời vẫn chứa đựng, vẫn
thấm đẫm chất hiện thực.
Tuy chưa phải là những con người “nổi loạn”, nhưng những Sô Phát, Mangyang, Xarun,
Xari, Pun Thươn, Vi-thi-vi, Chất, Na-ri… đã dám làm tất cả để đạt được ước muốn của mình,
giải phóng khỏi những ràng buộc của những định kiến hẹp hòi của xã hội, những ràng buộc của
tập tục và cao hơn là những bế tắc của hoàn cảnh. Điều quan trọng là thông qua chủ đề về tình
yêu các nhà tiểu thuyết muốn gióng lên một tiếng chuông dự báo về mối quan hệ giữa bố mẹ,
con cái, giữa lớp già, lớp trẻ và rộng xa hơn là giữa cái cũ và cái mới… đã và đang có những
thay đổi. Cố nhiên, ở mỗi tác phẩm, vấn đề này được thể hiện ở những mức độ khác nhau.
Các nhân vật chính trong Sô Phát, Tình yêu bóng ma, Hoa hồng Pay-lin…đều là những
con người trẻ tuổi đang dấn thân vào một cuộc đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân. Nhưng "cuộc
chiến" này chưa diễn ra đến mức quyết liệt, mang tính đối kháng gay gắt, một mất một còn. Mặc
dù có những khác biệt trong quan niệm về tình yêu, về hạnh phúc, về môn đăng hộ đối… giữa
bố mẹ, con cái nhưng cuối cùng họ cũng có thể tìm ra được tiếng nói chung, và các ông bà, bố
mẹ lại là người chủ động tác thành hạnh phúc cho con cháu, bất chấp địa vị giàu nghèo, sang
hèn, bất chấp quan hệ chủ, thợ. Điều này khác với các tiểu thuyết Việt Nam trong những năm 30,
trong đó những con người trẻ tuổi phải vật lộn, phải đấu tranh quyết liệt mới có thể thoát khỏi
những định kiến, những tập tục khắt khe của lễ giáo phong kiến, để khẳng định chỗ đứng, khẳng
định "cái tôi" của mình. Chỉ có Hoa tàn cuộc đấu tranh này mới diễn ra một cách quyết liệt, và
cái gì xảy ra đã diễn ra: Vi-thi-vi tự tử, cái giá phải trả cho tự do. Nhưng dường như điều này trái
với quan niệm của người Campuchia. Vì ở một tác phẩm sau đó (Mia-lia đuông-chất) chính Nu
Hách đã tự cải chính lại quan điểm này
(6)
, Cũng cần phải nói thêm, ở đây cuộc đấu tranh của
những con người trẻ tuổi cũng chỉ mới giới hạn trong phạm vi cuộc đấu tranh để chống lại hoặc
để vượt lên số phận run rủi của chính họ. Do đó, ngoại trừ Hoa Tàn, các tác phẩm khác chưa gây
được tiếng vang lớn trong đời sống xã hội- nếu nhìn từ góc độ giải phóng con người nói chung.
Chỉ đến Phận đàn bà của Lấc Ra-ri
(7)
, cuộc đấu tranh giải phóng cá nhân mới mang ý nghĩa xã
hội sâu sắc. Tuy là sự trở lại với mô típ dì ghẻ, con chồng quen thuộc trong văn học dân gian
nhưng với Phận đàn bà, Lấc Ra-ry hướng tới một vấn đề mới mang tính thời đại. Qua con
đường tự lập thân của Xom-niêng, nhân vật chính trong truyện, tác giả nhấn mạnh rằng sự lao
động chân chính, sự độ lượng là cứu cánh để mỗi con người tự giải thoát khỏi số phận đen tối
của mình, rằng giá trị của mỗi con người được khẳng định không phải bằng kết quả tu nhân, tích
đức của kiếp trước mà bằng chính sức lao động hiện tại (ở đây, tác giả đã chịu ảnh hưởng thuyết
tự lực của Phật giáo Tiểu thừa). Cố nhiên, đằng sau Phận đàn bà là bóng dáng của xã hội
Campuchia đang bước vào thời kỳ phân hóa, đặc biệt là ở các đô thị, những giá trị đạo đức
truyền thống đang có nguy cơ bị xói mòn do sự xâm nhập của nền văn hóa ngoại lai. Nhưng
cũng ở Phận đàn bà chúng ta còn bắt gặp được một miền quê yên tĩnh, nơi còn bảo lưu, cất giữ
được một truyền thống đầy tính nhân bản, nơi trú ngụ cuối cùng của những con người “nhỏ bé”
bị xã hội đồng tiền vùi dập. Về thi pháp tiểu thuyết, tác giả cũng rất có ý thức trong việc dồn nén
các sự kiện, các mặt đối lập, các mâu thuẫn, mở rộng không gian, thời gian của các sự kiện để tạo
nên một hiệu quả thẩm mỹ cao.
Khuynh hướng đòi dân chủ, tiến bộ xã hội và độc lập dân tộc. Từ "khát vọng giải phóng
cá nhân" đến đòi hỏi về "dân chủ, tiến bộ xã hội" và "độc lập dân tộc" là một khoảng cách không
nhỏ, nó không chỉ được đo bằng tài năng mà còn là nhận thức và trách nhiệm của người cầm bút.
Điều này được thể hiện trong bộ ba tiểu thuyết của Un Thốc: Sim-người lái xe, Culi và Thầy giáo
làng
(8)
.
Bộ ba tác phẩm này, hoặc là đi sâu mô tả những thủ đoạn bóc lột của các chủ thầu khoán,
tình trạng nghèo khổ, túng quẫn của tầng lớp công nhân như người lái xe mang tên Sim (Sim –
người lái xe); hoặc mô tả cuộc hành trình đến với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của những
con người nghèo khổ như Lưm, Mâng (Culi); hoặc tái hiện cuộc đấu tranh cho dân sinh, dân chủ
và tiến bộ xã hội của một bộ phận trí thức cấp tiến như các thầy giáo Mau, Chăn, Thoan, Vat
trong (Thầy giáo làng), v.v… Nhưng tất cả các tác phẩm đều này có chung một mục tiêu: giải
phóng nhân dân khỏi mọi sự áp bức bóc lột. Dĩ nhiên, ở mỗi tác phẩm có những biểu hiện khác
nhau.
Viết về cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc còn có một số tác phẩm khác như Tiền lương
đi đâu
(9)
, Các cô gái cách mạng
(10)
của Bip-chay-liêng… Nhưng nổi trội hơn vẫn là Mia-lia
đuông-chất của Nu Hách (tiểu thuyết đã dẫn). Mia-lia đuông-chất là câu chuyện tình giữa chàng
trai Campuchia Ti-khi-vut và cô gái Thái Lan Chăm-mơ-ni. Hai người tình cờ gặp nhau trên một
chuyến xe lửa. Họ yêu nhau thắm thiết, với những kỷ niệm đẹp đẽ, thi vị. Nhưng bất hạnh đổ
xuống đầu họ khi Ti-khi-vut phát hiện ra rằng bố cô gái là một điệp viên của Thái Lan đang hoạt
động trên đất Campuchia. Nỗi thất vọng chen lẫn sự băn khoăn, day dứt giữa một bên là tình yêu,
là hạnh phúc cá nhân và một bên là đất nước, là tổ quốc. Cuối cùng, Ti-khi-vut quyết định cắt đứt
tình yêu với Chăm-mơ-ni, tham gia vào quân đội chống lại Thái Lan. Tình yêu giữa hai người
chỉ thực sự được nối lại khi Thái Lan trả lại phần đất đã chiếm cho Campuchia. Trong Mia-lia
đuông-chất, Ti-khi-vut được xây dựng như một biểu tượng của tinh thần dân tộc, tình yêu chỉ là
một đòn bẩy để làm nổi bật thêm tinh thần ái quốc. Vì thế sự chắp nối lại tình duyên giữa hai
người có vẻ gượng gạo và có phần không thật, nhưng cái thật hơn sự thật ấy là tình yêu của Ti-
khi-vut đối với tổ quốc Campuchia của anh. Như vậy, với Mia-lia đuông-chất, Nu Hách dồn hết
tâm huyết, tài năng và trách nhiệm của mình trong việc ca ngợi cuộc chiến đấu dũng cảm vì độc
lập dân tộc của các tầng lớp nhân dân Campuchia, như ông đã một lần nhấn mạnh trong lời đề
tựa.