Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

tóm tắt luận án một số đặc điểm dịch tễ học hội chứng não cấp nghi ngờ do vi rút banna tại một số địa phương ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.42 KB, 24 trang )

1



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BVĐK
Bệnh viện Đa khoa
HCNC Hội chứng não cấp
MAC-ELISA

IgM antibody capture – enzyme linked
immunosorbent assay (Kỹ thuật miễn dịch gắn
enzyme phát hiện kháng thể IgM)
RT-PCR Reverse Transcription Polymerase Chain
Reaction (Phản ứng chuỗi khuếch đại gen
phiên mã ngược)
VNNB Viêm não Nhật Bản
VSDTTƯ Vệ sinh dịch tễ Trung ương











2




ĐẶT VẤN ĐỀ


Hội chứng não cấp (HCNC) nghi ngờ do vi rút có rất nhiều
nguyên nhân khác nhau. Đây là bệnh không có thuốc điều trị đặc hiệu
(trừ vi rút Herpes simplex), bệnh thường có tỷ lệ tử vong cao và di
chứng thần kinh nặng nề. Ngày nay đã xác định được khoảng 100 loại
vi rút khác nhau gây ra HCNC.
Năm 1987, 1992 vi rút Banna được phân lập được từ huyết thanh
bệnh nhân có HCNC và sốt không rõ nguyên nhân ở Trung Quốc. Vi
rút Banna phân lập được trên muỗi Aedes dorsalis tại Trung Quốc.
Theo một số nghiên cứu ở Indonesia, vi rút Banna được truyền bởi hai
loài muỗi là Anopheles và Culex.
Tại Việt Nam, năm 2003, 2005 phân lập được vi rút cùng nhóm
với vi rút Banna từ bệnh nhân ở tỉnh Thanh Hóa và tỉnh Gia Lai.
Ngoài ra vi rút Banna đã được ghi nhận phân lập từ muỗi Culex tại hai
tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội) và tỉnh Quảng Bình trong năm 2002.
Để góp phần vào việc giám sát, chẩn đoán, điều trị và dự phòng
HCNC nghi ngờ do vi rút Banna gây ra, nghiên cứu “Một số đặc điểm
dịch tễ học hội chứng não cấp nghi ngờ do vi rút Banna tại một số
địa phương ở Việt Nam” được thực hiện với ba mục tiêu cụ thể như
sau:
1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng hội chứng não
cấp nghi ngờ do vi rút Banna ở một số địa phương của Việt Nam,
2002 - 2012.
2. Xác định tỷ lệ nhiễm vi rút Banna trong quần thể muỗi thu
thập ở một số địa phương Việt Nam.
3. Xác định một số đặc điểm sinh học phân tử của vi rút Banna

phân lập được ở Việt Nam.


3




Ý NGHĨA THỰC TIỄN VÀ ĐÓNG GÓP MỚI
CỦA LUẬN ÁN

- Tính mới: Đây là nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam chỉ ra tỷ lệ số mắc,
đặc điểm lâm sàng bệnh nhân HCNC do vi rút Banna, tỷ lệ nhiễm vi rút
Banna trong quần thể các loài muỗi tại một số địa phương và một số
đặc điểm dịch tễ học phân tử của vi rút Banna phân lập được ở Việt
Nam
- Tính ứng dụng: Nghiên cứu cung cấp các số liệu hoàn toàn mới cho
khoa học ở Việt Nam và trên thế giới về đặc điểm HCNC do vi rút
Banna. Kết quả nghiên cứu có ứng dụng trong việc giám sát, chẩn đoán,
phòng chống HCNC do vi rút Banna, có ý nghĩa trong việc giảng dạy
cũng như nghiên cứu và sản xuất.


CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN

Luận án dài 113 trang (không kể tài liệu tham khảo và phụ lục),
gồm 4 chương, 30 bảng, 13 hình, 1 ảnh. Đặt vấn đề 2 trang; Chương 1:
Tổng quan (28 trang); Chương 2: Đối tượng, vật liệu và phương pháp
nghiên cứu (22 trang); Chương 3: Kết quả nghiên cứu (33 trang);
Chương 4: Bàn luận (22 trang); Kết luận 3 trang; Kiến nghị 1 trang;

Danh mục các công trình đã công bố 2 trang. Tài liệu tham khảo: 102
tài liệu tham khảo; 2 phụ lục.

Chương I. TỔNG QUAN

1.1. Đặc điểm vi rút Banna.
Vi rút Banna thuộc chi Seadornavirus, họ Reoviridae, là vi rút có
vật liệu di truyền là ARN sợi kép gồm có 12 phân đoạn. Chủng vi rút
Banna đầu tiên được phân lập được từ dịch não tủy của bệnh nhân có
HCNC và từ máu bệnh nhân sốt không rõ nguyên nhân viêm não ở
tỉnh Yunnan, Trung Quốc sau đó cũng phân lập được ở các vùng khác
nhau từ bệnh nhân, từ muỗi ở Trung Quốc, Indonesia và Việt Nam.
4



1.2. Đặc điểm lâm sàng Hội chứng não cấp do vi rút Banna.
Vi rút Banna gây bệnh truyền nhiễm cấp tính có tổn thương hệ
thần kinh trung ương hoặc sốt không rõ nguyên nhân đã được ghi nhận.
Những ca bệnh điển hình được mô tả như sau: Thời kỳ khởi phát: Kéo
dài 1-2 ngày tuy nhiên cũng khó xác định khi bệnh nhân không nhớ
triệu chứng sốt cao đột ngột, ớn lạnh, đau đầu, đau cơ, khớp, chán ăn.
Thời kỳ toàn phát: sau 3-6 ngày bệnh nhân sốt cao có mê sảng, rối loạn
thần kinh thực vật, cứng cổ, thờ ơ với ngoại cảnh có thể hôn mê, khó
thở, sợ ánh sáng, chán ăn, buồn nôn. Các triệu chứng tổn thương thần
kinh ngoại vi như liệt, múa vờn, múa giật… Thời kỳ tiến triển bán cấp:
từ ngày thứ 7-9 của bệnh, các triệu chứng giảm đi như đỡ sốt, mạch
nhiệt ổn định, hội chứng thần kinh trung ương và ngoại vi giảm. Tuy
nhiên, thời kỳ này chú ý các biến chứng như viêm phổi, loét, táo bón…
do nằm lâu ngày. Thời kỳ hồi phục: Bệnh nhân chỉ còn sốt nhẹ, tỉnh táo

dần, có cảm giác thèm ăn, chỉ còn lại các di chứng tùy thuộc vào mức
độ nặng nhẹ của bệnh như liệt, xuất huyết, viêm cơ tim, viêm màng
ngoài tim, trí nhớ kém.

1.3. Các đặc điểm dịch tễ học Hội chứng não cấp do vi rút Banna
Một số nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới cho thấy vi rút
Banna tồn tại ở muỗi, có bằng chứng rõ ràng về sự lưu hành của vi rút
Banna trong vật nuôi (lợn) bằng kết quả phân lập vi rút. Ngoài ra, vi rút
Banna có thể tồn tại ở một số loài chim di cư và sự di cư của những loài
chim này tạo điều kiện cho sự phát tán vi rút sang các khu vực khác.
Véc tơ truyền vi rút Banna là muỗi đã được khẳng định ở một số nước
châu Á bằng kết quả phân lập được vi rút từ một số muỗi Culex
tritaeniorhynchus, Culex vishnui, Culex fuscocephalus, Anopheles
vagus, Aedes albopictus và Aedes dorsalis.

Đối tượng cảm nhiễm của vi rút Banna là người, nghiên cứu của
Liu và cộng sự (2010) về vi rút Banna ở Trung Quốc từ năm 1987 đến
2007 cho thấy vi rút Banna xuất hiện ở những khu vực có dịch viêm
não Nhật Bản (VNNB) và ở những nơi mà muỗi Culex
tritaeniorhynchus đóng vai trò là véc tơ truyền bệnh chính. Khi vi rút
nhiễm qua da do muỗi đốt, khi vào vi rút được nhân lên trong các hệ
bạch huyết, các virion được chuyển một cách thụ động qua nội mô của
5



mạch máu hoặc qua đám rối màng mạch, sau đó vào hệ thần kinh trung
ương và tồn tại ở dịch não tủy. Hiệu giá vi rút đạt đỉnh cao trong những
ngày đầu xuất hiện triệu chứng và giảm nhanh khi kháng thể trung hòa
xuất hiện. Sau khi nhiễm vi rút, cơ thể sẽ có đáp ứng miễn dịch, kháng

thể trung hòa tăng từ ngày thứ 12 sau lây nhiễm, kháng thể IgM có tác
dụng trung hòa vi rút cao hơn kháng thể trung hòa. Kháng thể IgG xuất
hiện từ tuần thứ 3 và thấp hơn kháng thể IgM nhưng tồn tại suốt đời.

1.4. Điều trị và dự phòng Hội chứng não cấp do vi rút Banna
Điều trị: Hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho các trường
hợp bị HCNC do vi rút Banna, chủ yếu là điều trị triệu chứng hoặc điều
trị các biến chứng của bệnh.
Dự phòng: Vi rút Banna là một loại vi rút do muỗi truyền là một
loại vi rút mới được phát hiện trong vài thập kỷ vừa qua chủ yếu ở khu
vực châu Á, những nghiên cứu về gánh nặng bệnh tật do loại vi rút này
chưa được đề cập đến, cho đến nay chưa có vắc xin để phòng bệnh,
biện pháp phòng chống hiệu quả nhất hiện nay là phòng chống véc tơ
muỗi truyền bệnh.

Chương II.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Địa bàn và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu trên các mẫu muỗi và bệnh phẩm đã được thu
thập từ tháng 1/2002 - tháng 12/2008 và tiến cứu từ tháng 1/2009 đến
tháng 12/2012
Địa điểm nghiên cứu tại các tỉnh: Khu vực miền Bắc (Hà Tây cũ,
Bắc Giang, Thanh Hóa); khu vực miền Trung (Quảng Bình); khu vực
Tây Nguyên (Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đắc Nông); khu vực miền
Nam (Long An, Cần Thơ).
2.2. Đối tượng nghiên cứu:
Người bệnh:
 Bệnh nhân được chẩn đoán lâm sàng HCNC nghi ngờ do vi rút theo
tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới:

- Sốt cao đột ngột > 38
o
C, kèm theo một trong hai triệu chứng sau:
6



- Thay đổi tình trạng tinh thần hoặc
- Có dấu hiệu thần kinh như dấu hiệu màng não, rối loạn vận động
 Bệnh nhân được chẩn đoán HCNC nghi ngờ do vi rút Banna: Là
những trường hợp HCNC nghi ngờ do vi rút có xét nghiệm phát
hiện IgM kháng vi rút Banna từ dịch não tủy bằng kỹ thuật ELISA
dương tính.
Loài muỗi: Đối tượng nghiên cứu là các cá thể muỗi thu thập được tại
các điểm nghiên cứu ở miền Bắc, miền Trung, miền Nam và Tây
Nguyên trong các năm 2001 – 2011.

2.3. Nội dung nghiên cứu
Điều tra trường hợp mắc HCNC: Thu thập mẫu bệnh phẩm là dịch
não tủy các bệnh nhân mắc HCNC nghi do vi rút được điều trị tại các
Khoa Lây của bệnh viện tuyến tỉnh. Xét nghiệm xác định kháng thể
IgM kháng với kháng nguyên vi rút Banna. Điều tra đặc điểm dịch tễ,
triệu chứng lâm sàng của các trường hợp ca bệnh HCNC xác định (+)
với kháng nguyên vi rút Banna, VNNB, phân lập dương tính ECHO30
dựa trên cơ sở hồi cứu bệnh án.
Điều tra véc tơ muỗi Culex truyền bệnh: Thu thập muỗi ở các tỉnh
có số lượng bệnh nhân HCNC nghi ngờ do vi rút cao tại khu vực Miền
Bắc, Miền Trung, Miền Nam và Tây Nguyên, một đợt cho mỗi năm vào
thời gian từ tháng 3 đến tháng 12. Muỗi được định loại và xác định
thành phần loài, phân lập xác định vi rút Banna.

Các chủng vi rút Banna phân lập được từ bệnh nhân HCNC, từ lợn
và từ muỗi được xác định genotype dựa trên trình tự nucleotide vùng
gen số 12.

2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Thiết kế nghiên cứu:
Thiết kế nghiên cứu dịch tễ học mô tả cắt ngang, hồi cứu và tiến
cứu kết hợp với nghiên cứu phân tích trong phòng thí nghiệm.
2.4.2. Điều tra xác định các đặc điểm dịch tễ học bệnh nhân Hội
chứng não cấp
Phương pháp điều tra và lấy mẫu xét nghiệm bệnh nhân
7



Cỡ mẫu: Lấy mẫu dịch não tủy toàn bộ các bệnh nhân có HCNC
nghi do vi rút theo tiêu chuẩn chẩn đoán trên khi nhập bệnh viện. Chọn
mẫu theo phương pháp thuận tiện, các mẫu bệnh phẩm được lấy theo
đúng thường quy và điều tra theo mẫu phiếu điều tra được thiết kế sẵn.

Phương pháp điều tra muỗi véc tơ:
Cỡ mẫu: Cỡ mẫu được tính theo thường quy của Viện VSDTTƯ;
30 hộ gia đình/đêm x 2 đêm x 1 điểm (xã/tỉnh) x 1 lần/năm = 60 lượt hộ
gia đình/điểm. Điều tra muỗi được thực hiện vào ban đêm theo thường
quy của Viện VSDTTƯ (Bắt muỗi bằng bẫy CDC, bắt muỗi cái đậu
nghỉ ở trong nhà và chuồng gia súc, mùa đông từ 18 giờ đến 22 giờ,
mùa hè từ 19 giờ đến 23 giờ.

Vật liệu và kỹ thuật xét nghiệm trong phòng thí nghiệm
Mẫu bệnh phẩm gồm mẫu dịch não tủy bệnh nhân, mẫu muỗi thu

thập trên thực địa được tiến hành nghiên cứu phân tích trong phòng thí
nghiệm. Với mẫu dịch não tủy sử dụng kỹ thuật ELISA gián tiếp phát
hiện kháng thể đặc hiệu kháng vi rút Banna. Với các mẫu muỗi sử dụng
kỹ thuật phân lập định loại để phát hiện các loài muỗi mang vi rút
Banna.
Các chủng vi rút Banna phân lập được định loại bằng kỹ thuật RT-
PCR, thu sản phẩm PCR cho các kỹ thuật tinh sạch sản phẩm và giải
trình tự bằng máy Sequencing.
Các số liệu của kết quả nghiên cứu được xử lý bằng các phần mềm
tin sinh học như: Phần mềm GraphPad, phần mềm sinh học DNA Star
(Lasegene), MEGA 4.0 ….
2.4.3. Xử lý số liệu: Sử dụng phần mềm thống kê y học: Epi-info 6.04 và
Stata 10 để nhập và xử lý số liệu.

Chương III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Một số đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng Hội chứng não cấp do vi
rút Banna.
3.1.1. Mô tả tỷ lệ số mắc của bệnh nhân Hội chứng não cấp do vi rút
Banna
8



Bảng 3.1. Kết quả xác định IgM kháng vi rút Banna
trong dịch não tủy bệnh nhân Hội chứng não cấp, 2002 – 2012
Khu vực Tỉnh Số mẫu
xét nghiệm
Số mẫu
(+)

Tỷ lệ %
(+)


Miền Bắc
Bắc Giang 216 30 13,63
Hà Tây (cũ) 120 43 35,83
Hà Nội 50 17 34,00
Hải Phòng 48 11 22,92
Thái Bình 108 36 33,33
Thanh Hóa 65 21 32,31
Miền Trung Huế 18 4 22,22
Tây nguyên Gia Lai 20 5 25,00
Miền Nam Long An 72 17 23,61
Tổng số 717 184 25,66

Có 1.285 mẫu dịch não tủy được thu thập từ bệnh nhân HCNC
nghi ngờ do vi rút thuộc 9 tỉnh/thành phố trong khoảng thời gian 2002 –
2012, loại trừ nguyên nhân vi rút VNNB, ECHO30 và vi rút herpes
simplex type 1 và type 4, còn 717 mẫu dịch não tủy chưa xác định được
nguyên nhân. Sử dụng kỹ thuật ELISA gián tiếp phát hiện IgM kháng
vi rút Banna từ 717 mẫu dịch não tủy, kết quả xác định có 184 mẫu (+),
tỷ lệ (+) trung bình các mẫu dịch não tủy phát hiện có IgM kháng vi rút
Banna là 25,66% (184/717), nếu xác định trên tổng số mẫu dịch não tủy
của bệnh nhân HCNC là 14,32% (184/1285).
Trong số 9 tỉnh/thành phố có mẫu bệnh phẩm xét nghiệm, tỷ lệ xác
định (+) dao động trong khoảng 13,83% - 35,83%. Tỉnh/thành phố có
mẫu xét nghiệm (+) cao nhất ở tỉnh Hà Tây cũ là 35,83 %, tiếp đến là
Hà Nội có tỷ lệ xác định (+) với kháng nguyên vi rút Banna là 34,00%;
Tỷ lệ xác định (+) thấp nhất với kháng nguyên vi rút Banna là 13,63 %

ở tỉnh Bắc Giang.
Theo kết quả giám sát huyết thanh học, HCNC do vi rút được ghi
nhận xảy ra quanh năm, nhưng số mắc được ghi nhận chủ yếu trong các
tháng 5, 6,7 và 8, đỉnh cao của dịch được ghi nhận trong tháng 6 với số
mắc được ghi nhận là 239/717 (chiếm 33,33 % tổng số mắc).

9



Bảng 3.2. Tỷ lệ số mắc Hội chứng não cấp do vi rút Banna theo nhóm
tuổi, 2002 – 2012
Nhóm tuổi
<1
n = 61
1 - 4
n = 159
5 - 9
n = 183
10 - 14
n = 141
≥ 15
n = 173
Tổng số
Số mẫu (+) 11 35 44 42 52 184
Tỷ lệ số
mắc theo
nhóm tuổi
(%)
5,98 19,02 23,91 22,83 28,26 100


Trong số 717 trường hợp HCNC nghi ngờ do vi rút không rõ
nguyên nhân có mẫu dịch não tủy được xét nghiệm bằng kỹ thuật
ELISA gián tiếp phát hiện IgM, kết quả xác định có 184 trường hợp
dương tính với kháng nguyên vi rút Banna, các trường hợp xác định (+)
được ghi nhận ở tất cả các nhóm tuối. Trong đó tỷ lệ số mắc HCNC do
vi rút Banna ở nhóm trẻ dưới 1 tuổi là thấp nhất chiếm 5,98 %, còn tỷ lệ
số mắc HCNC do vi rút Banna ở nhóm tuổi ≥ 15 là cao nhất chiếm
28,26 %.
Trong số 184 trường hợp HCNC xác định do vi rút Banna tỷ lệ số
mắc HCNC do vi rút Banna ở nam cao hơn nữ đối với mọi lứa tuổi.

3.1.2. Đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân Hội chứng não cấp do vi rút
Banna
3.1.2.1. Một số dấu hiệu, triệu chứng lâm sàng khi nhập viện

Bảng 3.3. Một số triệu chứng lâm sàng ở bệnh nhân khi nhập viện

Dấu hiệu, triệu
chứng
Vi rút
BANNA

n=103
(%)
Vi rút
ECHO30

n=43
(%)

Vi rút
VNNB
n=5
(%)
Kiểm định
tỷ lệ
BANNA và
ECHO30
Kiểm định
tỷ lệ
Banna và
VNNB
p1 p2
Đau đầu 48,54 88,37 30,51 <0,0001 0,0252
Nôn 32,04 86,05 28,81 <0,0001 0,6685
10




Dấu hiệu, triệu
chứng
Vi rút
BANNA

n=103
(%)
Vi rút
ECHO30


n=43
(%)
Vi rút
VNNB
n=5
(%)
Kiểm định
tỷ lệ
BANNA và
ECHO30
Kiểm định
tỷ lệ
Banna và
VNNB
p1 p2
Co giật 32,04 2,33 61,02 0,0001 0,0003
Buồn nôn 1,94 30,23 5,08 <0,0001 0,2659
Đau cơ 0 0 0 - -
Đau khớp 0 2,33 0 - -
Sốt
> 37,5
o
C
78,64 74,42 81,36 0,5784 0,6791
Thóp phồng 23,30 2,33 0 0,0022 -
Cứng gáy 77,45 39,53 50,85 <0,0001 0,0005
Dấu hiệu
Kernig
67,96 34,88 38,98 0,0002 0,0003
Rối loạn tâm

thần
81,55 11,63 88,14 <0,0001 0,2715

Giảm vận
động
18,63 4,65 23,73 0,0288 0,4390
Mất cảm giác 0 0 6,78 - -

Phân tích triệu chứng lâm sàng bệnh nhân HCNC khi nhập viện
cho thấy, hầu hết các triệu chứng lâm sàng điển hình của HCNC như
đau đầu, nôn, co giật, sốt cao trên 37,5 độ, thóp phồng, cứng gáy, dấu
hiệu Kernig, rối loạn tâm thần và giảm vận động xuất hiện ở bệnh nhân
mới nhập viện có HCNC do vi rút Banna với tỷ lệ cao từ 23,3% đến
78,64%. Nhưng đau cơ, đau khớp và thiếu cảm giác là các triệu chứng
không thấy xuất hiện ở bệnh nhân HCNC do vi rút Banna.
Khi so sánh triệu chứng lâm sàng ở bệnh nhân HCNC do vi rút
Banna với vi rút ECHO30 và vi rút VNNB cho thấy có sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ bệnh nhân có triệu chứng thóp phồng
(23,3%), cứng gáy (77,45%) và dấu hiệu Kernig (67,96%) xuất hiện
nhiều hơn so với bệnh nhân có HCNC do vi rút ECHO30 và vi rút
VNNB. Đặc biệt triệu chứng thóp phồng chủ yếu chỉ được ghi nhận ở
bệnh nhân HCNC do Banna vi rút và ít xuất hiện ở bệnh nhân bị HCNC
11



do vi rút ECHO30 và đặc biệt không được ghi nhận ở bệnh nhân
HCNC do vi rút VNNB.
3.1.2.2. Một số dấu hiệu, triệu chứng lâm sàng trong khi điều trị


Bảng 3.4. Các dấu hiệu, triệu chứng lâm sàng sau 7 ngày điều trị của
bệnh nhân nhiễm vi rút Banna so sánh với nhiễm ECHO30 và viêm não
Nhật Bản


Triệu
Chứng
Vi rút
BANNA
n=103
(%)
Vi rút
ECHO30
n=43
(%)
Vi rút
VNNB
n=59
(%)
Kiểm định tỷ
lệ do vi rút
Banna và
ECHO30
Kiểm định
tỷ lệ do vi
rút Banna
và VNNB
p1 p2
Đau đầu 7,77 4,65 30,51 0.4964 0,0001
Nôn 0,97 2,33 0 0,4882 -

Co giật 0,97 0 0 - -
Buồn nôn 0 0 0 - -
Đau cơ 0,97 0 0 - -
Đau khớp 0 2,33 0 - -
Sốt >37,5
o
8,74 6,98 11,86 0,7242 0,5218
Thóp phồng 1,94 0 0 - -
Cứng gáy 15,53 6,98 15,25 0,1616 0.9621
Dấu hiệu
Kernig
13,59 4,65 8,47 0,1149 0.3297
Rối loạn tâm
thần
55,34 0 11,86 - <0,0001
Giảm vận
động
2,91 0 6,78 - 0,2436
Mất cảm giác 0,97 - - - -

Sau 7 ngày điều trị, các triệu chứng HCNC do các tác nhân vi rút
khác nhau có xu hướng thuyên giảm ở tất cả các bệnh nhân. Tuy nhiên,
các triệu chứng như đau đầu, sốt (>37,50C), cứng gáy, dấu hiệu Kernig
vẫn còn ghi nhận ở bệnh nhân nhiễm vi rút Banna, vi rút ECHO và vi
rút VNNB.
Các triệu chứng như co giật, đau cơ, đau khớp, thóp phồng, mất
cảm giác chỉ còn ở một số ít bệnh nhân (1-2 bệnh nhân) thuộc nhóm
12




nhiễm vi rút Banna. Trong đó, co giật, đau cơ, thóp phồng và mất cảm
giác chỉ xuất hiện ở bệnh nhân nhiễm vi rút Banna. Đau khớp chỉ xuất
hiện ở bệnh nhân nhiễm vi rút ECHO30.
Đối với đấu hiệu Kernig, nhóm nhiễm vi rút Banna vẫn còn ghi
nhận một tỷ lệ cao là 13,59%. Ngược lại nhóm nhiễm vi rút VNNB là
8,47% và nhóm nhiễm vi rút ECHO30 chỉ còn 4,65%. Đối với bệnh
nhân rối loạn tâm thần, không còn được ghi nhận ở nhóm nhiễm vi rút
ECHO30, nhưng ở nhóm nhiễm vi rút Banna có một tỷ lệ rất cao 55,34
% trong khi đó ở nhóm nhiễm vi rút VNNB chỉ 11,86%.
Còn đối với triệu chứng giảm vận động, ở nhóm nhiễm vi rút
Banna là 2,91%, nhóm nhiễm vi rút VNNB là 6,78% và triệu chứng
buồn nôn không xuất hiện sau 7 ngày điều trị ở tất cả các bệnh nhân
trong nghiên cứu này
3.1.2.3. Kết quả sau điều trị Hội chứng não cấp do vi rút Banna

Bảng 3.5. Số ngày điều trị trung bình Hội chứng não cấp do vi rút tại
bệnh viện

Tác nhân
gây HCNC
Thời gian
trung bình (ngày)
Thời gian
tối thiểu
Thời gian tối đa
Vi rút Banna 13,5 1 85
Vi rút ECHO30 7,4 3 23
Vi rút VNNB 11,3 1 39
F=5,21,

F
P
=0,0062; Kiểm định Bartlett’s ta có P<0,0001

Nghiên cứu cho thấy thời gian điều trị trung bình và thời gian điều
trị tối đa của HCNC do vi rút Banna tương ứng là 13,5 ngày và 85
ngày, đây là khoảng thời gian điều trị dài nhất so với HCNC do vi rút
VNNB (trung bình 11,3 ngày) và vi rút ECHO30 (7,4 ngày).
Bảng 3.6. Kết quả điều tri sau nhiễm vi rút Banna
Tác nhân gây HCNC Số HCNC Số tử vong sau điều trị Tỷ lệ (%)
Vi rút Banna 103 15 14,6
Vi rút ECHO30 43 0 0
13



Tác nhân gây HCNC Số HCNC Số tử vong sau điều trị Tỷ lệ (%)
Vi rút VNNB 59 1 1,7
Tổng số 205 16 7,8

Kết quả điều tra hồi cứu cho thấy, trong tổng số 205 trường hợp
HCNC do vi rút Banna, ECHO30 và VNNB, có 16 trường hợp tử vong
sau điều trị. Tỷ lệ tử vong của HCNC do vi rút Banna là 14,6%
(15/103), tiếp đến tỷ lệ tử vong HCNC do vi rút VNNB là 1,7 % (1/59).
Ngược lại, không có trường hợp tử vong nào được ghi nhận trong số
các trường hợp HCNC do vi rút ECHO30.

3.2. Xác định tỷ lệ nhiễm vi rút Banna trong quần thể muỗi thu
thập ở một số địa phương Việt Nam.
Bảng 3.7. Tỷ lệ phân lập được vi rút Banna từ muỗi

Loài
Miền Bắc
Miền
Trung
Tây
Nguyên
Miền Nam
Số chủng /
số mẫu
Số
chủng /
số mẫu
Số chủng
/số mẫu
Số chủng/
số mẫu
An. vagus 2/4 // // //
Ar. subalbalus 2/9 // // //
Cx. pseudovishnui 0/6 // // 13/88
Cx. quinquefaciatus 1/32 0/1 3/16 7/68
Cx. fuscocephalus 1/9 0/1 1/8 //
Cx. gelidus 0/32 0/2 1/18 0/17
Cx. tritaeniorhynchus 5/551 2/11 2/53 0/27
Cx. vishnui 1/100 2/9 3/28 //
Tổng số (tỷ lệ phân lập
dương tính)
12/744
(1,6%)
4/24
(16,7%)

10/123
(8,1%)
20/200
(10,0%)

Trong tổng số 1.091 mẫu muỗi thu thập được ở các tỉnh thành
thuộc miền Bắc, miền Trung, miền Nam và Tây Nguyên, có 46 chủng
vi rút Banna được phân lập, tỷ lệ phân lập vi rút Banna từ muỗi ở Việt
Nam là 4,22%.
14



Tỷ lệ phân lập được vi rút Banna từ muỗi thấp nhất ở miền Bắc chỉ
có 1,61% (12/744), cao nhất ở miền Trung tỷ lệ phân lập dương tính là
16,67% (4/24)), tiếp đến là ở khu vực Tây Nguyên với tỷ lệ phân lập
(+) là 10% (20/200) và miền Nam có tỷ lệ phân lập (+) là 8,13%
(10/123).
Bảng 3.8. Thông tin các chủng vi rút Banna phân lập được ở miền Bắc

TT Loài muỗi
Giống
muỗi
Ký hiệu
chủng vi rút
Địa điểm
1 Cx. vishnui Muỗi cái 02VN 9 b Hà Tây
2 Cx. tritaeniorhynchus Muỗi cái 02VN 78 b Hà Tây
3 Cx. quinquefaciatus Muỗi cái 06 VN 1 Hà Tây
4 Cx. tritaeniorhynchus Muỗi cái 06 VN 2 Hà Tây

5 An. vagus Muỗi cái 06VN267 Bắc Giang
6 Cx. tritaeniorhynchus Muỗi cái 06VN268 Bắc Giang
7 Cx. tritaeniorhynchus Muỗi cái 06VN269 Bắc Giang
8 Cx. fuscocephalus Muỗi cái 06VN273 Bắc Giang
9 Ar. subalbalus Muỗi cái 06VN276 Bắc Giang
10 An. vagus Muỗi cái 06VN263 Bắc Giang
11 Cx.tritaeniorhynchus Muỗi cái 08VN117 Bắc Giang
12 Ar. subalbatus Muỗi cái 08VN114 Bắc Giang

Trong số 12 chủng vi rút Banna phân lập được ở miền Bắc 2001 -
2011, có 4 chủng vi rút Banna phân lập được ở tỉnh Hà Tây (cũ), 8
chủng vi rút Banna phân lập được ở tỉnh Bắc Giang. Trong nghiên cứu
này, vi rút Banna chưa phân lập được ở các tỉnh Lạng Sơn, Thái Bình
và Hà Nam.
Bảng 3.9. Thông tin các chủng vi rút Banna phân lập được ở miền Trung


TT Loài muỗi
Giống
muỗi
Ký hiệu chủng
vi rút
Địa điểm
1 Cx. vishnui
Muỗi cái 02VN 9
Quảng Bình
2 Cx. vishnui
Muỗi cái 02VN18 b
Quảng Bình
3 Cx. tritaeniorhynchus

Muỗi cái 02VN178 b
Quảng Bình
4 Cx. tritaeniorhynchus
Muỗi cái 02VN180 b
Quảng Bình
15



Có 4 chủng vi rút Banna được phân lập ở Quảng Bình, miền Trung
trong các năm 2001 – 2011, các chủng vi rút chủ yếu phân lập được từ
hai loài muỗi Culex tritaeniorhynchus, Culex vishnui trong số 5 loài
muỗi thu thập được ở Quảng Bình.

Bảng 3.10. Thông tin các chủng vi rút Banna phân lập được ở Tây
Nguyên
TT Loài muỗi
Giống
muỗi
Ký hiệu chủng
vi rút
Địa điểm
1 Cx. vishnui Muỗi cái 06VN 58 Gia Lai
2 Cx. quinquefaciatus Muỗi cái 06VN 60 Gia Lai
3 Cx. fuscocephalus Muỗi cái 06VN 63 Gia Lai
4 Cx. tritaeniorhynchus Muỗi cái 06VN 295 Kon Tum
5 Cx. vishnui Muỗi cái 06VN 326 Đắk Nông
6 Cx. tritaeniorhynchus Muỗi cái 07VN 287 Đắk Nông
7 Cx. quinquefaciatus Muỗi cái 07VN 300 Đắk Lắk
8 Cx. quinquefaciatus Muỗi cái 07VN 307 Kon Tum

9 Cx. vishnui Muỗi cái 07VN 308 Kon Tum
10 Cx. gelidus Muỗi cái 07VN 309 Kon Tum

Có 10 chủng vi rút Banna được phân lập từ muỗi thu thập ở 4 tỉnh
thuộc khu vực Tây Nguyên, trong đó có 4/10 chủng vi rút Banna phân
lập được ở tỉnh Kon Tum từ hai loài muỗi Culex quinquefaciatus và
Culex. vishnui, có 3/10 chủng vi rút Banna phân lập được ở tỉnh Gia
Lai từ ba loài muỗi Culex fuscocephalus, Culex quinquefaciatus và
Culex vishnui. Có 2/10 chủng phân lập được ở tỉnh Đăk Nông từ Culex
tritaeniorhynchus và Culex vishnui, chỉ có 1/10 chủng phân lập được ở
tỉnh Đắk Lắk từ Culex quinquefaciatus.

Bảng 3.11. Thông tin các chủng vi rút Banna phân lập được ở miền Nam

TT Loài muỗi Giống muỗi
Ký hiệu chủng vi
rút
Địa điểm
1 Cx. quinquefaciatus
Muỗi cái
05 VN266
Cần Thơ
16



TT Loài muỗi Giống muỗi
Ký hiệu chủng vi
rút
Địa điểm

2 Cx. quinquefaciatus Muỗi cái 05VN 274 Cần Thơ
3 Cx. quinquefaciatus Muỗi cái 05VN 277 Cần Thơ
4 Cx. pseudovishnui Muỗi cái 05VN 280 Cần Thơ
5 Cx. quinquefaciatus Muỗi cái 05VN 290 Cần Thơ
6 Cx. quinquefaciatus Muỗi cái 05VN 301 Cần Thơ
7 Cx. quinquefaciatus Muỗi cái 05VN 305 Cần Thơ
8 Cx. pseudovishnui Muỗi cái 05VN 486 Cần Thơ
9 Cx. pseudovishnui Muỗi cái 05VN 487 Cần Thơ
10 Cx. pseudovishnui Muỗi cái 05VN 491 Cần Thơ
11 Cx. pseudovishnui Muỗi cái 05VN 492 Cần Thơ
12 Cx. pseudovishnui Muỗi cái 05VN 494 Cần Thơ
13 Cx. pseudovishnui Muỗi cái 05VN 495 Cần Thơ
14 Cx. pseudovishnui Muỗi cái 05VN 496 Cần Thơ
15 Cx. pseudovishnui Muỗi cái 05VN 505 Cần Thơ
16 Cx. pseudovishnui Muỗi cái 05VN 507 Cần Thơ
17 Cx. pseudovishnui Muỗi cái CT-Mo-P7b Cần Thơ
18 Cx. quinquefaciatus Muỗi cái 05VN 531 Cần Thơ
19 Cx. pseudovishnui
Muỗi đực
05VN 308 Long An
20
Cx. pseudovishnui
Muỗi đực
05VN 311
Long An

Có 20 chủng vi rút Banna được phân lập ở hai tỉnh Cần Thơ, Long
An, trong đó phần lớn các chủng vi rút Banna được phân lập từ muỗi
cái thu thập ở tỉnh Cần Thơ (18/20 chủng). Trong nghiên cứu này có
2/20 chủng vi rút Banna được phân lập từ những muỗi đực Culex

pseudovishnui thu thập ở tỉnh Long An. Trong số 20 chủng vi rút Banna
được phân lập ở hai tỉnh Cần Thơ và Long An trong năm 2005, có 7/20
chủng vi rút Banna được phân lập từ muỗi Culex quinquefaciatus, có
13/20 chủng vi rút Banna phân lập được từ Culex pseudovishnui.
17



3.3. Một số đặc điểm sinh học phân tử của vi rút Banna phân lập
được ở Việt Nam.

3.3.1. Phân bố vi rút Banna ở Việt Nam
Xác định các chủng vi rút Banna được phân lập từ người bệnh, từ
muỗi, lợn ở các tỉnh/ thành phố của miền Bắc, miền Trung, miền Nam
và Tây Nguyên. Vi rút Banna được phân lập từ muỗi ở 9 tỉnh bao gồm
Bắc Giang, Hà Tây cũ, Quảng Bình, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk
Nông, Cần Thơ và Long An. Riêng tỉnh Hà Tây cũ, vi rút Banna không
những được phân lập từ muỗi mà còn được phân lập từ lợn.

Bảng 3.12. Thông tin về số đăng ký trình tự nucleotide vùng gen số 12
của 5 chủng vi rút Banna trong ngân hàng gen quốc tế

Ký hiệu
chủng
Thời
gian
Địa điểm
Loại mẫu bệnh
phẩm
Số đăng ký

trên ngân
hàng gen
03VN 99 2003 Thanh Hóa


Từ người (DNT) AB773281
05VN 225 2005 Gia Lai Từ người (DNT) AB773282
03VN 45 2003 Hà Tây Máu lợn AB773283
05VN 301 2005 Cần Thơ Culex fatigan AB773284
05VN 305 2005 Cần Thơ Culex fatigan AB773285

Trong nghiên cứu này có 5 chủng vi rút Banna được phân lập từ
muỗi, người và lợn đăng ký trong ngân hàng gen và có các mã số để tra
cứu và chia sẻ thông tin trong đó có 2 chủng vi rút Banna phân lập từ
người bệnh, 1 chủng phân lập từ lợn và 2 chủng phân lập từ muỗi thuộc
các tỉnh thành ở miền Bắc, miền Nam và Tây Nguyên.
Cây di truyền phả hệ được xây dựng dựa trên trình tự toàn bộ vùng
gen mã hóa phân đoạn số 12 của 5 chủng vi rút Banna phân lập từ bệnh
nhân HCNC, từ lợn và muỗi 2003 - 2005 ở Việt Nam được so sánh với
38 trình tự vùng gen mã hóa phân đoạn số 12 của các chủng vi rút
18



A
Banna khác bao gồm 5 chủng vi rút Banna phân lập ở miền Bắc, miền
Trung năm 2002 và các chủng vi rút Banna ở một số nước châu Á đã
công bố trên ngân hàng gen.

Hình 3.1. Cây di truyền phả hệ mô tả mối quan hệ giữa các chủng vi

rút Banna dựa trên vùng gen mã hóa phân đoạn số 12

















Kết quả so sánh trình tự nucleotide vùng gen mã hóa số 12 của các
chủng vi rút Banna đã xác định các chủng vi rút phân lập thuộc
genotype A, nằm trong phân nhóm genotype A1 và tạo thành một clade
riêng biệt, clade Việt Nam.
3.3.2. Kết quả giải trình tự nucleotide của vùng gen mã hóa số 12
Trình tự nucleotide và acid amin vùng gen mã hóa số 12 được sử
dụng để phân tích đặc điểm phân tử giữa hai chủng vi rút Banna phân
lập từ bệnh nhân Việt Nam với một chủng vi rút Banna phân lập ở
Trung Quốc đầu tiên từ năm 1987 (chủng Prototype).
So sánh sắp cặp trình tự 667 nucleotide vùng gen mã hóa phân
đoạn số 12 của các chủng vi rút Banna phân lập từ bệnh nhân, kết quả
19




xác định có 49 đột biến điểm ở vùng gen số 12 của các chủng vi rút
Banna phân lập từ bệnh nhân Việt Nam so với vùng gen số 12 của
chủng vi rút Banna phân lập từ bệnh nhân ở Trung Quốc. Trong số 49
đột biến nucleotide phần lớn là đột biến đơn, chỉ có duy nhất có đột
biến kép (đột biến hai nucleotide liền nhau).
Khi so sánh trình tự nucleotide của toàn bộ vùng gen mã hóa phân
đoạn gen số 12 của 2 chủng vi rút Banna phân lập từ bệnh nhân Việt
Nam trong các năm 2003, 2005 với chủng vi rút Banna phân lập từ
bệnh nhân ở Trung Quốc cho thấy các chủng vi rút Banna phân lập từ
bệnh nhân Việt Nam không có mối liên hệ di truyền gần với chủng vi
rút Banna phân lập từ bệnh nhân ở Trung Quốc.

Chương IV. BÀN LUẬN

4.1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ, lâm sàng của Hội chứng não
cấp nghi ngờ do vi rút Banna ở một số địa phương của Việt Nam,
2002-2012
Trong nghiên cứu này có 717 mẫu dịch não tủy của bệnh nhân
HCNC nghi ngờ do vi rút chưa được xác định nguyên nhân được sử
dụng để phát hiện IgM kháng vi rút Banna, đây là những mẫu dịch não
tủy của bệnh nhân HCNC ở 9 tỉnh/thành phố thuộc miền Bắc, miền
Trung, miền Nam và Tây Nguyên.
Do nghiên cứu được thiết kế trên cơ sở các mẫu bệnh phẩm được
thu thập và lưu giữ khi có ca bệnh HCNC đã loại trừ một số căn nguyên
vi rút gây HCNC. Mặt khác do đặc điểm sinh thái các miền vùng khác
nhau, nên số các trường hợp HCNC nói chung chủ yếu được ghi nhận ở
miền Bắc Việt Nam. Đối chiếu kết quả giám sát huyết thanh học HCNC

do vi rút Banna ở Trung Quốc trong số những trường hợp có chẩn đoán
lâm sàng là VNNB, tỷ lệ huyết thanh bệnh nhân (+) với kháng nguyên
vi rút Banna tái tổ hợp từ vùng gen VP9, bằng kỹ thuật ELISA phát
hiện IgM là khoảng 15%. Như vậy kết quả xác định (+) với kháng
nguyên vi rút Banna trong số các trường hợp HCNC nghi ngờ do vi rút
(đã loại trừ các trường xác định dương tính với kháng nguyên VNNB)
ở 9 tỉnh/thành phố ở Việt Nam xác định dao động trong khoảng 13,83%
20



– 35,83% (trung bình là 25,66%), điều này cho thấy ở các phân vùng
địa lý khác nhau, tỷ lệ mắc HCNC do một loại tác nhân gây bệnh cũng
có thể khác nhau.
Khi tính trên tổng số 1.285 mẫu dịch não tủy chưa sàng lọc một số
tác nhân gây bệnh, tỷ lệ xác định (+) với kháng nguyên vi rút Banna sẽ
là 184/1.285 (14,32%), tương tự như kết quả xác định dương tính trong
số các trường hợp có chẩn đoán lâm sàng VNNB ở Trung Quốc.
Trong số các trường hợp xác định (+), nhóm trẻ < 1 tuổi có tỷ lệ số
mắc thấp nhất, tỷ lệ số mắc cao nhất là nhóm tuổi ≥ 15 (28,26 %). Kết
quả này phù hợp với một đặc điểm nhiễm Arbo vi rút gây HCNC như
vi rút VNNB, đó là tỷ lệ số mắc ở nhóm dưới 1 tuổi rất thấp, nhưng tỷ
lệ số mắc vi rút Banna ở nhóm tuổi ≥ 15 cao hơn các nhóm khác là
28,26 %, thông thường tỷ lệ số mắc HCNC do vi rút VNNB ở nhóm
tuổi ≥ 15 khoảng 10 % theo các y văn trước đây.
Về đặc điểm lâm sàng, triệu chứng của HCNC là các dấu hiệu liên
quan đến hệ thống thần kinh như đau đầu, nôn, co giật, buồn nôn, đau
khớp, nhưng những dấu hiệu này có sự xuất hiện với tần suất khác nhau
ở nhóm HCNC do vi rút Banna, vi rút ECHO30 hay do vi rút VNNB.
Hầu hết những bệnh nhân bị HCNC do vi rút ECHO30 có triệu trứng

đau đầu, nôn và buồn nôn với tần suất cao hơn rất nhiều so với những
bệnh nhân bị HCNC do vi rút Banna và vi rút VNNB. Triệu chứng co
giật chiếm tỷ lệ cao ở nhóm do HCNC do vi rút VNNB (61,02 %) trong
khi đó nhóm HCNC do vi rút Banna chỉ có 30,23 %, còn nhóm HCNC
do vi rút ECHO30 xuất hiện rất thấp chỉ có 2,33 %. Tuy nhiên, tỷ lệ tử
vong của các trường hợp HCNC do vi rút Banna được ghi nhận trong
nghiên cứu này là khoảng 15 % cao hơn so với tỷ lệ tử vong của HCNC
do vi rút VNNB. Những trường hợp HCNC do vi rút Banna xuất hiện
triệu chứng cứng gáy với tần suất cao 77,45 % trong khi đó nhóm
HCNC do vi rút VNNB chỉ có 50,85 % và nhóm HCNC do vi rút
ECHO30 là 39,53%. Rối loạn tâm thần xuất hiện hầu hết ở bệnh nhân
HCNC do vi rút Banna và vi rút VNNB tương ứng là 81,55 % và 88,14
% trong khi đó nhóm HCNC do vi rút ECHO30 triệu chứng này chỉ
xuất hiện có 11,63 % mang tính đặc trưng cho HCNC do vi rút Banna.
Sau một tuần điều trị cho thấy nhóm HCNC do vi rút Banna vẫn
còn có các dấu hiệu lâm sàng đặc biệt là dấu hiệu rối loạn tâm thần còn
21



một tỷ lệ cao 55,34 % trong khi đó ở nhóm HCNC do vi rút VNNB
triệu chứng rối loạn tâm thần chỉ còn 11,86 % còn nhóm HCNC do vi
rút ECHO30 không còn được ghi nhận.
4.2. Xác định tỷ lệ nhiễm vi rút Banna trong quần thể muỗi thu
thập ở một số địa phương Việt Nam.
Vi rút Banna là một loại vi rút do muỗi truyền, rất thích ứng trên
dòng tế bào C6/36. Để xác định các loài muỗi mang vi rút/véc-tơ truyền
vi rút phải dựa trên kết quả phân lập và định loại được vi rút từ muỗi.
Thu thập muỗi được thực hiện từ năm 2002- 2011 thuộc 04 vùng miền
trên cả nước. Kết quả có 66.760 cá thể muỗi của 21 loài muỗi được chia

thành 1091 mẫu muỗi được thu thập. Trong số các cá thể muỗi thu thập
được, loài Culex pseudovishnui chiếm ưu thế và có tỷ lệ cao nhất
(43,76%). Ngoài ra, cũng thu thập được các cá thể muỗi của Anopheles,
Armigeres, Aedes và Mansonia
Kết quả phân lập vi rút cho thấy tỷ lệ phân lập được vi rút Banna từ
muỗi là 4,22% (46/1091). Các tỉnh có mẫu muỗi phân lập được vi rút
Banna bao gồm: Bắc Giang, Quảng Bình, Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk
Nông, Gia Lai, Cần Thơ, Long An và Hà Tây (9/12 tỉnh).
Trong nghiên cứu này vi rút Banna được phân lập từ loài muỗi
Culex tritaeniorhynchus ở cả miền Bắc, miền Trung và Tây Nguyên. Ở
miền Nam vi rút Banna chủ yếu được phân lập từ loài Culex
pseudovishnui và Culex quinquefaciatus. Tuy nhiên, việc phân lập được
vi rút Banna từ 8 loài muỗi khác nhau cho thấy số loài muỗi là véc tơ
hoặc có thể là vec tơ của vi rút Banna rộng hơn so với véc tơ truyền vi
rút VNNB.
4.3. Xác định một số đặc điểm sinh học phân tử của vi rút Banna
phân lập được ở Việt Nam.
Trình tự vùng gen mã hóa số 12 của các chủng vi rút Banna được
lựa chọn để phân tích genotype các chủng vi rút Banna phân lập ở Việt
Nam và một số vùng địa lý ở châu Á. Kết quả nghiên cứu đã xác định
các chủng vi rút Banna được chia thành hai genotype khác nhau, các
chủng vi rút ở Trung Quốc và Việt Nam thuộc genotype A, còn các
chủng phân lập từ Indonesia thuộc genotype B. Genotype A được chia
thành hai phân nhóm genotype A1 và A2; Trong phân nhóm genotype
A1 được chia ra 4 clade độc lập với nhau bao gồm các chủng vi rút
22



Banna phân lập tại ở miền Bắc Trung Quốc, Liaoning và Việt Nam;

Phân nhóm genotype A2 bao gồm các chủng vi rút Banna phân lập ở
Miền Trung Việt Nam, Trung Quốc.
Đặc điểm phân tử của các vi rút trong họ Reoviridae là ARN sợi
kép gồm nhiều phân đoạn. Tùy từng chi vi rút khác nhau số các phân
đoạn cũng khác nhau ví dụ như chi Orthoreovirus (Reovirus),
Orbivirus, Rotavirus là những chi vi rút có 10 hoặc 11 phân đoạn
(không có phân đoạn thứ 12), còn chi Coltivirus và Seadornavirus có 12
phân đoạn. Chính vì vậy trong nghiên cứu này chúng tôi lựa chọn vùng
gen mã hóa số 12 để thực hiện nghiên cứu dịch tễ học phân tử sự lưu
hành của vi rút Banna ở Việt Nam. Trong nghiên cứu này có 10 chủng
vi rút Banna phân lập được ở Việt Nam từ người bệnh, từ muỗi và lợn
được giải trình tự vùng gen số 12 để phân tích so sánh với trình tự vùng
gen số 12 của các chủng vi rút Banna phân lập trong khu vực. Trình tự
vùng gen số 12 có nguồn gốc từ người, từ lợn và từ muỗi có mã số của
ngân hàng gen quốc tế, trong đó có 5 trình tự nucleotide vùng gen số 12
được đăng ký trong nghiên cứu trước đây, còn 5 trình tự được đăng ký
trong nghiên cứu này, trong đó có 2 trình tự nucleotide vùng gen số 12
từ chủng vi rút Banna phân lập từ bệnh nhân HCNC ở Việt Nam. Cho
thấy, nghiên cứu giải trình tự toàn bộ genome của vi rút Banna phân lập
từ bệnh nhân Việt Nam cần được đề cập đến trong những nghiên cứu
tiếp theo.

KẾT LUẬN
1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng Hội chứng não
cấp do vi rút Banna ở một số địa phương Việt Nam
1.1. Tỷ lệ số mắc vi rút Banna ở Việt Nam
Tỷ lệ xác định (+) với kháng nguyên vi rút Banna dao động trong
khoảng 13,83% – 35,83 % tùy từng tỉnh/thành phố, tỷ lệ số dương tính
cao nhất là ở tỉnh Hà Tây (cũ) 35,83%, thấp nhất là ở Bắc Giang
13,83%. Tỷ lệ xác định (+) với kháng nguyên vi rút Banna được ghi

nhận quanh năm, nhưng tập trung chủ yếu trong các tháng 5, 6, 7 và 8
với số xác định (+) cao nhất trong tháng 6 là 34,78%
Tỷ lệ xác định (+) với kháng nguyên vi rút Banna khác nhau theo
các nhóm tuổi, cụ thể thấp nhất là nhóm < 1 tuổi là 5,98 %, cao nhất là
23



nhóm ≥ 15 tuổi là 28,26%, các nhóm 1 – 4 tuổi, 5 – 9 tuổi và 10 – 14
tuổi dao động 19,02 % - 23,91 %. Tỷ lệ số mắc ở nam cao hơn ở nữ
tương ứng là 60,87 % và 39,13 %.
1.2. Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng Hội chứng não cấp do vi rút Banna
Khi nhập viện bệnh nhân HCNC nghi do vi rút có các triệu chứng
lâm sàng đau đầu, nôn, co giật, sốt cao trên 37,5
o
C, thóp phồng, cứng
gáy, dấu hiệu Kernig, rối loạn tâm thần và giảm vận động với tỷ lệ cao
23,3% - 78,64%, không có triệu chứng đau cơ, đau khớp và thiếu cảm
giác. Đặc biệt triệu chứng thóp phồng hầu hết chỉ có ở bệnh nhân
HCNC do Banna vi rút gây ra (23,3%).
Sau một tuần điều trị hầu hết các bệnh nhân HCNC do Banna vi rút
không còn các triệu chứng lâm sàng như lúc nhập viện (0,97%-
15,53%). Tuy nhiên, triệu chứng rối loạn tâm thần còn tỷ lệ cao 55,34%
ở bệnh nhân HCNC do vi rút Banna gây ra, các tác nhân khác triệu
chứng này rất ít gặp.
Thời gian điều trị trung bình của HCNC do vi rút Banna là 13,5
ngày và thời gian điều trị tối đa 85 ngày. Tỷ lệ tử vong HCNC do vi rút
Banna rất cao là 14,6% so với vi rút VNNB (1,7%) và vi rút ECHO30
(0%).
2. Xác định tỷ lệ nhiễm vi rút Banna trong quần thể muỗi thu

thập ở một số tỉnh thành ở Việt Nam.
Tỷ lệ phân lập được vi rút Banna trung bình từ muỗi là 4,22% mẫu
muỗi thu thập (46/1.091), giữa các khu vực tỷ lệ phân lập được vi rút
Banna dao động trong khoảng 1,61% - 16,67%.
Trong số 46 chủng vi rút Banna phân lập được từ muỗi có 02
chủng phân lập được từ muỗi đực từ Culex pseudovishnui ở Long An,
còn 44 chủng vi rút Banna phân lập được từ muỗi cái.
3. Xác định một số đặc điểm sinh học phân tử của vi rút Banna
lưu hành ở Việt Nam.
Có 5 chủng vi rút Banna được giải trình tự vùng gen mã hóa phân
đoạn số 12 để đăng ký trong ngân hàng gen và đã được cấp mã số là
AB773281, AB773282, AB773283, AB773284 và AB773285
Về đặc điểm dịch tễ sinh học phân tử xác định các chủng vi rút
Banna phân lập từ bệnh nhân và muỗi, lợn trong 2002 – 2005 ở miền
Bắc, miền Trung, miền Nam và Tây Nguyên là genotype A, thuộc phân
24



nhóm genotype A1, tạo thành một clade riêng biệt, clade Việt Nam.
Riêng có 2 chủng vi rút Banna phân lập từ muỗi ở miền Trung thuộc
phân nhóm genotype A2. Sự tương đồng so với trình tự nucleotide
vùng mã hóa số 12 của chủng vi rút Banna phân lập từ bệnh nhân ở
Trung Quốc (chủng prototype) chỉ có 90,6 %, khẳng định các chủng vi
rút Banna là chủng nội địa.

KIẾN NGHỊ

Một số kiến nghị trên cở sở kết quả nghiên cứu của đề tài:
1. Giám sát huyết thanh học và điều tra hồi cứu về đặc điểm lâm sàng

HCNC do vi rút Banna cho thấy đây là một bệnh do muỗi truyền, tỷ
lệ số mắc được ghi nhận ở mọi lứa tuổi, diễn biến lâm sàng nặng, tỷ
lệ tử vong cao cho thấy nghiên cứu biện pháp điều trị và dự phòng
bệnh cần được thực hiện.
2. Tỷ lệ mang vi rút Banna trong quần thể muỗi cao, các loài muỗi
mang vi rút Banna rộng hơn so với vi rút VNNB nên cần tiếp tục có
nghiên cứu giám sát sự lưu hành của vi rút Banna trong quần thể
muỗi và tăng cường công tác phòng chống bệnh do muỗi truyền nói
chung và HCNC do vi rút Banna nói riêng trong khi chưa thuốc
điều trị đặc hiệu và vắc xin phòng bệnh.
3.
Phân tích đặc điểm sinh học phân tử các chủng vi rút Banna phân
lập được ở Việt Nam xác định chúng là vi rút nội địa, không phải
là vi rút Banna xâm nhập từ Trung Quốc. Đây là một tác nhân gây
HCNC và sốt không rõ nguyên nhân đã được ghi nhận, cho thấy
cần có những nghiên cứu tiếp theo phát triển sinh phẩm chẩn đoán
và giám sát bệnh để giúp cho việc điều trị và dự phòng bệnh có
hiệu quả.

×