Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

THỰC HÀNH ĐỘNG VẬT HỌC (PHẦN HÌNH THÁI – GIẢI PHẪU) part 5 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 14 trang )



55















+ Hệ hô hấp: Ốc nhồi có đặc điểm là vừa có phổi vừa có mang. Bên trái xoang áo là
phổi thông với ngoài qua xiphông hút. Phần bên phải của xoang áo là xoang mang, thông ra
ngoài theo xiphông thoát. Trong xoang mang có một dãy lá mang chạy song song với đoạn
ruột thẳng.
+ Hệ bài tiết: Gồm một tuyến Bojanus màu đen sẫm phủ trên đoạn ruột cạnh bao tim và
đổ ra đáy xoang áo.
+ Hệ sinh dục: Ốc nhồi là động vật phân tính, có thể phân biệt ốc nhồi đực và cái qua
hình dạng ngoài. Con cái lớn hơn, đỉnh vỏ thấp và không nhọn như ốc đực.
- Cơ quan sinh dục đực gồm một tuyến tinh nhỏ màu trắng nằm cạnh ruột xoắn gần dạ
dày. ống dẫn tinh nhỏ, màu trắng chạy qua tuyến gan - tụy và dưới trực tràng, đổ vào túi chứa
tinh dẫn đến cơ quan giao phối. Cơ quan giao phối có rãnh hình máng để dẫn tinh trùng.
- Cơ quan sinh dục cái gồm một tuyến trứng hình khối nhỏ màu trắng, nằm cạnh tuyến
anbumin. ống dẫn trứng màu trắng chạy xuyên qua tuyến anbumin rồi theo chiều từ trái sang


phải, hướng về phía trước đổ ra ngoài qua lỗ sinh dục cái.
+ Hệ thần kinh: Ốc nhồi có 2 hạch não nằm trên hành miệng. giữa hai hạch thần kinh có
cầu nối với nhau vắt qua hành miệng và có các dây thần kinh đi đến tua đầu và mắt.
- Hai khối hạch chân nằm ở hai bên dưới hành miệng, mỗi khối hạch này là do một
hạch áo và một hạch chân gắn lại với nhau. Hai khối hạch chân bên có cầu nối với nhau và
với hạch não.
- Hạch thần kinh trên ruột có dây thần kinh điều khiển mang, áo và osphradi, nối hạch
chân - áo. Còn có khối hạch phủ tạng nối với hạch trên ruột.
Hình 5.3 Hệ tiêu hoá và tuần hoàn cña ốc nhồi



56
Cơ quan cảm giác của ốc nhồi là một đôi mắt và cơ quan cảm giác hóa học là osphradi
nằm gần miêng. Ngoài ra còn có cơ quan thăng bằng nằm trong một hốc màu vàng.
2. Nghiên cứu trai sông
Vị trí phân loại
Loài Sinanodonta jourdyi hay S. woodiana
Họ Unionidae
Phân bộ Schizodonta
Bộ Eulamellibranchia
Lớp hai mảnh vỏ - Bivalvia, ngành Thân mềm (Mollusca).
2.1 Kỹ thuật nghiên cứu
+ Muốn nghiên cứu nội quan phải tách Trai ra khỏi vỏ: Dùng dao lach nhẹ vào khe bụng
Trai, tách rời áo Trai ra khỏi vỏ ở chỗ đường viền áo và cắt đứt 2 khối cơ khép vỏ nằm ở phía
đầu và đuôi của con vật.
+ Muốn quan sát hệ tuần hoàn phải tiêm dung dịch màu pha trong gelatin nóng chảy
trong nước ấm. Vị trí tiêm là tâm thất hay động mạch trước. Chú ý là trước khi tiêm phải giết
chết Trai hay gây mê thì mới có hiệu quả.
+ Muốn quan sát hệ sinh dục phải lột lớp áo và cơ bao phủ.

+ Muốn quan sát hệ tiêu hóa phải ghim chặt Trai vào tư thế thẳng đứng trong chậu mổ.
Từ từ lột bỏ áo, cơ và hệ sinh dục thì sẽ thấy hệ tiêu hóa. Chú ý là đường đi của hệ tiêu hóa
Trai rất phức tạp do đó phải giao phối thật cẩn thận.
+ Muốn quan sát hệ thần kinh thì giao phối Trai đã định hình bằng formalin thì tốt hơn
Trai còn sống vì hệ thần kinh của Trai đã định hình sẽ cứng và có màu sắc phân biệt rõ hơn so
với Trai còn sống.
2.2 Nội dung nghiên cứu
a) Quan sát hình dạng ngoài
Vỏ trai bao bọc bên ngoài cơ thể gồm nhiều lớp khác nhau: Ngoài cùng là lớp sừng
(conchiolin) màu nâu sẫm, tiếp đến là lớp đá vôi dày, màu trắng, trong cùng là lớp xà cừ có
màu sắc lóng lánh, sặc sỡ.
Vỏ Trai gồm 2 mảnh bằng nhau, xếp đối xứng trái, phải, dính với nhau ở phía lưng. Chỗ
2 vỏ dính với nhau có dây chằng và bản lề, đó cũng chính là đỉnh vỏ, là nơi được tạo ra sớm
nhất của Trai. Khi Trai lớn dần thì các vòng vỏ càng lớn, tạo ra các đường cong càng lớn
xung quanh đỉnh vỏ và được gọi là đường tuổi. Phân biệt phía đầu là vỏ hơi lồi, phía đuôi hơi
nhọn (hình 5.4).
Hai mảnh vỏ được khép chặt nhờ 2 khối cơ khép vỏ lớn và khỏe. Thấy rõ ở mặt trong
của vỏ Trai. Mặt trong của vỏ còn thấy rõ đường viền của áo Trai, nối liền 2 vết bám của khối
cơ khép vỏ (hình 5.5).


57
Nhìn chung cơ thể Trai giống như một quyển sách mà 2 bìa sách là 2 vỏ, còn các tờ giấy
bên trong là áo, mang và thân Trai. Sau khi bỏ vỏ thì ngoài cùng là áo, tiếp đến là mang (gồm
2 lá, lá mang ngoài và lá mang trong) và thân Trai ở giữa. Nhìn từ phía lưng còn thấy bao tim,
trong đó có 1 đoạn ruột chạy qua tâm thất. Trước bao tim có 2 dải màu hồng làm thành hình
chữ "V" ngược, đó là cơ quan Keber. Dưới xoang bao tim có hai vệt dài màu đen thẫm, đó là
thận. Phía dưới thận là chân. Khoảng trống nằm giữa 2 tấm áo là xoang áo. Về phía sau, 2
mép áo khớp lại với nhau tạo thành hai ống hình phễu gọi là xiphông, xiphông hút ở dưới,
xiphông thoát ở trên.





















b) Nghiên cứu các nội quan
+ Hệ tiêu hóa: Gồm có miệng, thực quản, dạ dày, ruột giữa, ruột sau và khối gan tụy.
thực quản là một ống lớn thông với phần trước của dạ dày. Dạ dày không có hình dạng nhất
định và có thể tích khá lớn (hình 5.6). Tiếp theo là ruột giữa khá dài, cuộn thành nhiều khúc:
đoạn đầu ruột chạy từ dạ dày hướng ra phía sau và xuống dưới, đoạn cuối cùng nằm gần song
song đọan đầu nhưng theo chiều ngược lại, từ dưới lên trên, hướng về phía trước. Tiếp theo là
ruột sau, có một đoạn chui qua tâm thất. Hậu môn nằm gần xiphông thoát, trong xoang áo.
+ Hệ hô hấp: Có 4 lá mang, mỗi bên thân có 2 lá. Mỗi lá mang gồm 2 tấm mang (tấm
ngoài và tấm trong), mỗi tấm do nhiều sợi mang ghép lại mà thành.
Hình 5.4 Vỏ Trai sông nhìn bên ngoài

Hình 5.5 Mặt trong của vỏ Trai sông


58
+ Hệ tuần hoàn: Là hệ tuần hoàn hở, gồm 1 tâm thất và 2 tâm nhĩ, các động mạch và
tĩnh mạch cùng với các khe xoang. Xoang bao tim khá lớn, có thành mỏng, nằm phía sau
lưng. Tâm thất hình quả lê, nằm giữa xoang bao tim, phần sau lớn hơn phần trước. Hai tâm
nhĩ hình tam giác, đỉnh của chúng tiếp xúc với hai bên tâm thất, ở đó có lỗ nhĩ thất.
Hệ động mạch: Phần gốc của động mạch trước bao phủ hai bên của ống ruột sau. Phần
gốc của động mạch sau nằm dưới ruột sau. Từ động mạch trước có các nhánh đi vào khối gan
tụy, cơ khép vỏ trước, thùy miệng, mang, thận, chân và áo. Bờ mép áo có động mạch chứa
máu từ tâm thất theo động mạch trước và động mạch sau (hình 5.7).

























Hệ tĩnh mạch ở bờ mép áo. Máu từ đây chảy theo hai hướng trước và sau rồi trở về tĩnh
mạch mang. Từ các khe xoang máu được dẫn tới các tĩnh mạch tới mang. Ở mang, sau khi
thực hiện quá trình trao đổi ô xy, máu theo các tĩnh mạch rời mang trở về tĩnh mạch mang, từ
đó đổ vào tâm nhĩ (hình 5.8).
Hình 5.6 Cấu tạo nội quan của Trai sông
Hình 5.7 Hệ động mạch của Trai sông



59








+ Hệ bài tiết là thận màu đen thẫm, nằm dưới xoang bao tim và cơ quan Keber nằm viền
bao phía trước xoang bao tim, màu hồng, có hình chữ "V". Sản phẩm bài tiết của cơ quan
Keber đổ vào xoang bao tim, rồi từ đó qua thận đổ ra ngoài.
+ Hệ thần kinh gồm 3 đôi hạch (hạch não - bên, hạch chân và hạch phủ tạng). Ngoài ra
còn có các dây thần kinh.
- Đôi hạch não - bên hình tam giác, màu vàng da cam, nằm dưới thành cơ thể, ở hai bên

miệng gần với gốc thùy miệng. Chúng nối với nhau bởi cầu nối nằm ngay trên thực quản. Từ
hạch thần kinh não - bên có dây thần kinh đi tới cơ khép vỏ trước, thùy miệng đi tới cơ khép
vỏ trước, thùy miệng và áo.
- Đôi hạch phủ tạng dính với nhau nằm ngay dưới bụng của cơ khép vỏ, gần hậu môn.
Từ đây có các dây thần kinh đi tới bụng và mang. Giữa hạch não - bên và phủ tạng có dây
thần kinh não - phủ tạng. Phía trước hai dây này xa nhau, còn về phía sau thì 2 dây này càng
gần nhau (hình 5.9).















Hình 5.9 Hệ thần kinh của Trai sông

Hình 5.8 Hệ tĩnh mạch của Trai sông


60
Đôi hạch thần kinh chân nằm sâu trong khối cơ chân. Muốn thấy được đôi hạch này thì
phải giải phẩu dọc cơ chân. Đôi hạch này liên hệ với nhau bằng một cầu nối ngắn, từ mỗi

hạch chân đều có dây thần kinh điều khiển hoạt động của chân và các dây thần kinh liên hệ
với các hạch thần kinh khác.
Cơ quan cảm giác quan trọng nhất là bình nang, nằm cạnh hạch chân. Đó là một túi nhỏ,
vách túi là các tế bào các tế bào cảm giác có chất keo bao bọc. Trong túi có bình thạch. Bình
nang chịu sự điều khiển của hạch thần kinh não - bên. Ngoài ra Trai còn có các tế bào cảm
giác phân bố trên lớp biểu bì của thùy miệng và các xiphông.
+ Hệ sinh dục: Trai sông là động vật phân tính (con đực nhỏ và dẹp, con cái lớn và dày
hơn). Đôi tuyến sinh dục nằm trong phần thân, bao quanh hệ thống ruột, mỗi tuyến có một lỗ
thông với xoang áo ngay sau lỗ thận. Tuyến sinh dục đực màu trắng sữa, tuyến sinh dục cái
màu vàng nâu. vào mùa sinh sản thấy các ấu trùng của Traisông (glochidium) chứa đầy trong
các lá mang.
Khi nghiên cứu cấu tạo của trai sông cần lưu ý tới tính chất đối xứng hai bên rõ rệt, sự
thích nghi với đời sống trong bùn, cát. Điều này cho thấy Trai sông khác hẳn với các nhóm
động vật Thân mềm khác như Song kinh, Ốc sên, Duốc biển ).


Câu hỏi đánh giá

1. Nêu các đặc điểm về hình dạng ngoài và cấu tạo nội quan chứng tỏ Ốc nhồi là nhóm động
vật mất đối xứng cơ thể?
2. Trình bày cấu tạo cơ quan tiêu hóa, hô hấp và bài tiết của ốc nhồi thích nghi với điều kiện
sống bò dưới đáy nước, ăn chất cặn bã hữu cơ và thực vật?
3. Đặc điểm cấu tạo cơ quan thần kinh và sinh dục của ốc nhồi và nêu mức độ tiến hóa thần
kinh (dạng thần kinh có hạch không phân đốt) của ốc nhồi?
4. Nêu đặc điểm thể hiện tính chất đối xứng 2 bên điển hình của Trai sông qua cấu tạo vỏ cơ
thể, hệ hô hấp ?
5. Trình bày các đặc điểm chứng minh trai sông thích nghi với lối sống vùi trong cát hay đào
hang trong cát, bùn?








61
Bài 6.
Kỹ thuật thực hành động vật Có xương sống,
Nghiên cứu cá Lưỡng tiêm và cá Miệng tròn


I. Kỹ thuật thực hành động vật Có xương sống
1. Kỹ thuật giải phẫu
1.1 Yêu cầu
Đối với động vật Có xương sống, do kích thước cơ thể lớn, vỏ da phát triển, các hệ cơ
quan hoàn chỉnh, nhất là hệ cơ và xương nên có yêu cầu về kỹ thuật giải phẫu khác hơn so với
động vật Không xương sống.
Kỹ thuật giải phẩu rất cần thiết để hoàn thành nhanh, đúng với yêu cầu của bài. Yêu cầu
của kỹ thuật giải phẫu là:
+ Vận dụng được những kiến thức lý thuyết vào việc tìm kiếm, quan sát và phân tích
các hệ cơ quan.
+ Cần rèn luyện tính cẩn thận, kiên trì, tỉ mỉ và chính xác.
+ Sử dụng đúng dụng cụ giải phẫu, sắp xếp hợp lý và thuận tiện cho việc sử dụng. Sau
khi giải phẫu xong cần kiểm tra dụng cụ và rửa sách, lau khô và bảo quản cẩn thận.
1.2 Các dụng cụ thường dùng và cách sử dụng
+ Dao mổ sắc dùng để rách da, cắt cơ con vật
+ Kéo thẳng dùng để cắt da, cơ xương, những dây chằng hoặc các tổ chức cứng, dai nối
các cơ quan với nhau.
+ Kéo mũi cong để tách gỡ riêng biệt các bộ phận trong một cơ quan hoặc các cơ quan
mà không làm ảnh hưởng đến các cơ quan bên cạnh.

+ Kẹp dùng làm căng các chi tiết cấu tạo cho dễ cắt, dễ gỡ, bóc một số lá phủ tạng hoặc
kẹp chặt các mạch máu bị đứt khi chưa kịp buộc chỉ.
+ Kim mũi mác dùng để tách các cơ quan, gỡ ruột… khi những cơ quan này dính với
nhau bằng màng mỏng.
+ Kim mũi nhọn dùng để chọc tủy và xác định vị trí các nội quan. Ngoài ra giúp cho
quá trình căng da con vật hay cố địng tạm thời các nội quan.
Ngoài ra cần có thêm một số dụng cụ khác tuỳ theo đối tượng mẫu vật. Ví dụ kéo cứng,
khoẻ không cần sắc quá để cắt xương hay đục nhỏ để khoét xương.
1.3 Thao tác khi giải phẫu
+ Cầm dao mổ và cầm kẹp đúng quy định và thuận chiều. Những động tác giải phẫu cần
phải chính xác và chắc chắn. Để đạt được yêu cầu đó cần có tư thế thoải mái, chân tì xuống
đất, khuỷu tay tì lên bàn, ống tay tì vào thành chậu mổ đảm bảo cho điểm tựa vững chắc còn
tay kia linh hoạt.

62
+ Đinh ghim dùng cố định mẫu vật xuống khay (ván) mổ cần nắm chặt và chếch ra phía
ngoài để không gây trở ngại cho giải phẫu và quan sát.
+ Khi giải phẫu bộ phận nào phải biết rõ vị trí, cấu tạo và mối liên hệ giữa bộ phận đó
với bộ phận khác. Khi cắt một bộ phận nào cần biết rõ và nhìn thấy bộ phận đó và tính toán kĩ
đường cắt. Khi cắt da có thể để kéo nằm ngang song song với thân con vật, hoặc hướng mũi
kéo lên trên, tuyệt đối không hướng mũi kéo xuống dưới tránh cắt phải những nội quan nằm
dưới da.
+ Khi đã gỡ xong một bộ phận, cần làm sạch bộ phận đó, đừng để mỡ hoặc các lá phủ
tạng hay các màng bao còn sót lại. Trong khi giải phẫu nếu có cảm giác mỏi mắt, run tay cần
nghỉ cho đến khi hết mỏi, nếu không sẽ ảnh hưởng kết quả buổi thực hành.
+ Trong trường hợp phải cắt một động mạch lớn, máu chảy nhiều, cần dùng bông thấm
nước và chổi lông mảnh để quét đi quét lại nhiều lần chỗ bị chảy máu. Sau đó làm sạch mẫu
bằng cách thay nước trong chậu mổ, hoặc dùng xylanh tia nước vào vết mổ. Có thể dùng vòi
nước chảy để rửa nội quan hay rửa các thể mỡ bám quanh.
+ Cuối cùng cần trình bày hình thái mẫu mổ sao cho có thể thấy được hầu hết các nội

quan chủ yếu mà ít phải dùng đến kẹp gạt nội quan ra. Một mẫu mổ đẹp là trình bày đầy đủ
được mối quan hệ cấu tạo giữa các bộ phận trong một hoặc giữa các nội quan với nhau. Nên
việc nắm vững các khối kiến thức cấu tạo cơ thể động vật trước khi mổ là hết sức quan trọng.

2. Kỹ thuật vẽ tiêu bản sau khi giải phẫu
2.1 Yêu cầu
+ Cần phải trình bày mẫu mổ sao cho hình vẽ thể hiện được đầy đủ những bộ phận cần
thiết của những nội quan cần quan sát. Thiếu những nội quan này trong hình vẽ có nghĩa là
sinh viên chưa cắt bỏ trong khi giải phẫu hoặc không nắm được tên và tầm quan trọng của nó,
hoặc do trình bày chưa tốt nên bị che lấp.
+ Hình vẽ đã có trong giáo trình là tài liệu tham khảo giúp học sinh và sinh viên nắm
được các chi tiết giải phẫu, xác định được vị trí các nội quan và mối quan hệ giữa các cơ quan
đó với nhau. Yêu cầu sau khi đã quan sát kĩ lưỡng trên tiêu giải phẫu, sinh viên cần gập sách
hướng dẫn lại và vẽ theo mẫu giải phẫu của chính mình.
+ Hình vẽ cần đảm bảo tính chất khoa học và chính xác.
2.2 Kỹ thuật vẽ hình
+ Trước hết là đảm bảo tỉ lệ cân đối và chính xác hình dạng chung toàn bộ cơ thể cũng
như các nội quan. Muốn vậy cần phải chính xác một độ dài nhất định làm đơn vị để dựa vào
đó mà vẽ các chi tiết cấu tạo cho tỉ lệ với nhau. Trên hình vẽ cần thể hiện mối quan hệ chức
phận giữa các bộ phận với nhau. Ví dụ khi vẽ tuyến tiêu hoá cần vẽ túi mật, tụy tạng có ống
dẫn đổ vào ruột tá
+ Không sử dụng giấy có dòng kẻ ngang để làm vở thực hành, sử dụng giấy A
4
không
có dòng kẻ là thích hợp hơn cả để làm vở vẽ.

63
+ Sử dụng bút chì mềm để vẽ, tuyệt đối không vẽ và chú thích bằng bút mực. Nên dùng
bút chì 2B vì bút chì loại này không quá cứng và nét không lớn. Bút cần gọt nhọn, đầu nhọn
dài và đều. Không được dùng dùng dao mổ để gọt bút chì.

Có thể dùng bút chì màu để làm nổi bật các hệ cơ quan. Hình vẽ nên ở giữa, có các
khoảng giấy trống làm nơi chú thích. Đường chú thích phải kẻ bằng thước, nên kẻ song song
với nhau để tránh chồng chéo. Tốt hơn hết là chú thích bằng số và ghi giải thích rõ ràng. Xuất
phát điểm của các đường chú thích nên nằm giữa cơ quan và dậm hơn đường chú thích để dễ
nhận biết.
+ Nét vẽ cần rõ ràng và sắc sảo. Có thể đánh bóng nhưng không quá lạm dụng vì sẽ làm
mờ các cơ quan khác cần nghiên cứu, chỉ đánh bóng khi đã hoàn thành việc phát họa các nội
quan. Nếu dùng bút chì màu thì mỗi màu dùng thống nhất cho một hệ cơ quan. Chẳng hạn,
động mạch tô màu đỏ, tĩnh mạch tô màu xanh nước biển, tiíet niệu tô màu xanh lá cây, thần
kinh tô màu da cam, sinh dục tô màu vàng.

II. Nghiên cứu cá Lưỡng tiêm
1. Vị trí phân loại
Cá Lưỡng tiêm Branchinostoma (Amphioxus) belcheri
Họ Mang miệng Branchiostomidae
Lớp Đầu sống Cephalochordata
Ngành phụ Không sọ Acrania
Ngành Có dây sống Chordata
2. Dụng cụ và mẫu vật
+ Dụng cụ: Kính hiển vi, lúp cầm tay, kẹp, kim mũi mác và mũi nhọn.
+ Lưỡng tiêm đã định hình trong formalin 5% - mẫu cố định.
+ Tranh vẽ hình dạng ngoài của Lưỡng tiêm.
+ Các tiêu bản cố định cắt dọc cơ
thể, lát cắt ngang qua vùng hầu, tiêu bản
cố định hệ tuần hoàn và hệ bài tiết của cá
Lưỡng tiêm.
3. Nội dung thực hành
3.1 Quan sát hình dạng ngoài
Cá Lưỡng tiêm là động vật sống ở
vùng biển có độ sâu vừa phải, nước trong

mát, chất đáy cát thô và xốp. Nó thường
cắm đuôi vào trong cát, thỉnh thoảng mới
bơi tự do. Cơ thể dài 1,5 – 2cm, có hai đầu
nhọn, hình lá tre (hình 6.1). Thức ăn của
cá Lưỡng tiêm là những sinh vật nhỏ.
Hình 6.1 Cá Lưỡng tiêm Branchinostoma
(Amphioxus ) sống ngoài tự nhiên


64
Quanh miệng có những xúc tu tạo nên dòng nước qua phễu miệng, vào xoang hầu. Các thức
ăn nhỏ bé theo dòng nước được láng xuống rãnh nội tiêm. Nhờ chất tiết của các tế bào tuyến ở
rãnh này, thức ăn được vo tròn lại. Sau đó nhờ các tế bào có tiêm mao rung động theo làn
sóng đưa khối thức ăn đó về phía trước và lên rãnh trên hầu. Từ đó thức ăn được chuyển dần
về sau và đi vào thực quản, dạ dày và ruột.
Ở Việt Nam, cá Lưỡng tiêm phân bố ở vùng biển gần đảo Bạch Long Vĩ, đảo Vĩnh
Thực thuộc vịnh Hạ Long và vùng biển Nam Trung Bộ có độ sâu hơn 60m.
Quan sát hình dạng ngoài cho thấy cơ thể cá Lưỡng tiêm thuôn dài, hai đầu nhọn, dẹp
bên, trong suốt nên có thể nhìn thấy các nội quan bên trong cơ thể khi cho ánh sáng đi qua.
Miệng ở mút trước cơ thể và hướng xuống mặt bụng của đầu. Quanh miệng có xúc tu.
Hai bên thân có cơ phân đốt rõ ràng bởi các vách ngăn cơ. Các đốt cơ xếp theo hình chữ
V có đầu nhọn theo thế cài răng lược giúp con vật uốn mình dễ dàng theo mặt phẳng ngang
khi vận chuyển.
Nếp vây lưng chạy dọc lưng từ sau đầu bao quanh đuôi. Ở phần lưng nếp vây thấp, đến
đuôi nhô cao lên ở nút đuôi nhọn. Mặt dưới đuôi gần như đối xứng phía lưng và thắt lại có
dạng mũi giáo gọi là nếp vây đuôi.
Hai nếp vây bụng chạy song song từ miệng đến lỗ thoát hây lỗ bụng. Hai nếp này là
nguồn gốc chi chẵn của các động vật tiến hóa về sau.
Lỗ bụng là lỗ thông xoang bao mang với môi trường bên ngoài.
Lỗ hậu môn nằm ở bên trái thân phía trên mép dưới vây đuôi. Vì vậy cơ thể Lưỡng tiêm

không đối xứng hai bên mà lệch về bên trái do chúng nằm nghiêng bên phải trong các lớp cát
ở đáy biển (hình 6.1).
3.2 Quan sát tiêu bản cố định
a) Quan sát tiêu bản lát cắt dọc cá Lưỡng tiêm
Dây sống (chorda) có nguồn gốc từ nội bì là một dải dài chạy dọc thân phía lưng con
vật, cơ quan nâng đỡ của cá. Phía trên dây sống là ống thần kinh có nguồn gốc từ ngoại bì
chạy song song với dây sống. Đầu mút ống thần kinh có mắt lẻ.
Dây sống nhô dài về phía trước ống thần kinh, chưa có hộp sọ.
Miệng nằm ở mặt dưới của đầu có vòng sụn bao quanh, xung quanh miệng có nhiều xúc
tu. Phía trong miệng là xoang hầu. Thành bên hầu có đến hơn một trăm đôi lỗ khe mang xếp
xiên về phía sau theo hướng lưng bụng. Trước hầu có vùng cơ thắt lại gọi là cơ thắt hầu. Cơ
thắt hầu có nhiều chồi dạng ngón tay. Trung gian giữa thành hầu và thành cơ thể là xoang bao
mang thông ra bên ngoài qua lỗ bụng hay lỗ thoát. Sau hầu là ruột thẳng dẫn đến lỗ hậu môn
đổ ra ở nếp đuôi bên trái. Phần đầu ruột, phía sau hầu có một nhánh kín là chồi gan.
Tuyến sinh dục là hai dãy khối tròn hình bầu dục gồm 30 đôi. Không phân biệt tuyến
sinh dục đực hay cái (hình 6.2).



65














Dọc ống thần kinh có nhiều chấm đen, là
những mắt Hesse, là cơ quan cảm giác ánh sáng
của cá. Nó được cấu tạo bởi hai loại tế bào cảm
quang và tế bào sắc tố. Nhờ hệ cơ quan trong suốt
nên mặc dù nằm sâu trong cơ thể, mắt Hess vẫn
có khả năng cảm thụ ánh sáng. (hình 6.3).
b) Quan sát khoang miệng hầu và lát cắt ngang
cơ thể ở vùng hầu
Nếp vây lưng nhô lên phía trên, phía dưới tổ
chức liên kết. Trong tổ chức liên kết là ống thần
kinh với nhiều mắt Hess cạnh bên. Dưới ống thần
kinh là dây sống cũng nằm trong tổ chức liên kết.
Hai bên dây sống và ống thần kinh là những đốt cơ lưng. Hai bên thành hầu là những đốt cơ
bụng. Dưới xoang hầu là cơ ngang bụng. Hai bên mặt bụng là hai nếp vây bụng.
Hầu rộng, thủng nhiều lỗ khe mang, bên
trong là xoang hầu. Hàng dãy khe mang tạo nên
thành hầu. Phía trên xoang hầu là rãnh trên hầu.
Dưới xoang hầu là rãnh nội tiêm (endostyl)
được cấu tạo bởi tế bào tiêm mao rung động và
tế bào tiết chất nhày. Bao quanh khe mang là
xoang bao mang. Thành hầu giới hạn xoang hầu
và xoang bao mang. Giới hạn ngoài xoang bao
mang là thành cơ thể (hình 6.4 và 6.5).
Hình 6.3 Mắt Hess ở tuỷ sống của cá Lưỡng tiêm
Hình 6.4 Khoang miệng - hầu của cá Lưỡng tiêm
1
2

5
3
4
9
8
6
7
10
Hình 6.2 Cấu tạo Nội quan cá lưỡng tiêm Branchinostoma
1. Nước vào; 2. Vòng tua miêng; 3. Mang trên hầu; 4. Khoang ngoài; 5. Lỗ khoang; 6. Nước ra; 7.
Ruột; 8. Hậu môn; 9. Ống thần kinh lưng; 10. Dây sống

66
c) Quan sát hệ tuần hoàn
Hệ tuần hoàn cá Lưỡng
tiêm: Tuần hoàn cá Lưỡng
tiêm là hệ tuần hoàn kín, đặc
trưng cho ngành. Chưa có tim
chính thức. Máu không màu.
Máu tĩnh mạch chủ động
mạch bụng nằm dưới hầu đi
về phía trước, phát ra các động
mạch tới mang đưa máu tới
các mao quản mang. Ở mang
máu được oxy hóa trở thành
máu động mạch, theo các động
mạch rời mang đổ vào hai rễ
chủ động mạch. Máu từ hai rễ
chủ động mạch đi về phía
trước tạo nên đôi động mạch

cảnh đưa máu lên đầu. Dòng
máu chính chảy về sau hình
thành động mạch chủ lưng đi
về phía đuôi và phân máu tới
nội quan.
Máu tĩnh mạch phần sau
cơ thể tập trung vào tĩnh mạch
dưới ruột đổ vào hệ gánh gan
sau đó đi vào tĩnh mạch gan đổ
vào xoang tĩnh mạch.
Phần sau cơ thể, máu
tĩnh mạch còn theo hai tĩnh
mạch chính sau đi về phía trước.
Máu tĩnh mạch phần đầu tập trung đổ vào đôi tĩnh mạch chính trước.
Tĩnh mạch chính trước và tĩnh mạch chính sau ở mỗi bên tập trung đổ vào ống Cuvier
cùng hai bên. Hai ống Cuver hai bên đổ dồn vào phần phình của động mạch chủ bụng (do cá
chưa có tim chính thức) (hình 6.6).
d) Quan sát hệ bài tiết
Hệ bài tiết: Gồm 100 đôi đơn thận nằm dọc 2 bên phần lưng của hầu. Mỗi đơn thận gồm
một ống đơn thận ngắn, uốn cong nằm giữa 2 khe mang. Ống này có một lỗ thận mở vào
xoang mang và một dãy lỗ thông với xoang cơ thể được gọi là miệng thận. miệng thận được
Hình 6.6 Hệ tuần hoàn cá Lưỡng tiêm

Hình 6.5 Cắt ngang qua vùng hầu của cá Lưỡng tiêm)

67
bịt kín và trên đó có nhiều tế bào mặt trời,
hình ống dài, bên trong có nhiều tiêm mao
rung động (hình 6.7).
Chất cặn bã được lọc từ xoang cơ thể,

qua lỗ thận, qua xoang quanh mang rồi theo
dòng nước ra ngoài qua lỗ bụng. Như vậy hệ
bài tiết của Lưỡng tiêm có cấu tạo và hoạt
động rất giống với hậu đơn thận của Giun đốt.

III. Nghiên cứu cá Miệng tròn
1. Vị trí phân loại
Cá Bám Lampetra fluviatilis
Họ Phetromyzonidae
Lớp phụ Phetromyzones
Lớp Cá Miệng tròn Cyclostomata
Nhóm Không hàm Agnatha
Ngành phụ Không có sọ Craniota
Ngành Có dây sống Chordata
Hay Cá Mixin Mixine glutinosa
Họ Mixinidae
Lớp phụ Mixin
2. Dụng cụ và mẫu vật
+ Tiêu bản hình thái và bộ xương cá Miệng tròn (Cá Bám hay cá Mixine) ngâm trong
formalin.
+ Tranh vẽ hình dạng ngoài, não bộ và hệ tuần hoàn cá Miệng tròn.
+ Tiêu bản ngâm lát cắt dọc theo hướng lưng bụng cá Miệng tròn.
3. Nội dung
3.1. Quan sát hình dạng ngoài
Hình dạng ngoài cá Bám tròn có cơ thể hình rắn, thường bám ký sinh vào cá xương.
Chiều dài khoảng 30 – 40cm, chia làm 3 phần: Đầu, thân và đuôi. Ranh giới giữa các phần
không rõ ràng. Có thể tạm xác định ranh giới các phần như sau :
+ Đầu kể từ mút trước cơ thể đến lỗ mang cuối cùng.
+ Thân từ sau lỗ mang cuối đến lỗ hậu môn.
+ Đuôi là phần còn lại.

Hình 6.7 Cơ quan bài tiết của Lưỡng tiêm

68
Đầu và thân tròn, đuôi dẹp bên. Hai bên đầu có đôi mắt tương đối phát triển. Phía trên
đầu, giữa hai mắt là mũi lẻ. Phía sau lỗ mũi là cơ quan đỉnh có thể nhìn thấy qua lớp da mỏng
dưới dạng một chấm sáng (hình 6.8).
Ở cá Mixine, phía
trước đầu là phễu miệng có
diềm da viền quanh. Bên
trong phễu miệng có nhiều
“răng sừng”. Số lượng
răng sừng và cách sắp xếp
chúng là đặc tính phân loại
của lớp cá Miệng tròn.
Đáy phễu miệng có lỗ
miệng. Trong miệng có
phần đầu lưỡi trên có răng
sừng (hình 6.9) .
Sau mắt là bảy đôi
khe mang ngoài xếp thành
hàng thẳng ở hai bên đầu.




















Hình 6.8 Cá Bám (Lampetra) đang bám vào cá xương
Hình 6.9 Cấu tạo cá Mixin (Mixine glutinosa)
A. Hình dạng ngoài: 1. Miệng có xúc tu; 2. Lỗ mang ngoài; 3. Lỗ tiết của tuyến nhày; 4. Vây đuôi
B. Cấu tạo phần đầu: 1. Miệng; 2. Răng trên lưỡi
C. Cắt dọc phần trước thân: 1. Xúc tu; 2. Lỗ mũi; 3. Bao khứu giác; 4. Não; 5. Tuỷ sống; 6. Dây sống;
7. Hầu; 8. Lỗ mang ngoài; 9. Lưỡi; 10. Răng trên lưỡi; 11. Miệng
D. Cá bám hút chất dịch của vật chủ

1
2
3
4
2
1
2
3
4
5
6
7

11
10
9
8
1

×