Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

THỰC HÀNH ĐỘNG VẬT HỌC (PHẦN HÌNH THÁI – GIẢI PHẪU) part 8 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 14 trang )


97
thân có hai dải nâu kéo dài từ mắt tới đuôi. Số vảy vòng quanh thân có ý nghĩa phân loại ở bò
sát, thường đạt 25 vảy ở Mabuya longicaudata.
d) Đuôi
Khá dày và có vảy phủ tương tự thân. Ranh giới giữa thân và đuôi là khe huyệt. Gốc
đuôi con đực có cơ quan giao cấu. Trước khe huyệt có hàng vảy hậu môn nằm ngang, đôi khi
phía trước có hàng vảy trước hậu môn nhỏ hơn.
Chú ý khả năng tự cắt đuôi để tự vệ của Thằn lằn khi gặp nguy hiểm. Vị trí nơi đuôi tự
cắt có khả năng tái sinh. Có thể phần đuôi tái sinh với phàn đuôi chính thức nhờ vào kích
thước ngắn hơn và màu sắc sáng hơn, đồng thời có hơi thắt lại của phần đuôi tái sinh.
4.2 Nghiên cứu cấu tạo trong
a) Hệ tuần hoàn
+ Tim nằm dưới đai ngực và được bao bọc trong xoang tim. Dùng kéo cắt bỏ xoang bao
tim để quan sát tim (hình 8.11).
Tim Thằn lằn gồm hai tâm nhĩ và một tâm thất. Tâm thất có thành dày, màu hồng nhạt,
đỉnh hướng về phía sau thân. Hai tâm nhĩ ở phía trước tâm thất, có thành mỏng hơn và màu
thẫm.
+ Từ tâm thất phát ra hai cung chủ
động mạch đi về hai bên phải và trái. Từ
cung chủ động mạch phải phát ra động
mạch cảnh chung đi lên phía trên rồi
chia đôi thành động mạch cảnh trái. Các
động mạch cảnh mỗi bên liên hệ với
cung chủ động mạch cùng bên qua ống
cảnh.
Hai cung chủ động mạch vòng về
phía sau và hợp thành động mạch chủ
lưng lẻ. Động mạch này là dòng máu
chủ yếu đi nuôi nội quan, từ động mạch
này máu được phân tới các cơ quan


trong cơ thể ở xoang bụng.
Động mạch dưói đòn trái và phải
đều đi qua từ giữa cung chủ động mạch
phải đưa máu vào chi trước.
Tiếp tục nâng tâm nhĩ lên sẽ thấy
ở mỗi bên có tĩnh mạch cảnh và tĩnh
mạch dưới đòn đưa máu từ phần đầu và
các chi trước. Đặt biệt ở Thằn lằn có
tĩnh mạch đầu lẻ nằm lệch về phía bên
phải. Các tĩnh mạch cảnh và tĩnh mạch
Hình 8.11 Hệ tuần hoàn của thằn lằn

98
dưới đòn cùng bên hợp thành tĩnh mạch chủ trước đưa máu về xoang tĩnh mạch.
Nâng tâm thất về phía trước sẽ thấy tĩnh mạch chủ sau tĩnh mạch này cũng đổ vào
xoang tĩnh mạch. Máu tĩnh mạch từ xoang này đổ vào tâm nhĩ phải. Máu ở phần sau cơ thể
theo tĩnh mạch bụng đổ vào gan. Máu ở ruột theo tĩnh mạch cửa gan cũng đổ vào gan. Máu ở
gan theo tĩnh mạch gan đổ vào tĩnh mạch chủ sau. Máu ở thận theo hai tĩnh mạch thận cũng
đổ vào tĩnh mạch chủ sau (hình 8.11).
b) Cơ quan hô hấp
Hai lỗ mũi ngoài mở ra phía trước mõm Thằn lằn thông với lỗ mũi trong - lỗ khoan ở
phỉa trên vòm miệng. Phía sau gốc lưởi ở thềm miệng là hai khe thanh quản được giới hạn bởi
đôi sụn hạt cau và dẩn vào khí quản là một ống dài cấu tạo bởi nhiều vòng sụn nâng đỡ nằm ở
mặt lưng của tim. Gạt tim lên phía trước quan sát hai phế quản ngắn dẫn đến phổi. Phổi Thằn
lằn là hai túi xốp cấu tạo dạng tổ ong và thường bị gan che lấp một phần nhỏ (hình 8.12).
c) Cơ quan tiêu hoá
Bắt đầu đường tiêu hóa là miệng mở ra phía trước mõm. Xung quanh bở hàm trên và bờ
hàm dưới có hàng răng nhỏ. Trong xoang miệng có lưỡi nằm trên thềm miệng. Lưỡi có đầu
tù, thân chiếm trọn diện tích thềm miệng. Phía sau gốc lưỡi có khe thanh quản. Trên vòm
miệng có lỗ Eustatchi thông

với xoang miệng. Xoang
miệng dẫn vào thực quản. Sau
thực quản là dạ dày không lớn
lắm so với ruột. Dạ dày được
dính vào lưng nhờ mạc treo
ruột. Tiếp sau là ruột tá. Ruột
non và tá tràng khó phân biệt
về kích thướt và ranh giới.
Ruột non uống khúc vài lần rồi
chuyển sang trực tràng trung
gian giữa hai phần ruột này có
manh tràng. Trực tràng đổ ra
huyệt (hình 8.12).
Tì là khối nhỏ màu đỏ
sẫm nằm ở cuối mạc treo dạ
dày.
Gan lớn và hơi có dạng
tam giác che phủ hầu hết các
phần ruột. Phía sau gan chia
thành ba thuỳ, phía trước hẹp
là đỉnh tam giác.
Hình 8.12 Cấu tạo nội quan thằn lằn

99
Túi mật hình khối bầu dục nằm giữa hai thuỳ gan trái và phải. Mật theo ống dẫn mật đổ
vào tá tràng.
Tuyến tụy là thể dài màu trắng dục và bám vào mạc treo của tá tràng.
d) Cơ quan niệu sinh dục
Gạt gan, ruột sang bên, tách mạt treo ruột sẽ dể dàng quan sát cơ quan niệu sinh dục
(hình 8.4).

+ Thận là hậu thận đặc trưng cho động vật có màng ối. Thận Thằn lằn màu vàng nằm
sát thành lưng vùng chậu. Muốn quan sát được phải tiến hành cắt bỏ phần trước đai chậu.
Bóng đái nằm ở trước trực tràng.
+ Con đực có cơ quan sinh dục là đôi tinh hoàn hình bầu dục màu trắng dục. Tinh hoàn
bên phải cao hơn tinh hoàn bên trái một chút. Bên cạnh tinh hoàn có phàn phụ tinh hoàn là hệ
thống ống nhỏ uốn khúc nhiều lần và chuyển sang ống dẫn tinh hay ống Vonphơ. Phía trước
tinh hoàn đôi khi còn thấy di tích ống Mulle. Cơ quan giao cấu là hai khối bầu dục dài nằm ở
gốc đuôi bên ngoài huyệt. Muốn quan sát được cơ quan này phải mổ một lớp vảy gốc đuôi
ngay sau huyệt. Nếu mổ Thằn lằn sống, dùng cán dao hay lưng kéo gạt ngược chiều về phía
gốc đuôi ngay sau huyệt, cơ quan giao cấu sẽ lộ ra. Con cái có cơ quan sinh dục là đôi buồng
trứng chiếm vị trí trong cơ thể tương tự tinh hoàn. Đôi ống Mulle làm nhiệm vụ ống dẫn
trứng, đầu có phễu mở ra trong
xoang cơ thể. Gốc ống dẫn
trứng phình rộng thành tử
cung. Về mùa sinh sản (tháng
6, 7) có thể thấy các trứng lớn
trong tử cung. Cuối cùng tử
cung dẫn vào huyệt.
4.2.5 Não bộ
Cắt đầu Thằn lằn, dùng
dao cạo sạch vảy và da đầu.
Sau đó lấy mũi dao cạy nắp
vỏ, gắp bỏ hết xương nóc sọ,
não bộ sẽ lộ ra rõ ràng. Có thể
nhỏ vài giọt cồn cố định não
để dễ quan sát (hình 8.13).
+ Não trước lớn, kéo dài,
phân rõ thành hai bán cầu. Mút
trước bán cầu não thuỳ khứu
giác.

+ Não giữa là hai củ não
sinh đôi. Đó chính là hai thuỳ
thị giác.
Hình 8.13 Cấu tạo não bộ thằn lằn

100
+ Tiểu não hình tấm nằm ngay sau thuỳ thị giác.
+ Hành tuỷ có xoang não thất IV hay hố trám. Mặt trên có búi mạch dễ bị mất khi mở
nắp sọ.
Dùng dao cắt phía sau hành tuỷ, lật ngược lên dể quan sát mặt dưới. Ngoài những phần
như đã thấy ở trên, ta sẽ thấy được não trung gian. Não trung gian ở mặt trên bị che khuất bởi
bán cầu não trước và hai thuỳ thị giác, chỉ có thể thấy được mấu não trên nằm xen giữa hai
bán cầu não trước và đôi thuỳ thị giác.
Phía trước não trung gian ở mặt dưới có giao thoa thị giác là gốc đôi dây thần kinh II –
dây thị giác. Phía sau giao thoa thị giác là phểu não. Đầu phểu não có mấu não dưới.


Câu hỏi đánh giá
1. Nêu đặc điểm về hình dạng ngoài của cơ thể ếch đồng thích nghi với đời sống dưới nước và
trên cạn (hình dạng cơ thể, chi, da…)?
2. Trình bày cấu tạo cơ quan hô hấp của ếch đồng? Giải thích cơ chế hô hấp còn thể hiện tính
chất nguyên thủy nhưng thích nghi với lối sống?
3. Trình bày cấu tạo cơ quan tiêu hóa và sinh dục của ếch đồng?
4. So sánh hệ tuần hoàn của ếch đồng với hệ tuần hòa của thằn lằn bóng? Nêu đặc điểm tiến
bộ của tuần hoàn thằn lằn bóng so với ếch đồng?
5. Cho biết cấu tạo hệ thần kinh của thằn lằn bóng? Theo anh (chị) thì hệ thần kinh của thằn
lằn bóng tiến hóa hơn hệ thần kinh của ếch đồng ở điểm nào? Giải thích tại sao?




101
Bài 9.
Lớp chim – Đại diện Bồ câu


I. Vị trí phân loại
Chim Bồ câu Columba livia
Họ Bồ câu Columbiadae
Bộ Bồ câu Columgiformes
Lớp Chim Aves
Ngành phụ Có sọ Cratiota
Hay ngành phụ có xương sống Vertebrata
Ngành Có dây sống Chordata

II. Mẫu vật, dụng cụ, hoá chất
- Bồ câu sống
- Hộp đồ mổ
- Khây mổ
- Ghim cắm
- Bông thấm nước
- Tranh vẽ:
+ Cấu tạo lông chim
+ Nội quan chim Bồ câu
+ Sơ đồ hệ tuàn hoàn chim
+ Cơ quan niệu sinh dục chim Bồ câu
+ Não bộ chim Bồ câu

III. Phương pháp giải phẫu
Đặt chim trong khay (ván) mổ. Dùng dây
buộc căng cánh và hai chi sau ra sau ván mổ.

Dùng dao rạch một đường dọc giữa ngực hai bên gờ lưỡi hái theo hình mũi tên ở hình
9.1. Chú ý rạch từ từ sẽ thấy màng mỏng trong suốt là các túi khí xen vào cơ ngực.
Hai khối cơ lớn nằm hai bên xương lưỡi hái là hai co ngực lớn rất khoẻ. Khi cơ co sẽ
thực hiện động tác đập cánh. Gỡ, và kéo cơ ngực sang hai bên, không nên cắt rời vì dễ
chạm phải động mạch ngực nhỏ hơn. Khi cơ này co thì cánh được nâng lên. Kích
thước hai cơ này cho thấy động tác nâng cánh tốn ít năng lượng hơn động tác hạ cánh.
Hình 9.1 Đường mổ bồ câu
Theo đường mũi tên giữa A - B. Sau đó
lượn kéo theo đường mũi tên

102
Thực ra khi nâng cánh, ngoài cơ này còn có sự tham gia của cơ đòn và sự sắp xếp của
lông cánh.
Tiếp tục dùng kéo mổ một đường từ huyệt đến xương ức (hình 9.1). Cắt xương
ức và nâng mũi kéo lên. Cắt xương quạ để mở xoang ngực và tiến hành quan sát cấu
tạo trong.

IV. Nội dung
1. Quan sát hình dạng ngoài bồ câu
1.1 Quan sát hình dạng
Cơ thể chim Bồ câu có dạng hình trứng
chia làm năm phần là phần đầu, cổ, thân, đuôi
và chi (hình 9.2).
Toàn bộ cơ thể chim (trừ mỏ và phần dưới
của chân) được phủ lớp lông vũ tạo nên hình
dạng ngoài của chim. Lông gồm bốn loại: Lông
bao, lông nệm, lông tơ và lông đặc biệt.
Quan sát lông cánh hoặc lông đuôi. Lông
bao bọc quanh cơ thể chim gồm thân lông và hai
phiến lông. Phần dưới thân lông rỗng gọi là gốc

lông cắm vào da. Phần trên đặc là thân lông
mang phiến lông. Mỗi phiến lông có nhiều râu
lông dài gọi là râu sơ cấp kép vào nhau và gốc
đính vào thân. Hai bên râu sơ cấp có hai hàng râu mảnh hơn là râu thứ cấp. Mỗi râu
lông thư cấp thuộc hàng xa có móc
nhỏ gọi là móc lông dể móc vào râu
thứ cấp hàng gần của râu sơ cấp tiếp
theo (hình 9.3).
Hai phiến lông của lông cánh
thường không đều nhau: Phiến bên
ngoài hẹp, phiến bên trong rộng hơn.
Điều này có ý nghĩa trong sự sắp sếp
của lông cánh liên quan đến động
tác năng cánh và hạ cánh khi bay.
Đầu mút gốc lông có một lỗ
nhỏ là lỗ nhỏ dưới là nơi đi vào của
mạch máu nuôi lông trong thời kỳ phát triển. Rất dễ quan sát khi ta nhổ lông sẽ thấy
máu. Mặt dưới thân lông, chỗ ranh giới giữa thân lông và gốc lông có lổ nhỏ trên cũng
là nơi đi vào của mạch máu nuôi lông. Bên cạnh lỗ này đôi khi có một thân lông phụ
kém phát triển.
Hình 9.3 Cấu tạo lông chim bồ câu
1. Gốc lông; 2. Thân lông; 3. Sợi lông; 4. Lông tơ

1
4
2
4
3
2
Hình 9.2 Hình dạng ngoài bồ câu

1. Mỏ; 2. Mắt; 3. Ngực; 4. Giò; 5. Ngón
chân; 6. Lưng; 7. Cánh; 8. Đuôi; I - IV
Các ngón chân

103
Trên cơ thể chim lông phân bố không đều. Tùy theo chổ có lông hay không mà
chia ra hai loại vùng là vùng có lông và vùng không có lông (vùng trụi lông). Vùng có
lông phân bố hầu khắp cơ thể. Vùng trụi thường ở gốc các chi, nơi cử động nhiều,
hoặc ở bụng chim là vùng ấp. Vùng các cơ nâng cánh và đập cánh cũng không có lông
giúp các cơ này cử động được dễ dàng.
1.2 Nghiên cứu cấu tạo và vị trí các lông trên thân chim
+ Lông cánh là những lông bao lớn mọc ở bờ sau của cánh (hình 9.2), tuỳ theo
vị trí mà có thể chia thành lông cánh sơ cấp mọc ở bàn và ngón tay, lông cánh thứ cấp
mọc ở ống tay, lông cánh tam cấp mọc ở cánh tay. Lông cánh có cấu tạo điển hình.
+ Lông đuôi là những lông bao lớn mọc ở đuôi làm nhiệm vụ bánh lái khi chim
bay. Lông đuôi cũng có cấu tạo điển hình như trên hình 9.3.
Tuỳ theo vị trí mà chia ra làm nhiều loại lông bao: Lông bao trên cánh mọc ở bờ
trên cánh, lông bao dưới cánh mọc ở bờ dưới xương cánh, lông bao trên đuôi, lông
bao dưới đuôi, lông bao tai, lông bao trên cổ, lông bao ngực… Lông bao là lông bao
phủ toàn bộ cơ thể chim, giữ vai trò quyết định tạo nên hình dáng của chim.
+ Lông nệm: Tuy có cấu tạo điển hình của lông nhưng so với lông cánh và lông
đuôi thì có kích thước nhỏ hơn nhiều. Lông này không có móc lông và thường lót bên
trong lông bao, có nhiệm vụ giữ nhiệt và giảm khối lượng cơ thể.
+ Lông bông: Không có thân lông, không có râu thứ cấp hoặc kém phát triển,
các râu sơ cấp đính trên gốc lông. Loại lông này có ít ở Bồ câu.
+ Lông bán bông: Thân lông kém phát triển, râu sơ cấp mềm, râu thứ cấp không
có móc nên không tạo thành phiến lông.
+ Lông tơ: Thân lông rất mảnh, ở cuối có một ít râu sơ cấp kém phát triển (hình
9.3).
1.3 Quan sát thứ tự sắp xếp lông cánh trên cánh chim

Tất cả lông cánh sắp xếp theo thứ tự phiến ngoài hẹp hơn và phủ lên một phần
phía trong của lông kế bên (hình 9.3). Tất cả lông cánh tạo nên một mặt phẳng khá
vững chắc. Khi nâng cánh lên, mỗi lông xoay đi một góc nhỏ quanh trụ thân lông, tạo
nên những khe hở giữa các lông để không khí lọt qua. Do đó chim nâng cánh khá nhẹ
nhàng. Khi chim hạ cánh xuống lông lại xoay trở lại, phủ kín lên nhau làm thành tấm
rộng, cản không khí nên nâng bổng chim lên cao. Nhờ ngọn lông mềm mại nên khi đó
ở phần ngọn lông hơi cao hơn phần gốc cánh nên đẩy chim đi về phía trước.
Cầm cánh duỗi ra và co lại sẽ thấy sự chuyển động của cánh chỉ thích hợp theo
một mặt phẳng nhất định. Điều đó làm tăng độ vững chắc của cánh và rất cần thiết
cho sự bay lượn. Nó còn được củng cố nhờ màng da căng cánh. Màng này nằm ở mếp
trước của cánh và nối từ gốc cánh đến khớp gian cổ tay.
1.4 Quan sát đầu chim
Thấy rõ các cơ quan sau:

104
+ Mỏ hình thành do sự kéo dài của xương hàm, ngoài ra còn có sự tham gia của
xương hàm trên. Mỏ chim được cấu tạo sừng bọc lấy phần trước của hàm. Phần dưới
của mỏ do xương răng kéo dài. Gốc mỏ Bồ câu và một số chim như diều hâu, cú, vẹt
… được phủ một màng da trần được gọi là da gốc mỏ. Hình dạng và kích thước của
mỏ thay đổi tuỳ thuộc vào thức ăn của chim.
+ Mũi hình khe mở ra ở gốc của da gốc mỏ. Trong lỗ mũi là xoang mũi thông
với xoang miệng nhờ lổ mũi trong hình khe rất hẹp.
+ Hai bên đàu có hai mắt lớn. Mắt Bồ câu có ba mí là mí trên, mí dưới và màng
nháy ở góc trước mắt.
+ Phía dưới và sau mắt là lỗ tai tròn và ống tai ngoài. Phía ngoài lỗ tai có phủ
một lớp lông thưa. Đáy ồng tai ngoài là màng nhĩ. Bên trong màng nhĩ là ống tai giữa
thông với xoang miệng nhờ ống Eustatchi. Nhờ ống này mà áp suất không khí, trong
và ngoài tai giữa bằng nhau và điều hoà cả khi có sự chuyển động mạnh của không
khí.
+ Phần sau cơ thể chim có phao câu, mặt trên có đôi tuyến phao câu. Tuyến này

rất phát triển đối với chim ở nước vì chúng dùng đẻ chải bộ lông cho lông không thấm
nước.
+ Đùi và ống chân Bồ câu có phần cổ bàn phức tạp (giò) và các ngón chân
không phủ lông mà phủ vảy sừng như bò sát. Đầu mút các ngón chân có móng sừng.
Chân chim thường bốn ngón. Ngón I hướng về sau, các ngón hướng từ trong ra theo
thứ tự là II, III, IV. Khi co sẽ thấy các ngón chân quặp lại và khi duỗi ra các ngón
cũng tự động duỗi ra. Đó là do sự sắp xếp của cơ và gân ở chân chim. Lúc chim đậu
trên cành cây, do sức nặng của cơ thể, hai chân quặp lại làm cho các ngón chân quắp
vào cành cây. Nhờ thế mà chim có thể ngủ trên cây mà không bị rơi và không mất
năng lưọng co cơ.
2. Nghiên cứu cấu tạo trong của Bồ câu
2.1 Hệ tuần hoàn
+ Tim rất lớn, nằm giữa xoang ngực. Bên ngoài tim có màng mỏng bao quanh
gọi là xoang bao tim. Dùng kèo để cắt bỏ xoang này để quan sát xoang bao tim. Tim
hình chóp, đỉnh hướng về phía sau. Ngang tim có dãy mỡ ở bên ngoài chia tim làm
hai phần: phần trên là hai tâm nhĩ, phần dưới là hai tâm thất. Tâm nhĩ có thành mỏng,
màu sẫm. Thường tâm nhĩ phải căng hơn tâm nhĩ trái. Tâm thất màng dày hơn và sáng
hơn tâm nhĩ, nằm xen giữa các thuỳ gan. Mổ dọc tim sẽ thấy tâm thất trái có thành
dày hơn và kích thước lớn hơn tâm thất phải. Hai nửa tim trái và phải hoàn toàn tách
biệt nhau. Nửa tim trái chứa máu động mạch, nửa tim phải chứa máu tĩnh mạch. Tuần
hoàn hai vòng rõ ràng và máu ở tim không bị pha trộn (hình 9.4).
+ Hệ mạch: Từ tâm thất phải phát ra đọng mạch phổi chia hai nhánh đưa máu
tĩnh mạch vào phổi. Động mạch này nằm dưới cung chủ đồng mạch, nên cũng có thể

105
xác định được ngược lại từ phổi. Máu
tĩnh mạch đã được oxi hoá ở phổi trở
về tim nhờ các tĩnh mạch phổi đổ vào
tâm nhĩ trái. Đó là vòng tuần hoàn
nhỏ.

Từ tâm thất trái phát ra cung chủ
động mạch đi ra khỏi tim vòng về bên
phải, sau đó chạy dọc cột sống con vật
và phát ra nhiều nhánh động mạch đi
nuôi cơ thể (hình 9.4).
Sau khi ra khỏi tim, cung phải
động mạch phát ra hai động mạch
không tên. Từ mỗi động mạch không
tên cùng bên phát ra ba nhánh động
mạch cảnh chung, động mạch dưới
đòn và động mạch ngực. Trong ba
động mạch này, động mạch ngực lớn
hơn cả. Động mạch cảnh đưa máu lên
đầu. Động mạch dưới đòn đưa máu
đến cánh. Động mạch ngực phân
thành nhiều nhánh đưa máu đên nuôi
cơ ngực. Điều đó có thể giải thích
được rằng cơ ngực là cơ hạ cánh có
vai trò quan trọng trong đông tác bay
của chim.
Cung chủ động mạch khi chạy
dọc lưng gọi là động mạch chủ lưng.
Từ động mạch này phát ra các nhánh
động mạch đến các cơ quan của nội
quan cơ thể. Tìm các động mạch cho
thấy: ngay ở đỉnh tim có động mạch ruột đưa máu đến dạ dày và ruột. Sau động mạch
này là động mạch mạc treo ruột. Đi đến thận, động mạch củ lưng phát ra động mạch
thận. Tiếp theo là động mạch chủ đùi, động mạch ngồi đi vào chi sau. Sau động mạch
ngồi là đôi động mạch chậu. Động mạch chủ lưng thu nhỏ thành mạch đuôi.
Máu tĩnh mạch ở hai bên cổ hình thành hai tĩnh mạch cảnh đưa máu tĩnh mạch ở

đầu về. Máu tĩnh mạch ở hai cánh theo tĩnh mạch ngực đổ về. Cả ba tĩnh mạch này
mỗi bên đều đỏ về tĩnh mạch chủ trước. Hai tĩnh mạch chủ trước ở hai bên đổ vào tâm
nhĩ phải.
Hình 9.4 Hệ tuần hoàn của bồ câu
1. T/n phải; 2. T/t phải; 3. Đ/m phổi trái; 4. Đ/m phổi phải;
5. T/n trái; 6. T/t trái; 7. Cung đ/m chủ; 8. Đ/m không tên
trái; 9. Đ/m không tên trái; 10. Đ/m cảnh chung; 11. Đ/m
cảnh ngoài; 12. Đ/m cảnh trong; 13. Đ/m dưới đòn; 14.
Đ/m ngực trái; 15. Đ/m chủ lưng; 16. Đ/m đùi phải; 17.
Đ/m thận; 18. Đ/m ngồi trái; 19. Đ/m hông; 20. Đ/m mạc
treo ruột; 21. Đ/m đuôi; 22. T/m đuôi; 23. T/m cửa thận;
24. T/m đùi; 25. T/m hông; 26. T/m chủ sau; 27. T/m mạc
treo ruột; 28. T/m trên thận; 29. T/m thận; 30. T/m cảnh
trái; 31. T/m dưới đòn trái; 32. T/m chủ trước phải


106
Máu tĩnh mạch ở đuôi theo tĩnh mạch đuôi đi lên nhận máu từ đôi tĩnh mạch
chậu trong. Cùng đổ vào đó còn có tĩnh mạch phao câu, mạc treo ruột, đôi tĩnh mạhc
gánh thận và tĩnh mạch đùi.
Tĩnh mạch chậu ngoài hai bên tập trung lại đổ vào tĩnh mạch gan. Máu tĩnh
mạch qua gan đổ vào tĩnh mạch chủ sau. Tĩnh mạch này tập trung máu ở phần sau cơ
thể rồi đổ vào tâm nhĩ phải.
2.2 Cơ quan hô hấp
+ Lỗ mũi ngoài nằm ở gốc mỏ chim dẫn vào lỗ mũi trong mở ra ở vòm miệng.
Tiếp đến là khe thanh quản. Khe thanh quản là đỉnh của thanh quản. Sau thanh quản là
khí quản. Khí quản là một ống dài dọc suốt chiều dài của cổ. Khí quản gồm một số
vòng sụn nâng đỡ, đôi khi chúng có hoá xương. Cuối khí quản chia đôi thành hai phế
quản dẫn đến hai là phổi. Ngã ba hai phế quản và khí quản là minh quản là cơ quan
phát thanh của chim. Minh quản có màng âm thanh, vòng sụn cuối, cơ phế thanh quản

(hình 9.5).









Các loài chim khác nhau có cấu tạo minh quảng khác nhau. Đặc biệt là các loài
chim hót hay và có tiếng kêu to có minh quản rất phát triển.
+ Phổi: Bồ câu không lớn, nằm dính sát vào thành lưng con vật. Đó là cấu tạo
liên quan đến điều kiện sóng bay lượn của chim. Phổi chim xốp nên khả năng dự trữ
không khí lớn.
+ Túi khí là những màng mỏng (hình 9.5) len lỏi giữa các nội quan, cơ dưới da
và khe hổng trong xương. Bồ câu cũng như nhiều loài chim bay có 9 túi khí: Một túi
lẻ ở ngực ngang “Chạc đòn”; bốn đôi túi chẵn ở nội quan. Trong đó có đôi túi phủ
tạng là lớn nhất, phân bố len lỏi trong cơ, dưới da, trong nội quan và các hốc xương để
chứa khí. Túi khí có tác dụng làm giảm tỷ trọng của chim, chứa khí để giúp chim hô
hấp kép (khi chim bay), phát tiếng kêu khi chuyển khí qua hệ minh quản và điều hoà
nhiệt độ.
2.3 Cơ quan tiêu hoá
Ống tiêu hóa bắt đầu là xoang miệng. Trong xoang miệng có lưỡi. Sau gốc lưởi
là khe thanh quản thuộc cơ quan hô hấp.
Hình 9.5 Sơ đồ vị trí các túi khí và phổi của chim
1. Khí quản; 2. Phổi; 3. Các túi khí trước;
4. Các túi khí sau
1
3

4
2
Minh quản được cấu tạo bởi hệ
thông dây thanh, gồm hai loại: loại dài
mảnh đi từ khí quản vào các phế quản
và loại dây ngắn thô. Minh quản còn
có cơ hót. Khi cơ này co làm các dây
thanh chùng - thẳng khác nhau, kết
hợp với luồng không khí vào và ra từ
túi khí, phổi tạo ra các âm thanh khác
nhau.

107
Sau khe thanh quản là thực quản, ống dài có thành mỏng, có khả năng co giản
nằm dưới da dọc theo cổ.
Phần cuối thực quản phình rộng thành diều. Diều là nơi tích trữ thức ăn tạm
thời, làm mềm thức ăn nhờ nước bọt và chất nhầy do tuyến diều tiết ra, do vậy có tiêu
hoá một phần thức ăn. Vào thời kỳ nuôi con, tuyến diều của Bồ câu tạo “sữa diều” để
mớm cho chim non. Sau diều còn một đoạn ngắn nữa rồi chuyển sang dạ dày.
Dạ dày gồm hai phần là dạ dày cơ hay mề và dạ dày tuyến. Dạ dày tuyến có
thành mềm có nhiều tuyến tiêu hoá. Dạ dày cơ có thành cơ dày và chắc bên trong có
lót màng kitin. Đối với chim ăn hạt, trong dạ dày cơ thường có nhiều hạt sạn để tăng
ma sát khi nghiền thức ăn (hình 9.6).
Sau dạ dày tuyến đến ruột tá. Tiếp sau ruột tá là đến ruột non uốn khúc và được
treo vào thành lưng của xoang cơ thể nhờ màng treo ruột. Ruột non chuyển sang ruột
già ngắn, cuối cùng đổ ra huyệt. Ranh giới giữa ruột già là đôi ruột tịt là đôi ống ngắn.
Hình 9.6 Cấu tạo nội quan bồ câu
1. Mỏ; 2. Diều; 3. Tinh hoàn; 4. Gan; 5. Mề; 6. Phổi; 7. Phế quản; 8. Ruột tá; 9. Huyệt; 10. T/t trái; 11. T/t phải;
12. T/n trái; 13. T/n phải; 14. Khí quản; 15. Đ/m dưới đòn trái; 16. T/m cảnh; 17. T/m dưới đòn trái; 18. Ruột
non; 19. T/m cảnh phải; 20. Manh tràng; 21. Thận; 22. Ống dẫn niệu; 23. Ống dẫn tinh; 24. Thực quản; 25. Dạ

dày tuyến; 26. Tuyến tuỵ; 27. Minh quản; 28. Tỳ

108
Kích thước ruột tịt ở các loài chim là rất khác nhau. Đa số chim bay không hình thành
ruột thẳng hay trực tràng. Do vậy phân được thải liên tục cũng là một thích nghi giảm
nhẹ cơ thể trong khi bay của chim.
Tuyến tụy màu vàng nâu nhạt, có ba ống dẫn đổ chất tiêt vào ruột tá. Gan của
Bồ câu phủ gần kín dạ dày. Thuỳ gan phải lớn hơn thuỳ gan trái. Bồ câu không có túi
mật. Các loài chim khác túi mật phát triển. mật từ gan theo hai ống dẫn mật đổ vào hai
đầu ruột tá. Tì tạng nằm ở gần dạ dày tuyến là khối màu thẩm.
2.4 Cơ quan niệu sinh dục
+ Thận là hậu thận khá lớn, chia ba thuỳ nằm trong hốc xương chậu, sát thành
lưng con vật. Ống dẫn niệu rất nhỏ xuất phát từ thận ở ranh giới thuỳ trước và thuỳ
giữa. Hai ống dẫn niệu chạy song song, rồi đổ ra huyệt (hình 9.7).
Tuyến trên thận có màu vàng
nằm ở bờ trong đầu thận. Chim
không có bóng đái để giảm nhẹ cơ
thể thích nghi với đới sống bay.
Nước tiểu được phần ruột sau hấp
thụ lại nước còn chất bã bám vào
phân ra ngoài nên phân chim có màu
trắng.
+ Chim trống có một đôi tinh
hoàn (hình 9.7A) là hai khối hình bầu
dục màu trắng dục nằm ở phần bụng
phần trước của thận. Từ mỗi tinh
hoàn phát ra một ống dẫn tinh tương
ứng với ống wolff và chạy song song
với ống dẫn niệu. Gốc ống dẫn tinh
phình rộng thành túi tinh thông ra

huyệt.
+ Chim cái chỉ có một buồng
trứng trái (hình 9.7B). Thời kì sinh sản buồng trứng rất phát triển và có thể dễ nhận
thấy các trưng non chứa nhiều noãn hoàng. Ống dẫn trứng tương ứng với ống Muller,
đầu mở rộng thành phễu ở gần mép buồng trứng. Cuối ống dẫn trứng phình rộng
thành tử cung rồi đổ ra huyệt. Mùa sinh sản, ống này rất phát triển và dài ra, phễu mở
rộng để đón trứng. Ngoài mùa sinh sản, ống dẩn trứng bé và nằm sát thành lưng
xoang bụng.
2.5 Hệ thần kinh
So với bò sát, não chim phát triển cao hơn: Kích thước lớn hơn bán cầu não lớn
hơn, tiểu não rất phát triển liên quan đến đời sống hoạt động tích cực của chim, thuỳ
khứu giác nhỏ, não uống khúc rõ ràng (hình 9.8).
Hình 9.7 Cấu tạo cơ quan sinh dục của bồ câu
A. Con đực; B. Con cái
A. 1. Phụ dịch hoàn; 2. Dịch hoàn; 3. Ống dẫn tinh;
4. Thận; 5. Ống dẫn niệu; 6. Huyệt; 7. Lỗ mở của
ống dẫn tinh; 8. Lỗ mở của ống dẫn niệu
B. 1. Thận; 2. Ống dẫn niệu; 3. Buồng trứng; 4.
Phếu của ống dẫn trứng; 5. Ống dẫn trứng;
6. Huyệt; 7. Lỗ mở của ống dẫn niệu; 8. Lỗ mở của
ống dẫn trứng; 9. Ống dẫn trứng phải tiêu giảm

109
+ Não trước là hai bán cầu não trước lớn, mặt ngoài phẳng. Bên trong là hai não
thất I và II. Phía trước hai bán cầu não là hai thuỳ khứu giác liên hệ với đôi dây thần
kinh khứu giác – dây thần kinh số I.
+ Tiếp sau là não trung gian hoàn toàn bị che khuất do sự phát triển của hai bán
cầu não trước. Mặt trên não trung gian có mấu não trên nằm xen giữa hai bán cầu não
và tiểu não. Xoang bên trong là não thứ III.
+ Não giữa là hai thuỳ thị giác lớn bị bán cầu não và tiểu não đẩy sang hai bên.

Xoang bên trong là rảnh Synvi nối não thất thứ II ở não trung gian với não thất thứ IV
ở hành tuỷ.
+ Tiểu não khá lớn chia ra ba thuỳ. Thuỳ giữa hình giun rất lớn mặt trên có
nhiều vân ngang và hai thuỳ bên nhỏ. Tiểu não phát triển liên quan đến đời sống hoạt
động mạnh và động tác hoạt động khá phức tạp khi bay trên không của chim.
+ Hành tuỷ nằm ngay sau tiểu não. Phần trước hành tuỷ cũng bị tiểu não che
khuất. Xoang bên trong là hố trám – não thất thứ IV. Hành tuỷ ở chim cũng giống các
động vật có xương sống khác, là nơi xuất phát của các đôi dây thần kinh não từ mặt
bên và mặt dưới.
Quan sát mặt dưới não bộ chim Bồ câu cho thấy (hình 9.8C). Phía trước não
trung gian có giao thoa thị giác là chỗ bắt chéo của đôi dây thần kinh thị giác– dây II.
Sau giao thoa thị giác là phễu não và mấu não dưới. Ở chim có 12 đôi dây thần kinh
não xuất phát chủ yếu từ hành tuỷ.
3. Quan sát bộ xương chim
3.1 Những đặc điểm cần chú ý khi quan sát bộ xương chim
Để thích nghi với lối chuyển vận bay lượn trên không, bộ xương chim đã có
nhiều biến đổi về cấu tạo cơ bản để thích nghi:
Hình 9.8 Cấu tạo não của chim bồ câu
a. Nhìn trên; b. Nhìn bên; c. Nhìn dưới
1. Thuỳ khứu giác; 2. Bán cầu não; 3. Thùy thị giác; 4. Tiểu não; 5. Hành tủy; 6. Mấu não trên;
7. Dây thần kinh thị giác; 8. Mấu não dưới

110
- Nhẹ hơ do xương chim mỏng, xốp, trong xương có nhiều xoang khí nhất là
những xương dài. Sọ chim không có răng.
- Vững chắc hơn do các xương đã gắn lại với nhau hoàn toàn, ranh giới hầu như
không có ở chim trưởng thành, chỉ thấy ở chim non.
- Về cấu tạo, bộ xương đã có nhiều biến đổi khác hẳn về cấu tạo điển hình của
bộ xương động vật có xương sống (hình 9.10):
+ Chi trước biến thành cánh.

+ Xương ức nhô cao thành gờ lưỡi hái là nơi bám của cơ ngực (cơ đập cánh và
cơ quạ cánh tay là hạ cánh).
+ Xương đòn hình chữ “V” có tác dụng như cái “díp”, tham gia vào động tác
nâng cánh của chim, còn gọi là “chạc đòn”.
+ Các đốt sống có cổ kiểu đốt sống lõm khác hay lõm yên ngựa, đảm bảo cho cổ
vững chắc và linh hoạt. Các đốt sống sau phần ngực cũng như các đốt sống chậu gắn
lại với nhau. Đặt biệt các đốt sống ở vùng chậu gắn cả với xương chậu tạo nên kiểu
chậu tổng hợp.
+ Chi sau có phần cổ bàn phức tạp (cẳng thứ cấp) cùng với các phần khác tạo
Hình 9.10 Sơ đồ về bộ xương chim
a. Lông cánh sơ cấp trên xương cổ bàn; b. Lông cánh thứ cấp trên xương tay trụ; c. Ba lông cánh mọc
trên ngón cái.
1. Khe lông cánh sơ cấp; 2. Lông cánh sơ cấp; 3. Các ngón tay; 4. X. bàn tay; 5. Ngón tay; 6. x. cổ tay;
7. x. tay (quay - trụ); 8. x. cánh; 9. Ổ mắt; 10. Lỗ mũi; 11. Hàm trên; 12. Hàm dưới; 13. x. vuông; 14.
x. đòn; 15. x. quạ; 16. x. bả; 17. cột sống; 18. x. ức; 19. x. sườn; 20. x. mác; 21. x. chày; 22. x. bàn
chân; 23 -25. các x. ngón chân; 26. gót; 27. x. đùi; 28. x. ngồi; 29. x. háng; 30. x chậu; 31. Lông vai
10
9
1
22
23
24
26
27
11
25
12
8
2
5

4
3
7
6
a
b
c
13
14
15
16
17
18
19
20
21
28
29

17

31
30

×