Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1900 - 1930_5 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.13 KB, 11 trang )

KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 1900 - 1930

- Năm 1912, Việt Nam quang phục hội ra đời, khí thế cách mạng có
chiều hướng bùng lên sau những ngày tạm lắng. Một số thơ văn hiệu
triệu cách mạng lại xuất hiện. Văn học yêu nước và cách mạng ra đời
trong thời điểm này, tiếp tục thể hiện những nội dung cũ, nhưng đã bắt
đầu mang âm điệu khác trước, tính chất cổ động, khích lệ đấu tranh có
phần giảm sút, để rồi sau đó bộ phận văn học này trở về với tình trạng lơ
thơ, khí thế sôi nổi, hừng hực tinh thần cách mạng mất dần.
Nhìn chung thơ văn cách mạng từ sau khủng bố của giặc Pháp, năm
1909 vẫn tồn tại, nhưng chất lượng và số lượng không bằng những năm
trước đây. Trong khi đó văn thơ châm biếm thời thế, đả kích bọn quan
lại, tay sai, thổ lộ chút lòng thương nước, thương dân, khóc những nhà
cách mạng hy sinh trong các cuộc khủng bố của quân thù của những
cây bút không tham gia cách mạng nhưng ít nhiều có tinh thần dân tộc
vẫn tiếp tục ra đời, mặc dù không có những bài thật xuất sắc. Tuy nhiên,
số tác phẩm nói trên chưa sưu tầm được đầy đủ, nói chung là chưa thể
khôi phục lại đầy đủ bộ mặt văn học của quần chúng yêu nước hồi này.
Nhưng có thể khẳng định ở chặng này cũng như các chặng khác, dòng
văn học dân gian tố cáo sự bóc lột của kẻ thù, phơi bày tội ác của quần
chúng vẫn không vơi cạn.
- Sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, phong trào ái quốc dân chủ lại sôi
nổi trong cả nước nhưng chỉ giới hạn ở các đô thị. Văn thơ yêu nước lại
phát triển cùng với phong trào cách mạng mang tính chất đòi tự do dân
chủ theo xu hướng tư sản. Văn thơ cách mạng bấy giờ trở lại thời kỳ sôi
nổi, rầm rộ, có thơ văn trong nước và cả thơ văn từ nước ngoài đưa về,
có thơ văn phổ biến bí mật và cả thơ văn phổ biến công khai. Văn thơ
công khai phần lớn xuất hiện trong phong trào ái quốc dân chủ 1925 -
1926, xoay quanh các sự kiện chính, đòi thả Phan Bội Châu, để tang
Phan Chu Trinh, học sinh bãi khóa, cùng với việc Khải Ðịnh đi Pháp và


việc hắn làm lễ tứ tuần đại khánh. Ngoài ra, trên văn đàn công khai, Ngô
Ðức Kế và Huỳnh Thúc Kháng còn đả kích quyết liệt bọn bồi bút của
Pháp. Mặc dù văn học cách mạng ở giai đoạn này có chiều hướng khởi
sắc, phát triển về số lượng và chất lượng, mang nhiều sắc thái mới
nhưng vẫn không sao sánh bằng giai đoạn 1905 - 1908.

- Những năm cuối của thập niên thứ ba, văn học yêu nước và cách mạng
theo xu hướng cách mạng tư sản dần dần xuống dốc. Trước khi mất hẳn,
nó cũng góp phần sưởi ấm cho những tâm hồn buốt lạnh và là tiếng nói
của dân tộc trong những ngày chờ đón luồng tư tưởng mới nhất của thời
đại, tư tưởng cách mạng vô sản.

Cũng trong thời gian này, mầm mống của văn học cách mạng theo xu
hướng vô sản đã được nảy nở. Ðặc điểm của văn học này là còn ít tính
chất văn nghệ, nhiều tính chất chính trị nhưng nội dung đã tiến bộ hơn
hẳn dòng văn học tư sản cùng giai đoạn.

1.3- Nội dung của văn học yêu nước và cách mạng :

* Thể hiện tư tưởng yêu nước tiến bộ:

Văn học yêu nước và cách mạng đã nêu lên quan niệm mới về đất nước,
về yêu nước. Các nhà nho yêu nước và cả nhân dân ta sống trong điều
kiện ý thức hệ phong kiến thống trị không thể nào quan niệm có nước lại
không có vua. Nước là của vua, yêu nước tất phải yêu vua, yêu vua là
yêu nước. Vấn đề là cần có vua sáng để có tôi hiền. Sang đến đầu thế kỷ
XX, chế độ thực dân nửa phong kiến đã ra đời và thay thế chế độ phong
kiến, trạng thái ý thức của xã hội cũng chuyển biến theo. Sự có mặt của
ý thức hệ tư sản là một nhân tố mới có vai trò quan trọng trong đời sống
tinh thần của xã hội. Quan niệm của các tác giả văn thơ cách mạng về

quốc gia đã khác trước. Nước không còn là của vua, vua và nước không
còn là một. Có thể có nước mà không có vua. Yêu nước không nhất thiết
phải yêu vua. "Trung quân ái quốc" hai cái tách rời nhau. Chủ nghĩa tôn
quân đang dần dần bị loại trừ và như thế, nói đến nước sẽ là nói đến non
sông, nòi giống, nói đến dân tộc, đồng bào. Trước kia, nghĩa quân thần,
đạo thần tử có thể là động lực kích thích tinh thần đấu tranh:

Kiến nghĩa ninh cam bất dũng vi
Toàn bằng trung hiếu tác nam nhi

bắt đầu trở thành vô nghĩa. Văn thơ yêu nước đi tìm sức mạnh từ nhiều
nguồn. Từ những truyền thuyết thần thoại đề cao nòi giống, từ lòng tha
thiết với vẻ đẹp của non sông gấm vóc, từ thái độ trân trọng cái địa vị
của đất nước, cơ nghiệp của cha ông đã nhiều thế hệ nối tiếp nhau xây
dựng, đặc biệt là niềm tự hào về truyền thống anh hùng chống giặc ngoại
xâm.

Nọ thuở trước đánh tàu mấy lớp
Cõi trời Nam cơ nghiệp mở mang
Sông Ðằng lớp sóng Trần vương
Núi Lam rẽ khói mở đường nhà Lê
Quang Trung đế từ khi độc lập
Khí anh hùng đầy lấp giang san

Tự hào về đất nước các tác giả không còn ca ngợi các bậc thánh đế anh
hùng xuất chúng, mà họ đã đi đến khẳng định vai trò của nhân dân, của
"ức triệu anh hùng vô danh." Nhìn chung, văn thơ yêu nước đã khẳng
định một vấn đề rất mới mẻ: Ðất nước là của dân, yêu nước là phải yêu
dân.


"Nước Việt Nam là của gia tài,
Cả quyền lợi với đất đai
Của dân nào phải riêng ai một nhà."
(Lời tuyên cáo của Việt Nam quang phục hội- Hoàng Trọng Mậu).

Hoặc :

Nước có mạnh thì dân mới mạnh
Dân có khôn thì nước mới khôn
( Kinh đạo nam _ khuyết danh )

Trong thơ văn yêu nước ở đầu thế kỷ XX, vấn đề yêu nước còn được
gắn liền với vấn đề cách mạng. Chống giặc ngoại xâm, giải phóng đất
nước đó là chuyện chung của nhiều thời đại có ngoại xâm. Nhưng chống
giặc để rồi không trở lại chế độ phong kiến mà tiến lên xây dựng chế độ
dân chủ tư sản là một đổi mới trong lịch sử của dân tộc. Ðó cũng là nội
dung chủ yếu của văn thơ cách mạng giai đoạn 1900 - 1930. Ðiều này đã
được khẳng định trong "Lời tuyên cáo của Việt Nam quang phục hội":

Muốn cho ích nước lợi nhà
Muốn cho ích nước lợi nhà (Hoàng Trọng Mậu)

nhưng chuẩn bị cho nó thì đã từ văn thơ của phong trào Duy Tân, Ðông
Kinh Nghĩa Thục và phần nào cả văn thơ Ðông Du Ở đây song song
với nội dung kêu gọi chống Pháp, còn có nội dung cải cách xã hội nhằm
làm cho nước giàu dân mạnh. Hai nhiệm vụ đó quan hệ mật thiết với
nhau, hỗ trợ cho nhau.

Yêu nước bấy giờ được biểu hiện bằng hành động cụ thể là tham gia
đánh giặc cứu nước và tiến hành cải cách xã hội.


Vào đầu thế kỷ XX ,vấn đề cãi cách xã hội được đặt ra với mục đích làm
cho dân giàu nước mạnh , được thực hiện song song với nhiệm vụ đánh
Pháp

Trong thơ văn yêu nước, đầu thế kỷ XX, yêu nước và vấn đề dân chủ
gắn liền nhau. Xuất phát từ quan niệm mới về đất nước, yêu nước các
tác giả đã đi đến khẳng định quyền làm chủ của người dân trong xã hội,
đồng thời cũng khẳng định vai trò của người dân trong sự nghiệp cứu
nước. Mục đích cứu nước lúc bấy giờ là vì dân chứ không phải vì vua.
Phan Bội Châu đề cao địa vị của người dân trong công cuộc xây dựng
nước nhà :

Nghìn muôn ức triệu người chung góp
Xây dựng nên cơ nghiệp nước nhà.
Người dân ta của dân ta,
Dân là dân nứơc , nước là nước dân

Và khẳng định :

Sông xứ Bắc ,bể phương Ðông
Nếu không dân cũng là không có gì

Người dân đứng lên chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước là thực hiện
bổn phận đồng thời thể hiện tinh thần làm chủ của mình. Thơ văn yêu
nước thường nhắc đến các khái niệm "đồng bào, đồng quốc" xác lập nên
một chữ "nghĩa" - nghĩa đồng bào khác hẳn với chữ "nghĩa" trong văn
học trung đại.

* Thời sự chính trị trong văn chương đầu thế kỷ XX.


Xã hội Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ XIX là một bầu trời đen
kịt. Chính quyền phong kiến đương thời có thể làm ngơ, ngồi yên trên
ngai vàng để hưởng thụ, nhưng nhân dân Việt Nam những người yêu
nước Việt Nam thì không thể nào nhắm mắt, khoanh tay. Ngọn cờ Cần
vương vừa ngã xuống, thanh niên lại xông xáo đi tìm một hướng cứu
nước mới. Phong trào yêu nước Duy Tân và cách mạng như một tia sáng
bừng lên vào đầu thế kỷ XX. Tia sáng ấy dù mong manh, yếu ớt và sớm
tắt đi nhưng cũng đủ xoa dịu những khó khăn, căng thẳng, đợi chờ của
đồng bào Việt Nam sau nhiều năm dài chống giặc liên tiếp thất bại. Văn
chương yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ đã phản ánh kịp thời và phát
ngôn cho các phong trào cách mạng lúc bấy giờ. Ðó là phong trào yêu
nước dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu cấp tiến đi theo con đường cách
mạng dân chủ tư sản.

Như những thước phim thời sự hấp dẫn, sinh động, văn chương yêu
nước đầu thế kỷ XX đã ghi nhận kịp thời các diễn biến và tái hiện trọn
vẹn gương mặt của xã hội Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX. Sau
khi kết thúc công cuộc bình định ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Pháp
đã bắt tay ngay vào việc khai thác thuộc địa tại Việt Nam. Một chế độ
cai trị và bóc lột hà khắc đã diễn ra. Người dân Việt Nam mất hết chủ
quyền. Mọi thứ đều do người Pháp cai quản, giai cấp thống trị phong
kiến đương thời chỉ giữ nổi vai trò bù nhìn mà thôi. Ðể thực hiện chủ
trương vơ vét, bóc lột ở các thuộc địa, thực dân Pháp đã thi hành chính
sách thuế khóa rất nặng nề, hàng trăm thứ thuế cay nghiệt đã được áp
dụng. Nó như những sợi dây thòng lọng vô hình xiết chặt lấy người dân
Việt Nam vô tội. (Hải ngoại huyết thư- Phan Bội Châu).

Thực dân Pháp còn tìm cách đẩy những người dân vô tội vào nơi ma
thiêng nước độc để đào sông, đào mỏ, làm đường. Thân phận của người

đi phu không khác gì anh tù khổ sai:

"Ông Tây áp trước
Cậu lính áp sau."

do bị vắt kiệt sức lao động, sống trong màn trời chiếu đất, "ăn cơm với
muối, uống nước chè trâm."

Ðiều đáng sợ, làm cho con người kinh hãi là chính sách ngu dân bằng
con đường "khai hóa" của thực dân. Song song với những lời lẽ mỵ dân
thâm độc là hàng loạt chủ trương nham hiểm, xảo quyệt được thực hiện.
Một mặt chúng tỏ ra như muốn bảo vệ những giá trị văn hóa của dân tộc,
nhưng mặt khác chúng lại ra sức xây dựng một nền giáo dục mới. Nội
dung của chương trình học mới tất nhiên là nhằm mục đích đào tạo
những phần tử tay sai trung thành, phục vụ cho chế độ bảo hộ. Ngoài ra
các cơ quan báo chí do Pháp thành lập lần lượt ra đời ở cả ba kỳ Nam,
Trung, Bắc. Báo chí là cơ quan tuyên truyền của thực dân, nơi phổ biến
đường lối, chính sách cai trị của chúng. Tất cả những việc làm của thực
dân đã biến Việt Nam từ một quốc gia phong kiến tự chủ trở thành một
thuộc địa của chủ nghĩa tư bản. Ðó là tấn bi kịch của dân tộc Việt Nam
khi bước vào thế kỷ XX.

Thế kỷ XX được mở đầu bằng trang sử đau thương mà rất hào hùng.
Cao trào cách mạng đầu thế kỷ XX như một làn gió mạnh thổi khắp ba
miền của đất nước. Các nhà nho ta trước kia chỉ biết nghiên cứu sách vở
thánh hiền, "Chăm chăm theo lối học Tàu", không biết gì xa hơn ngoài
văn minh Á Ðông, tiêu biểu là Trung Quốc. Ngày nay, qua Tân thư, Tân
văn, tầm nhìn của các cụ mở rộng ra tận năm châu bốn biển. Các cụ
được biết đến khoa học kỹ thuật hiện đại. Các cụ đã thấy được một điều
rất quan trọng: Cứu nước không chỉ là đánh đuổi giặc ngoại xâm mà còn

là đánh đuổi nghèo nàn và lạc hậu, là xây dựng một xã hội cường thịnh
bắt kịp đà tiến triển của văn minh Âu Mỹ. Cũng chính vì vậy mà nếu
như phong trào yêu nước ở cuối thế kỷ XIX kết hợp với tinh thần bài
ngoại thì tư tưởng Duy Tân ở giai đoạn đầu thế kỷ XX lại đi đôi với tinh
thần vọng ngoại. Chủ nghĩa yêu nước thời này thắm đượm màu sắc duy
tân. Tinh thần dân tộc được đi đôi với ý thức cách mạng. Duy tân và
cách mạng là tinh thần của thời đại, và duy tân và cách mạng cũng là xu
thế hiện đại của tư tưởng và văn hóa dân tộc. Thực tế đã được phản ánh
trong văn chương giai đoạn này. Ðó là một không khí cách mạng đầy
hào hứng.

"Ðội tiên phong đâu tá, gió duy tân từ Ðông hải thổi vào
Gương ngoại quốc kia là, sóng cách mạng bởi Âu châu dồn tới."
("Văn tế Phan Chu Trinh" - Phan Bội Châu)

Nhìn chung, thơ văn yêu nước giai đoạn đầu thế kỷ XX nổi bật nội dung
khai sáng dân tộc đúng như nhận định của ông Trần Thanh Ðạm: "Có
người gọi rất đúng rằng văn học đầu thế kỷ XX có tính chất của một
phong trào ánh sáng như ở Âu châu vào thế kỷ XVIII". (Chuyên đề "Sự
chuyển biến của văn học Việt Nam sang thời kỳ hiện đại" trang 37).

Có thể khẳng định rằng thời sự là một đặc điểm của văn chương yêu
nước và cách mạng giai đoạn này. Khi làn sóng cách mạng trong nước
lên cao, thơ văn yêu nước được sống trong không khí chính trị sôi nổi,
quyết liệt cho nên không ngừng phát triển về số lượng lẫn chất lượng.
Các sáng tác đó đã dõi theo hoạt động của các tổ chức yêu nước, cùng
với Ðông Kinh nghĩa thục, Ðông Du, đến với mọi người qua những buổi
diễn thuyết, bình văn hay hiện diện ngay trong bài học của các học sinh
ở những trường học do các nhóm này tổ chức. Khi các tổ chức cách
mạng lần lượt bị thất bại, những người tham gia bị cầm tù. Văn thơ yêu

nước theo bước chân của người tù chính trị đi vào nhà giam. Văn thơ
trong tù có thời điểm đã được phát triển về số lượng và chất lượng,
nhưng rất tiếc là đến nay số lượng đó còn lại rất ít, chủ yếu là văn vần.
Thơ văn trong tù đã góp phần không nhỏ cùng với thơ văn yêu nước và
cách mạng ở giai đoạn này làm tái hiện lại lịch sử chính trị xã hội Việt
Nam vào những năm đầu thế kỷ XX. Ðó là lịch sử của những phong trào
chống Pháp theo ngọn cờ cách mạng dân chủ tư sản, có lúc sôi nổi quyết
liệt nhưng cũng có hồi mất mát hy sinh, mặc dù đau thương vẫn hào
hùng bất khuất.

×