Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1900 - 1930_1 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.6 KB, 11 trang )

KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1900 - 1930

I. NHỮNG TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ XÃ HỘI, TƯ TƯỞNG,VĂN HÓA,
THẨM MĨ TRONG GIAI ĐOẠN 1900 - 1930:

1- Lịch sử xã hội Việt Nam giai đoạn 1900 - 1930

1.1- Tình hình chính trị :

Ðầu thế kỉ XX Pháp cơ bản đã thực hiện xong cơng cuộc bình định trên
đất nước ta và chuyển sang khai thác thuộc địa, xây dựng trật tự mới.
Ðây là thời điểm Pháp cảm thấy có thể yên tâm và phấn khởi trước cảnh
thái bình mà chúng hằng mong đợi. Nhưng đối với ta, đây là những ngày
tháng đau thương, bi đát nhất của lịch sử.

Kể từ sau cái chết của Phan Ðình Phùng (1896), xem như phong trào
chống Pháp theo ngọn cờ Cần Vương đã thất bại hồn tồn . Thơn xóm,
làng mạc Việt Nam tiêu điều xơ xác do kẻ thù tàn phá, nhân dân phải
xiêu tán lưu lạc khắp nơi. Những người tham gia khởi nghĩa trước kia bị
giết, bị tù đày hoặc phải trốn tránh khơng dám trở về. Trong khi đó, cột


sống của chế độ phong kiến cũng bị sụp đổ. Hàng ngũ giai cấp thống trị
tan rã. Cả bộ máy thống trị của nhà nước phong kiến từ triều đình đến
tỉnh , huyện , làng, xã đều trở thành tay sai cho bọn xâm lược. Mọi
quyền hành đều nằm trong tay Pháp . Tầng lớp trí thức thời phong kiến
lúc bấy giờ cũng lâm vào tình trạng sống dở, chết dở. Những người đã
từng tham gia vào phong trào chống Pháp kẻ thì bị giết chết, người bị tù
đày hoặc trốn tránh, có khi phải chạy ra nước ngồi. Có người không
chịu được thử thách cuối cùng phải ra đầu thú, sống nơm nớp trong cảnh


tù treo của thực dân. Có người khơng tham gia chống Pháp nhưng cịn
chút liêm sĩ thì lui về sống ẩn dật, bất đắc chí. Họ thường phải cam chịu,
bất lực và đành phải an phận. Cá biệt có một số người ham cuộc sống
giàu sang phú quý nên đã cởi bỏ lớp nho phong , sĩ khí để ra phục vụ
cho ơng chủ mới...

Thế là bộ máy cai trị của Pháp được tổ chức lại theo lối hiện đại hơn,
chặt chẽ hơn, có quyền lực hơn và phá dần cái thế tự triü làng xã ngày
trước. Ðể che dấu bộ mặt thật cướp nước, để tuyên truyền văn minh
nước Pháp, bọn thực dân đã đưa ra Hội đồng tư vấn , bày trò dân chủ giả
hiệu. Chúng cịn lập Viện Hàn lâm Bắc Kì để dựng lên cái gọi là bảo vệ
và phát triển văn hố .

Trong bối cảnh chính trị phức tạp và đen tối như thế , thanh niên Việt
Nam cảm thấy bi quan tuyệt vọng vô cùng. Họ cũng hết sức chán nản lối


học cũ, bởi vì ai cũng nhận ra một điều rất rõ ràng :

Ơng nghè ơng cống cũng nằm co
Sao bằng đi học làm ông phán
Sáng rượu sâm banh , tối sữa bò
( Chữ Nho - Trần Tế Xương )

Họ quyết định bỏ lối học từ chương, đi tìm đến những tri thức hiện đại
mà họ biết được qua sách vở và báo chí nước ngồi được bí mật đưa vào
Việt nam lúc này. Trong số đó tiêu biểu là tân thư, tân văn. Cũng từ sách
vở nước ngoài, họ được tiếp xúc với các luồng tư tưởng tiến bộ, hiểu
được tình hình cách mạng trên thế giới từ đó chọn cho mình một con
đường cứu nưóc khác trước. Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên.

Tên tuổi, danh tiếng, khí phách của ơng đã được nhiều người biết đến và
hết lòng ái mộ, nhất là tầng lớp thanh niên. Họ cảm thấy rằng: Con
người đó là hiện thân của tinh thần bài Pháp, của phong trào ái quốc,
phong trào vận động cách mạng lúc này.

Phong trào yêu nước lại được diễn ra sôi nổi trong những năm 1905 đến
1908, dưới sự lãnh đạo của các nhà chí sĩ yêu nước đi theo con đường
cách mạng dân chủ tư sản. Mặc dù chia làm hai phái, kịch liệt và ôn hoà,
nhưng những tổ chức yêu nước này đều nhằm mục đích chung là cứu
nước, khơi phục nền độc lập cho dân tộc. Hoạt động của các tổ chức


Duy Tân ở Bắc, Trung và Minh Tân ở Nam, cùng với nhóm Ðơng Kinh
Nghĩa Thục đã đưa phong trào cách mạng ở những năm này lên đến đỉnh
cao. Thực dân Pháp lo sợ và tìm cách đối phó. Một cuộc đàn áp dã man
những người yêu nước đã diễn ra. Nhiều chiến sĩ cách mạng bị giết, bị tù
đày hoặc phải bỏ trốn ra nước ngoài. Lực lượng cách mạng bị tan rã.
Thực dân Pháp không chỉ khủng bố điên cuồng bằng biện pháp chính trị,
qn sự mà cịn chủ trương áp dụng những chính sách văn hố thực dân
để tạo ảnh hưởng lâu dài và sâu sắc.

Thế nhưng, những người yêu nước vẫn không chịu khuất phục. Họ vẫn
tiếp tục hoạt động và tìm cơ hội để gây dựng lại phong trào. Việt Nam
Quang Phục Hội ra đời năm 1912 và tìm cách bắt rễ về trong nước. Sau
đại chiến thế giới lần thứ nhất, đặc biệt từ khoảng năm 1922 , cách mạng
Việt Nam lại chuyển biến mạnh mẽ. Xu hướng cách mạng tư sản cũ
trước khi chấm dứt với cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học
lãnh đạo thất bại, cũng đã có những cố gắng, vừa cơng khai, vừa bí mật
hoạt động. Cách mạng Việt Nam đã đến lúc phải bước vào phạm trù
cách mạng dân chủ mới. Ngày 03- 02- 1930 , Ðảng Cộng sản Ðơng

Dương chính thức được thành lập, mở ra một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên
cách mạng vô sản do giai cấp cơng nhân lãnh đạo.

1.2- Tình hình kinh tế :


Ðầu thế kỉ XX , kinh tế nước ta vẫn là kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Thực
dân Pháp thực hiện chính sách kinh tế thực dân ( bán hàng hố, khai thác
ngun liệu, cho vay nặng lãi, cơng nghiệp chỉ phát triển trong giới hạn
không hại đến công nghiệp chính quốc, đóng khung trong phạm vi cung
cấp cho chính quốc những nguyên liệu hay những sản vật mà chúng
thiếu, tăng cường bóc lột , sưu thuế ), từ đó làm phá sản nông dân và thợ
thủ công, tạo ra nguồn nhân công rẻ mạt , phục vụ cho các cơng trình
khai thác của chúng. Kết quả của chính sách nói trên đã kéo nước ta vào
quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản nhưng khơng được cơng nghiệp hố mà lại
biến thành thị trường tiêu thụ cho Pháp.

Giao thông buôn bán mở mang, kinh tế hàng hoá phát triển đã tạo ra một
thị trường thống nhất từ Nam đến Bắc. Khách quan đã tạo cơ sở để củng
cố sự thống nhất của dân tộc đã hình thành từ lâu nhưng chưa thật vững.
Sự phát triển của giao thông và buôn bán làm mọc lên nhiều thành thị,
các hải cảng được xây dựng, nhiều người từ nông thôn kéo ra thành thị.
Nhưng thành thị chủ yếu là trung tâm thương nghiệp và tiêu thụ, khơng
có tác dụng tích cực đẩy mạnh kinh tế nước ta theo hướng tư sản hố.

1.3- Tình hình xã hội :

Xã hội nước ta trước khi Pháp xâm lược là một xã hội phong kiến
phương Ðơng. Chính quyền thuộc về một dịng họ, đứng đầu có vua,



trong xã hội có tứ dân. Nơng dân giữ vai trò quan trọng về kinh tế nhưng
bị khinh rẻ, bị áp bức bóc lột. Kẻ sĩ được xem như một đẳng cấp đặc
biệt, tự nhận và được xã hội thừa nhận như người cầm chính đạo truyền
bá giáo hố triều đình cho nơng dân nhất là giai đoạn đầu thế kỉ XX .

Khi có mặt thực dân Pháp trên đất nước ta thì mọi cái đã thay đổi. Kinh
tế hàng hố kích thích sự phát triển của cơng thương nghiệp làm cho
thành thị phát triển, làm xuất hiện nhiều nhu cầu mới, phát triển nhiều
nghề mới, tầng lớp thị dân phát triển. Tầng lớp thị dân trong các thành
phố nhượng địa được xem là lớp người ngoài tứ dân . Họ có ít nhiều tự
do trong đời sống thành thị tư sản. Ðối với họ thì họ hàng, làng xã, đẳng
cấp khơng cịn nhiều ý nghĩa nữa. Giai cấp tư sản từ các tầng lớp thị dân
phát triển dần lên.

Giai cấp tư sản Việt Nam hình thành trong hồn cảnh hết sức đặc biệt
nên có những đặc trưng riêng. Ðiều đó cũng ảnh hưởng đến ý thức của
giai cấp này. Giai cấp tư sản Việt Nam không sinh ra và trưởng thành từ
cuộc đấu tranh chống giai cấp phong kiến Việt Nam mà lại do thực dân
Pháp đẻ ra. Pháp đẻ ra rồi cũng chính chúng chèn ép. Giai cấp tư sản
Việt Nam nhiều tính chất mại bản, nặng thương nghiệp hơn cơng
nghiệp, khơng lìa bỏ được lối bóc lột phong kiến. Tầng lớp tư sản Việt
Nam thời bấy giờ cũng khơng có một tinh thần dân tộc vì họ khơng có
một cơ sở kinh tế hùng hậu, khơng có kinh nghiệm đấu tranh và không


có ý thức giai cấp rõ rệt.

Sự phát triển các đô thị dẫn đến sự phá sản nông nghiệp, làm cho nông
thôn tiêu điều xơ xác. Nông dân kéo ra thành thị ngày càng đông. Một

tầng lớp tiểu tư sản nghèo ngày càng phát triển , sống bấp bênh ở thành
thị.

Ở đầu thế kỉ XX , giai cấp công nhân Việt Nam đã hình thành. Do q
trình bần cùng hố và phá sản của nông dân , thợ thủ công , giai cấp
cơng nhân có điều kiện để hiểu được nông dân, liên minh được chặt chẽ
với nông dân. Và ngược lại, cũng trên điều kiện hiểu biết ấy , do vị trí
lịch sử của giai cấp vơ sản mà nơng dân đi theo nó làm cách mạng, bền
bỉ và lâu dài.

Trong tình hình xã hội đầy phức tạp và có nhiều đổi mới như thế thì giai
cấp phong kiến , vốïn đã hình thành lâu đời trong xã hội Việt Nam cũng
lung lay đến tận gốc. Ðể bảo vệ quyền lợi ích kỉ cho giai cấp mình, giai
cấp phong kiến đã quỳ gối đầu hàng giặc, làm tay sai cho giặc. Hơn thế
nữa, họ còn cấu kết với giặc để quay trở lại đàn áp các phong trào yêu
nước của nhân dân ta. Tuy nhiên , trong số họ cũng cịn có những người
u nước, tự tách mình ra khỏi hàng ngũ đó để đi làm cách mạng theo xu
hướng dân chủ tư sản.


Nhìn chung, xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX có nhiều biến động. Cơ cấu
xã hội thay đổi hồn tồn.

2- Vấn đề tư tưởng , văn hố , thẩm mĩ

2.1- Xã hội Việt Nam trước khi Pháp xâm lược là một xã hội phong kiến
chuyên chế tập quyền cao độ. Nhà Nguyễn khi lên ngơi đã duy trì Nho
giáo, xem Nho giáo như là quốc giáo, dùng tư tưởng Nho giáo để thống
trị xã hội. Nho giáo đã ràng buộc con người vào tư tưởng mệnh trời. Nho
giáo dùng luân thường đạo lí để giáo dục xã hội, lấy bổn phận tu thân ,

tề gia, trị quốc, bình thiên hạ làm kim chỉ nam cho mọi hành động của
người quân tử. Mục đích của Nho giáo muốn biến con người trở thành
những phần tử đắc lực phụng sự cho nhà nước phong kiến. Ðến khi có
sự hiện diện của thực dân Pháp, tình hình chính trị xã hội đã có nhiều
biến đổi nhưng mọi vấn đề nêu trên vẫn được tồn tại. Kẻ thù muốn duy
trì tư tưởng phong kiến lạc hậu để kìm hãm sự phát triển của ta, nhằm
tạo thuận lợi cho việc cai trị của chúng.

Ðến đầu thế kỉ XX , giai cấp phong kiến đã tỏ ra bạc nhược, ươn hèn,
cúi đầu làm tay sai cho giặc. Hàng ngũ giai cấp thống trị tan rã hoàn
toàn. Ý thức phong kiến cũng ngày càng thể hiện tính chất lạc hậu, cổ
hủ. Với cách nhìn của các nhà nho tiến bộ thời này, nó là sức mạnh cản
trở sự phát triển của xã hội. Cho nên , các nhà chí sĩ Ðơng Kinh Nghia


Thục đã chủ trương chốïng lại tư tưởng phục cổ, sùng bái cổ nhân, giáo
điều, có tác hại kìm hãm sự phát triển của trí tuệ. Họ chủ trương làm cho
con người phải từ bỏ tư tưởng sống định mệnh, trở nên can đảm, làm
chủ cuộc đời mình, có khả năng hiểu biết vũ trụ, phất cao ngọn cờ khoa
học .

Mặc dù ý thức phong kiến đã tỏ ra thoái hố, nhưng trong thực tế , ở giai
đoẵn 1900 - 1930 , nó vẫn cịn cơ sở tồn tại. Ở nơng thơn, gốc rễ của nó
vẫn cịn rất sâu. Ở thành thị thì nó bắt đầu va chạm với ý thức tư sản vừa
mới xuất hiện. Tuy nhiên, phạm vi còn rất nhỏ hẹp , chỉ giới hạn trong
quan hệ đạo đức gia đình và tình cảm cá nhân.

Vào đầu thế kỉ XX, giai cấp tư sản đã ra đời, tư tưởng tư sản cũng xuất
hiện. Nó được đưa từ nước ngồi vào, thơng qua các sĩ phu tiến bộ. Ý
thức tư sản còn giới hạn trong phạm vi các thành thị và tỏ ra còn nhiều

yếu ớt. Ý thức tư sản trong giai đoạn này còn chịu khuất phục ý thức
phong kiến. Sự xung đột cũng chỉ xảy ra trong phạm vi cá nhân, gia đình
là chủ yếu. Vị trí lịch sử của nó khơng cho phép nó xung đột với ý thức
phong kiến trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị.Tuy nhiên, khi đề cập đến
vấn đề ảnh hưởng của ý thức hệ tư sản Việt Nam đối với sự phát triển
của văn học, cũng cần phải lưu ý rằng: Mặc dù giai cấp tư sản Việt Nam
ở giai đoạn này, bản chất là ốm yếu, phát triển què quặt nhưng đó là sự
ốm yếu, què quặt về kinh tế, chính trị, văn hố. Ðối với cơng cuộc hiện


đại hoá văn chương Việt Nam, ý thức hệ tư sản đã có một vai trị xúc tác
tích cực. Và, theo quan điểm của Mác : Ý thức hệ thống trị thời đại là ý
thức hệ của giai cấp thống trị. Giai cấp nào thống trị xã hội về mặt vật
chất cũng thống trị xã hội về mặt tinh thần, nhưng trong khi chi phối xã
hội thì đồng thời nó cũng là của xã hội và chịu sự chi phối trở lại của xã
hội. Qua đó, chúng ta càng thấy rõ vai trò của ý thức hệ tư sản trong tiến
trình hiện đại hố văn chương ở giai đoẵn đầu thế kỉ XX . Ở đây, khi
xem xét vấn đề , chúng ta cũng phải lưu ý một điều là khơng thể đồng
nhất hồn tồn chính trị với văn học, nhất là bàn đến ý thức hệ tư sản
của giai đoạn này. Giữa chúng có liên quan mật thiết với nhau nhưng
vẫn có quy luật riêng. Và, bằng chứng là khi cách mạng tư sản đã thất
bại hoàn toàn, với cuộc khởi ngĩa Yên Bái, sau năm 1930 văn học chịu
ảnh hưởng của ý thức hệ tư sản đã phát triển mạnh mẽ, mặc dù nó cịn
mang nhiều hạn chế.

Nhìn chung, đầu thế kỉ XX, trong xã hội Việt Nam đã có những chuyển
biến mạnh mẽ từ ý thức hệ phong kiến sang ý thức hệ tư sản. Ở giai
đoaün 30 năm đầu của thế kỉ, ý thức hệ tư sản chưa đủ sức làm thay đổi
nền văn hoá phong kiến Việt Nam nhưng trong một mức độ nhất định nó
đã góp phần tạo ra những nhân tố thúc đẩy cho sự đổi mới hoàn toàn ở

giai đoạn sau, giai đoaün 1930 - 1945 .

Vào những thập niên 20, 30, ý thức vơ sản đã bắt đầu xuất hiện. Nó có


mặt do hai điều kiện: Aính hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga và
cách mạng Trung Quốc thông qua sách báo, đặc biệt là vai trò của
Nguyễn Aïi Quốc và một số trí thức tiến bộ đương thời; và sự ra đời của
giai cấp vô sản Việt Nam. Nhưng ảnh hưởng của ý thức hệ vô sản chủ
yếu mới chỉ là trên đời sống tư tưởng chính trị. Ðối với văn học, nhất là
văn học giai đoạn này, dĩ nhiên nó có ảnh hưởng, hơn nữa cịn tạo ra
những thành tựu đáng kể nhưng chưa có điều kiện để phát triển.

2.2- Trước thế kỉ XX, nền văn hoá nước ta là nền văn hố phong kiến
mang đậm bản sắc Ðơng Nam Á. Về đời sống vật chất, Việt Nam có
nghề trồng lúa nước cho nên thức ăn là cơm, thức uống thì có rượu cũng
được chế tạo từ gạo. Khí hậu ở Việt Nam nóng cho nên cách ăn mặc của
người Việt thường giản dị, thoáng mát, làm từ chất liệu thực vật ( tơ tầm
, bông vải , đay gai ) . Việc ở cũng rất cẩn thận, người Việt có thói quen
chọn hướng làm nhà, chú ý vai trị phong thủy. Ðất Việt là vùng sơng
nước, cho nên phương tiện đi lại cần phải dùng thuyền. Trồng lúa nước
thì có tính thời vụ cao, vì thế người Việt cần phải sống có sự liên kết
chặt chẽ với nhau, hình thành tính cộng đồng và tính tự trị trong tổ chức
xã hội. Lối tổ chức này tạo nên tính dân chủ và tính tơn ti, tinh thần
đồìn kết và tính tập thể. Khi tiếp thu những luồng tư tưởng nước ngồi,
người Việt Nam đã có sự tiếp biến chứ khơng có tình trạng xung đột
hoặc độc tơn .




×