Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ PHẬT GIÁO VÀO NHẬT BẢN_1 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.96 KB, 7 trang )

QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ
PHẬT GIÁO VÀO NHẬT BẢN
******&******


1. Vài nét về đất nước và con người Nhật
Các đặc điểm, tính cách của mỗi dân tộc, mỗi nền văn hoá bị chi phối
bởi những điều kiện lịch sử, địa lý, dân cư. Do vậy tìm hiểu về các điều
kiện này trước khi tìm hiểu về Phật giáo Nhật Bản là một việc làm cần
thiết.
Bản đồ Nhật Bản và quan hệ với lục địa
Về điều kiện tự nhiên: Nhật Bản là một quần đảo nằm ở phía đông và
tương đối tách biệt với lục địa Châu Á, có tổng diện tích gần 377815
km2 (chiếm 0,3% tổng diện tích thế giới), trải dài từ vĩ độ 20025’B đến
45035’B.
Đất nước Nhật Bản được tạo thành bởi hơn 4000 hòn đảo lớn nhỏ, trong
đó có 4 đảo chính là: Hokaido, Honshu, Shikoku và Kyushu. (Riêng đảo
Honshu chiếm tới khoảng 60% tổng diện tích của cả quần đảo).
Địa hình Nhật Bản chạy dài theo hình cánh cung (hướng Đông Bắc, Tây
Nam) dài hơn 380km, có nhiều núi, núi đồi chiếm 71% tổng diện tích
đất nước. Bình nguyên ở đây rất ít và nằm rải rác ở các khu vực ven
biển. Có 3 đồng bằng lớn là Kanto (phía Bắc vịnh Tokyo), đồng bằng
Kansai (gần vịnh Oshaka) và đồng bằng gần vịnh Ise. Dân cư phần lớn
tập trung ở khu vực đồng bằng.
Về điều kiện dân cư, cho tới nay,phần đông các học giả đồng ý với giả
thiết rằng tổ tiên người Nhật đến từ nhiều nơi nhưng chủ yếu là nhóm
đến từ miền Bắc của đại lục Châu Á, Đông Nam Á và miền Nam Trung
Hoa, thuộc giống Mongoloid.
Những điều kiện trên đã dẫn đến một đặc điểm khái quát là: Nhật Bản
đủ xa Châu Á để thoát khỏi những ảnh hưởng của lục địa, nhưng lại đủ
gần để có thể tiếp thu những thành quả của các nền văn minh đó. Hơn


nữa, với một cộng đồng dân tộc tương đối thuần nhất, Nhật Bản có khả
năng tiếp nhận ảnh hưởng của văn hoá nước ngoài để phát triển cho
mình một nền văn hoá riêng.
2.Con đường truyền bá Phật Giáo vào Nhật Bản
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn do Sidhartha Gautama (Thích
Ca Mô Ni) sáng lập ở Ấn Độ vào Thế kỷ thứ VI TCN . Do được truyền
bá trong một thời gian dài ra nhiều nơi, nhiều chủng tộc nên lịch sử phát
triển của đạo Phật khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức
hay phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, Thích Ca, người sáng lập
đạo Phật, đã tổ chức được một giáo hội với các giới luật chặt chẽ. Nhờ
vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi với nhiều
hoàn cảnh xã hội, nhiều dân tộc, quốc gia với ngôn ngữ, phong tục tập
quán khác nhau. Nhật Bản là một trong số những quốc gia chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của đạo Phật.
Thế kỷ I TCN, Trung Quốc bắt đầu du nhập Đạo Phật . Lúc này, Phật
giáo phải đối chọi với luồng tư tưởng Nho Giáo vốn đã cắm sâu vào gốc
rễ xã hội Trung Quốc hơn 500 năm. Tuy nhiên với sự linh hoạt về giáo
lý, Đạo Phật đã nhanh chóng được người dân bản địa tiếp thu và phát
triển. .
Thế kỷ II sau công nguyên, con đường tơ lụa bắt đầu hình thành, đi qua
các nền văn minh lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Hi Lạp và
đến tận Châu Âu. Song song với quá trình giao lưu thương mại, các
trường phái tư tưởng bắt đầu được truyền bá từ Ấn Độ và lan rộng đến
nhiều quốc gia, làm nảy sinh nhiều trường phái đạo Phật khác nhau, các
trường phái này đều có đặc điểm riêng, không chịu nhiều ảnh hưởng từ
Phật Giáo nguyên thuỷ của Ấn Độ.
[IMG]file:///C:/DOCUME%7E1/TA/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/0
1/clip_image004.jpg[/IMG]
Con đường tơ lụa trên đất liền và trên biển


Từ thế kỷ thứ III đến thế kỷ VI, Phật giáo đã phát triển nhanh chóng, các
kinh Phật được dịch ra ngôn ngữ Hán, xuất hiện nhiều nhà sư đi Ấn Độ
để thỉnh kinh như Huyền Trang Tam Tạng, Trí Khải ,Huệ Năng. Trường
phái Thiền Tông phất lên mạnh mẽ dưới thời nhà Đường (618 – 907).
Từ đây, Phật giáo Trung Quốc với hai dòng chính là Đại thừa và Mật
Tông ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều quốc gia xung quanh như Triền
Tiên, Việt Nam, và đặc biệt là Nhật Bản.

3. Các giai đoạn phát triển của Phật giáo Nhật Bản
3.1 Thời kỳ Yamatô (cuối TK IV – 710)
Theo biên niên sử của Nhật Bản, Phật giáo chính thức được truyền đến
Nhật từ Triều Tiên vào năm 552 Tây lịch ( có tài liệu ghi năm 538 ). Lúc
bấy giờ vua nước Bách Tề ( Triều Tiên ) đã gửi một phái đoàn truyền
giáo đến Nhật Bản, phái đoàn đã dâng lên cho đức vua một tượng Phật
bằng vàng, một vài quyển kinh, cờ lông, chuông, mõ. Đức vua Nhật Bản
đã tiếp đón một cách nồng hậu. Điều này đã khởi đầu cho một cuộc
tranh chấp quyết liệt về việc có tiếp nhận tôn giáo mới hay là không. Thị
tộc Soga ủng hộ Phật giáo trong khi đó, dòng họ Monônobe thì phản đối
và muốn duy trì Thần đạo.
Cuối cùng , Thị tộc Soga chiến thắng, Phật giáo được xác lập ở Nhật
Bản. Nhưng điều này không có nghĩa là thần đạo bị tiêu diệt. Thần đạo
vẫn tồn tại bên cạnh Phật giáo, cả hai hệ tư tưởng bổ sung và hoàn thiện
cho nhau. Điều đó tạo ra sắc thái riêng của Nhật Bản.
Cuộc nội chiến ở Nhật kết thúc, họ Soga từ đó lộng quyền, lấn át cả
Thiên Hoàng, lấy tước vị ngang hàng với Hoàng gia, xây dựng lâu đài to
lớn nguy nga như cung điện của Thiên Hoàng.Trước tình hình đó, thái tử
Shotoku đã thi hành nhiều biện pháp để củng cố chế độ trung ương tập
quyền thông qua việc ông hết sức đề xướng Phật giáo và tiếp thu tư
tưởng Nho gia của Trung Quốc. Về đối ngoại, Thái tử Shotoku nhiều lần
cử sứ giả sang nhà Tuỳ của Trung Quốc để khôi phục lại quan hệ hai

nước vốn đã gián đoạn từ thế kỷ thứ V. Trong quốc thư của thái tử
Shotoku gửi lên Hoàng đế Trung Quốc Tuỳ Dưỡng Đế vào năm 607 có
câu:
“Thái tử nước mặt trời mọc trình thư lên hoàng đế nước mặt trời lặn.
Được biết Phật pháp tại quý quốc đang hồi hưng thịnh, tệ quốc gửi sứ
sang triều bái và đưa theo mấy chục sa môn để học thêm các giáo lý cao
thâm của phật pháp”
Ngay cả trong “thập thất điều hiến pháp” của Shotoku cũng thấm đẫm
tinh thần Phật giáo, tác phẩm kinh điển Sankyô gihô (Tam kinh Nghĩa
Sớ) của thái tử là cuốn sách đầu tiên của người Nhật.
Từ thế kỷ VI trở đi, những nhân tố ngoại lai đóng vai trò vô cùng quan
trọng đối với lịch sử Nhật Bản. Những Giáo hội Phật giáo có tôn ti, tính
chất tập trung là một thứ khuôn mẫu cho nhà nước phong kiến. Sự thống
nhất thờ phụng và ý nghĩa tuyệt đối của Phật đã góp phần khắc phục
những tàn dư có tính chất phân tán của thị tộc bộ lạc, từ đó tạo ra nền
tảng cho cuộc cải cách sau này.
Thái Tử Shotoku đã nghiên cứu và truyền giảng ba bộ kinh Đại Thừa
cho dân chúng.Về sau những bài giảng này được viết thành một bộ luận
rất giá trị. Sau khi lên ngôi Thái Tử Shotoku đã ban hành một chiếu chỉ
rằng :
" Toàn dân Nhật Bản phải kính ngưỡng và thọ trì Phật pháp".
Thời đó, với Nhật Bản Phật giáo không chỉ là tôn giáo mà còn là một thứ
văn hóa mới mẻ và tiến bộ với các kỹ thuật về nông nghiệp, kiến trúc đã
theo Phật giáo vào Nhật Bản và được dân chúng đón nhận.
Ông đã cho xây dựng chùa chiền trên khắp đất nước, một trong những
ngôi chùa nổi tiếng thời ấy vẫn còn tới ngày nay là chùa Pháp Long.
Chùa này do chính Thái Tử Shotoku đứng ra xây dựng vào năm 607 và
được xem là ngôi chùa gỗ có tuổi thọ lâu nhất thế giới. Ngoài ra còn có
chùa Shiteno-ji , chùa Horyu, chùa Yachu, chùa Koryu, chùa ctachibana,
chùa Ikejiri, chùa Katsurayi.


3.2 Thời kỳ Nara (710 – 794)
Sau thời thái tử Shotoku, nhiều biến cố chính trị dẫn đến cuộc cải cách
taica no kaishin (Đại hoá cải tân) dựa theo thiết chế chính trị nhà Đường.
Dòng họ Soga bị lật đổ, quyền lực giờ đây nằm trong tay một dòng họ
mới là Fujiwara. Từ sau cải cách Taica, Nhật xây dựng quốc gia theo mô
hình Trung Quốc. đầu thế kỷ thứ VII, hệ thống chính quyền theo mô
thức nhà Đường đã hoàn thành với chế độ định đô. Thời kì Nara bắt đầu.
Triều đình Nhật Bản thời bấy giờ xem Phật giáo có quyền lực vô cùng
thiêng liêng. Một ngôi chùa vĩ đại đã được xây dựng mang tên Tôđaiji
(Đông Đại tự) với tượng đức Phật uy nghi. Phật giáo chính thức được
coi là quốc giáo.
Thời kỳ Nara, nhà nước cũng bắt đầu chú ý đến giáo dục, nhiều trường
học đã được lập nên để dạy dỗ con em các quý tộc. Nội dung học tập
chủ yếu là văn học và pháp lý Trung Quốc. bên cạnh đó, nhà nước còn
cử nhiều người sang trung Quốc để học tập. Cùng với đó, nhiều nhà sư
Nhật Bản cũng sang học sách vở và quy chế nhà chùa. Điều đó chứng tỏ
thời Nara, văn hoá Trung Quốc đã xâm nhập và có ảnh hưởng khá lớn
tới Nhật Bản. Trong thời gian 710-794, có sáu tông phái tại Nhật Bản,
phần lớn do Trung Quốc du nhập: Câu-xá tông (kusha), Pháp tướng tông
(hossu), Tam luận tông (sanron), Thành thật tông (jojitsu), Luật tông
(ritsu), Hoa nghiêm tông (kegon).
Thời kỳ Nara đại diện cho khoảng thời gian hoạt động nhất của văn hoá
ngoại lai vào Nhật Bản.
Thế kỷ thứ VII được hình dung như là thời kì hình thành bộ mặt mới của
văn hoá Nhật Bản. Sự phát triển của Phật Giáo thời kỳ này có ảnh hưởng
nhiều đến chính trị, tính cách và phong tục của người Nhật, thúc đẩy sự
phát triển của văn học và nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc.
Đến cuối thời Nara, Phật giáo suy vi kéo theo hàng loạt sự biến động của
xã hội và dẫn đến phong trào Tân Hưng trong chính Phật giáo.


×