Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

QUẢN LÝ SỨC KHỎE MÔI TRƯỜNG pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.38 KB, 39 trang )





Ô nhiễm môi
trường không khí
I. CHÍNH SÁCH VÀ CÁC XU HƯỚNG SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG TRÊN THẾ
GIỚI 1
1. Khái niệm và định nghĩa về môi trường và sức khoẻ môi trường 1
2. Các xu hướng và chính sách sức khoẻ môi trường quốc tế 1
2.1 Định hướng chiến lược trong lĩnh vực sức khoẻ môi trường ở cấp quốc tế 1
2.2 Các chương trình sức khoẻ môi trường được triển khai ở cấp toàn cầu 3
II. HỆ THỐNG QUẢN LÝ SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 6
1. Khái niệm về quản lý môi trường 6
1.1 Quản lý bằng các giải pháp kỹ thuật đối với môi trường đất, nước, không khí và
thực phẩm 7
1.2 Quản lý môi trường bằng chính sách, chiến lược, các giải pháp hành chính và
luật lệ 8
2. Cấu trúc hệ thống quản lý môi trường 9
2.1 Nhiệm vụ cơ bản của ngành Tài nguyên và Môi trường 9
2.2 Các nhiệm vụ cơ bản của ngành y tế trong quản lý môi trường 10
III. HIỆN TRẠNG HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH THỂ CHẾ VỀ SỨC KHỎE MÔI
TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 12
1. Chiến lược, kế hoạch 13
2. Các luật liên quan đến sức khoẻ môi trường 14
3. Những vấn đề tồn tại trong quản lý sức khoẻ môi trường ở Việt Nam 14
IV. CÁC GIẢI PHÁP, HOẠT ĐỘNG VÀ CÁC BƯỚC LẬP KẾ HOẠCH QUẢN
LÝ SỨC KHỎE MÔI TRƯỜNG TẠI VIỆT NAM 16
1. Các giải pháp quản lý vệ sinh môi trường của ngành y tế 16
2. Điều hành bằng pháp luật ở cấp quốc gia 17
3. Thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường 17


4. Những hoạt động quản lý sức khoẻ môi trường 19
4.1 Xác định và đo lường mức độ ô nhiễm môi trường 19
4.2 Đo lường các yếu tố độc hại và đánh giá các nguy cơ cũng như hậu quả lên sức
khoẻ 22
4.3 Đề xuất các giải pháp giảm nhẹ nguy cơ, ngăn ngừa hậu quả 24
4.4 Xác định tính khả thi của các giải pháp 26
4.5 Xây dựng hệ thống luật pháp, các văn bản pháp quy quản lý môi trường 26
4.6 Điều chỉnh chính sách và luật lệ 26
4.7 Các chiến lược và chuẩn mực trong quản lý môi trường 26
5. Vai trò của cộng đồng trong quản lý môi trường và bảo vệ sức khoẻ 27
6. Lập kế hoạch quản lý sức khoẻ môi trường ở tuyến cơ sở 29
6.1 Các bước lập kế hoạch giải quyết vấn đề 30
6.2 Xác định vấn đề cần can thiệp 30
6.3 Phân tích, tìm hiểu vấn đề dự định can thiệp 31
6.4 Đề xuất giải pháp và quy trình can thiệp 31
6.5 Lập kế hoạch can thiệp 31
V. CÁC ĐỊNH HƯỚNG ƯU TIÊN VỀ SỨC KHỎE MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
32
TÀI LIỆU THAM KHẢO 35

1
QUẢN LÝ SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG
PHẦN II – HỆ THỐNG QUẢN LÝ SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG
Đối tượng: Cao học Y tế công cộng
Thời gian:

MỤC TIÊU BÀI HỌC
Sau khi học xong bài này, học viên có khả năng:
1. Trình bày được các xu hướng và chính sách sức khoẻ môi trường toàn cầu
2. Trình bày được hệ thống quản lý sức khoẻ môi trường ở Việt Nam

3. Trình bày được những tồn tại và ưu tiên trong vấn đề sức khoẻ môi trường
ở Việt Nam
4. Nắm được các hoạt động và các bước lập kế hoạch quản lý sức khoẻ môi
trường

I. CHÍNH SÁCH VÀ CÁC XU HƯỚNG SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG TRÊN
THẾ GIỚI
1. Khái niệm và định nghĩa về môi trường và sức khoẻ môi trường
Theo Luật bảo vệ môi trường (sửa đổi) Việt Nam (2005), Môi trường được
định nghĩa như sau: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất
nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời
sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên.”
Sức khỏe môi trường bao gồm những khía cạnh về sức khỏe con người,
bao gồm cả chất lượng cuộc sống, được xác định bởi các yếu tố vật lý, hóa học,
sinh học, xã hội và các yếu tố tâm lý trong môi trường. Khái niệm này cũng liên hệ
đến lý thuyết và thực hành của hoạt động đánh giá, chỉnh sửa, kiểm soát và ngăn
ngừa các yếu tố trong môi trường có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ của các
thế hệ hiện tại và tương lai (định nghĩa được Tổ Chức Y Tế thế giới sử dụng).
Hay nói cách khác: Sức khoẻ môi trường là tạo ra và duy trì một môi
trường trong lành, bền vững để nâng cao sức khoẻ cộng đồng.
2. Các xu hướng và chính sách sức khoẻ môi trường quốc tế
2.1 Định hướng chiến lược trong lĩnh vực sức khoẻ môi trường ở cấp quốc tế
Năm 1972, Lần đầu tiên, các vấn đề về môi trường và con người được xem
xét và giải quyết ở cấp toàn cầu tại Hội nghị của LHQ về Môi trường tổ chức tại
Stockholm, Thụy Điển. Tại Hội nghị này, 113 nước tham gia đã cùng đưa ra tuyên
bố Stockholm, trong đó khẳng định rõ:

2
- Hoạt động của con người vừa là nhân tố tích cực giúp tạo nên song cũng
chính là tác nhân phá huỷ môi trường sống của chính mình.

- Bảo vệ và cải thiện môi trường sống cho con người là các yếu tố tác động
trực tiếp tới sức khoẻ và sự phát triển kinh tế - xã hội của con người.
Nhận thức rõ được mối liên hệ mật thiết và quan trọng giữa sức khoẻ và
môi trường, sau Tuyên bố Stockholm năm 1972, hàng loạt sự kiện và văn bản ở
cấp quốc tế đã được tổ chức và công bố nhằm kêu gọi và đưa ra các định hướng
giải quyết các vấn đề về sức khoẻ môi trường ở cấp toàn cầu:
- Năm 1977, WHO cam kết thực hiện các mục tiêu toàn cầu về sức khoẻ.
Trong đó có 8 mục tiêu tập trung cho các vấn đề sức khoẻ môi trường;
- Hội nghị quốc tế lần thứ nhất về Môi trường và sức khoẻ tổ chức năm 1991
tại Thụy Điển, với sự tham gia của 81 quốc gia với mục tiêu kêu gọi toàn
thể thế giới chủ động khởi xướng và tham gia các hoạt động vì một môi
trường trong lành và có lợi cho sức khoẻ con người. Tại hội nghị này, các
nước đã cùng nhau thảo luận, trao đổi và xác định các mục tiêu chung về
bảo vệ môi trường (vật lý, kinh tế, xã hội và chính trị) đảm bảo có lợi cho
sức khoẻ con người. Hội nghị quốc tế này sau đó diễn ra hai năm một lần
và tập trung thảo luận vào từng chủ đề cụ thể trong lĩnh vực sức khoẻ môi
trường. Thường thì sau mỗi lần hội nghị sẽ có một bản tuyên bố chung
trong đó có nêu rõ những định hướng và các khuyến nghị về việc triển khai
các hoạt động sức khỏe môi trường trên thế giới.
- Chương trình Nghị sự 21 được thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới
về Môi trường và Phát triển năm 1992 đã xác định “Giảm thiểu các rủi ro
về sức khoẻ gây bởi ô nhiễm và những ảnh hưởng có hại từ môi trường” là
một trong 5 chương trình ưu tiên nhằm bảo vệ sức khoẻ con người ở cấp
toàn cầu (Mục 6.34 của Chương trình nghị sự 21).
- Tháng 8/1999, UNEP và WHO ký biên bản ghi nhớ về hợp tác để đẩy
mạnh các hoạt động quốc tế trong lĩnh vực sức khoẻ môi trường.
Theo như đã xác định trong Chương trình Nghị sự 21, mục tiêu chung của
chương trình này là: “Giảm thiểu các rủi ro, tác hại và duy trì một môi trường có
chất lượng đạt mức an toàn và không gây hại cho sức khoẻ con người”. Các mục
tiêu cụ thể của chương trình là:

- Lồng ghép các mục tiêu đảm bảo an toàn về môi trường và sức khoẻ ở mức
thích hợp trong chương trình phát triển kinh tế - xã hội chung;

3
- Thiết lập cơ sở hạ tầng để thực hiện ở cấp quốc gia các chương trình theo
dõi và quan trắc về tổn thương môi trường, giám sát rủi ro và đưa ra cơ sở
khoa học giảm thiểu chúng;
- Thiết lập các chương trình giải quyết ô nhiễm tại nguồn và tại các điểm tiêu
huỷ chất thải;
- Xác định và xây dựng hệ thống thông tin thống kê cần thiết cho việc đánh
giá tác động của môi trường và ô nhiễm tới sức khoẻ (đánh giá tác động sức
khoẻ môi trường) để đề ra các biện pháp kiểm soát, phòng ngừa và giảm
thiểu ô nhiễm.
2.2 Các chương trình sức khoẻ môi trường được triển khai ở cấp toàn cầu
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra, các lĩnh vực hoạt động sau đây được xác
định là các ưu tiên hành động chính: i) Ô nhiễm không khí đô thị; ii) Ô nhiễm
không khí trong nhà; iii) Ô nhiễm nước; iv) Ô nhiễm do sử dụng thuốc trừ sâu; v)
Chất thải rắn; vi) Các vấn đề về định cư; vii) Tiếng ồn; viii) Phóng xạ ion hoá và
phi ion hoá; ix) Ảnh hưởng của bức xạ cực tím; x) Sản xuất công nghiệp và năng
lượng; xi) Quan trắc và đánh giá; xii) Theo dõi và giảm thiểu tổn thương về môi
trường; xiii) Xúc tiến nghiên cứu và xây dựng các phương pháp luận đánh giá.
Để triển khai các hoạt động ở cấp quốc tế, với vai trò là tổ chức của Liên
hợp quốc được giao điều phối các hoạt động trong khuôn khổ chương trình “Giảm
thiểu các rủi ro về sức khoẻ gây bởi ô nhiễm và những ảnh hưởng có hại từ môi
trường”, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã phối hợp với Chương trình Môi trường
Liên hợp quốc (UNEP), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Tổ chức Phát triển của
Liên hợp quốc (UNDP) và các tổ chức tài trợ quốc tế (ADB, WB, IMF, v.v) triển
khai chương trình tổng thể “Bảo vệ môi trường sống của con người”. Tính đến
tháng 10/2005, đã có 13 chương trình nhánh được ưu tiên triển khai, bao gồm:
2.2.1. Ô nhiễm không khí trong nhà:

Hơn 3 tỷ người trên thế giới phải phụ thuộc vào các loại nhiên liệu rắn
(than đá, than củi, gỗ củi, phân chuồng và phế liệu nông nghiệp) phục vụ cho sinh
hoạt hàng ngày. Đun nấu và tạo nhiệt từ các loại nhiên liệu này theo các phương
thức truyền thống (bếp than, bếp củi, bếp lò, v.v.) là nguồn chính gây ô nhiễm
không khí trong nhà (do tạo bụi mịn, CO, các khí gây ô nhiễm với mức vượt quá
20 lần tiêu chuẩn cho phép). Theo thống kê trong báo cáo đánh giá sức khoẻ toàn
cầu năm 2002 thì khoảng 2,7% gánh nặng bệnh tật ở cấp toàn cầu là do ô nhiễm
không khí trong nhà gây nên.
Mục tiêu chính của chương trình là:

4
- Hỗ trợ các nước đang phát triển trong triển khai các hoạt động nghiên
cứu, đánh giá và tăng cường năng lực
- Hỗ trợ công tác ra quyết định và xây dựng chính sách có liên quan đến
hoặc nhằm mục tiêu giảm thiểu gánh nặng bệnh tật gây bởi tình trạng ô
nhiễm không khí trong nhà.
2.2.2. Ô nhiễm không khí ngoài trời:
Chương trình xây dựng các hướng dẫn đánh giá tác động ô nhiễm không khí
ngoài trời lên sức khoẻ con người, hỗ trợ các nước triển khai các chương trình
nghiên cứu, đánh giá, tăng cường năng lực và phổ biến thông tin có liên quan.
2.2.3 An toàn hoá học:
Chương trình thiết lập các cơ sở khoa học phục vụ mục tiêu sử dụng an
toàn các loại hoá chất trong đời sống và sản xuất; hỗ trợ tăng cường năng lực ở
cấp quốc gia về an toàn hoá học.
2.2.4 Sức khoẻ môi trường cho trẻ em:
Trẻ em chiếm đến 2,3 tỷ người trên thế giới (từ 0-19 tuổi). Khoảng 40%
bệnh tật có liên quan tới các yếu tố môi trường là do nhóm trẻ em dưới 5 tuổi
(chiếm 10% dân số thế giới) phải gánh chịu. Mỗi năm ít nhất có khoảng 3 triệu trẻ
em dưới 5 tuổi bị chết do các nguồn bệnh phát sinh từ môi trường (các bệnh về hô
hấp, tiêu chảy, sốt xuất huyết, v.v.).

Chương trình này được triển khai nhằm mục tiêu:
- Xây dựng các hồ sơ quốc gia về tác động của môi trường tới sức
khoẻ trẻ em
- Xây dựng các chỉ thị đánh giá môi trường sống cho trẻ em
- Tăng cường năng lực quản lý và ra quyết định
- Hỗ trợ nghiên cứu, đánh giá
- Phổ biến và truyền bá các kinh nghiệm tốt.

2.2.5 Tác động của các trường điện từ:
Trong kỷ nguyên công nghệ, cộng đồng ngày càng lo ngại những tác động
có hại của trường điện từ lên sức khoẻ con người. Malboysson (1976) nghiên cứu
trên 160 đối tượng trong đó 84 là công nhân trạm điện, 76 là công nhân đường
dây. Bằng phương pháp phỏng vấn và khám nghiệm y học không nhận xét thấy có
biến đổi khác thường. Các số liệu về phơi nhiễm không rõ ràng, không có nhóm
chứng.

5
Ở Việt Nam, tiêu chuẩn quốc gia đầu tiên được quy định bởi Nghị định số
70/HĐBT của Hội Đồng Bộ Trưởng do phó chủ tịch Võ Văn Kiệt ký ngày
19/4/1987. Trong qui định này có viết:
Điều 6: Hành lang bảo vệ đường dây điện cao áp trên không giới hạn bởi hai mặt
phẳng song song với đường dây, có khoảng cách đến dây ngoài cùng khi không có
gió về mỗi phía như sau:
Điện áp Đến 15 35 66 và 100 220 (230)
(kV) Dây bọc Dây trần
Khoảng cách
(m)
1 2 3 4 6

Các chương trình quốc tế về đánh giá tác động các trường điện từ lên sức

khoẻ con người được WHO khởi xướng từ năm 1996 nhằm kêu gọi các quốc gia
và các tổ chức quốc tế cũng hỗ trợ và tham gia nghiên cứu để đưa ra các căn cứ
khoa học nhằm đánh giá các tác động này.
2.2.6 Đánh giá tác động sức khoẻ môi trường:
Xây dựng các hướng dẫn và thúc đẩy áp dụng đánh giá sức khoẻ môi trường
trong giai đoạn xây dựng và vận hành các dự án phát triển kinh tế xã hội ở mọi
cấp.
2.2.7 Biến đổi môi trường toàn cầu:
Nhằm mục tiêu hỗ trợ nghiên cứu và đánh giá tác động của biến đổi môi
trường và khí hậu toàn cầu lên sức khoẻ người dân.
2.2.8 Sáng kiến liên kết các vấn đề về môi trường và sức khoẻ:
Nhằm khuyến khích các quốc gia nỗ lực gắn kết và lồng ghép các mối tương
quan và tác động về sức khoẻ môi trường trong các vấn đề phát triển chung về
kinh tế và xã hội.
2.2.9 Bức xạ iôn hoá:
Thúc đẩy các nghiên cứu đánh giá tác động của bức xạ iôn hoá lên sức khoẻ
người dân và xây dựng các khuyến nghị/khuyến cáo/cảnh báo phục vụ giải quyết
các sự cố, tai nạn liên quan đến bức xạ iôn hoá ở các nước.
2.2.10 Y học lao động và bệnh nghề nghiệp:
Hỗ trợ các nước xây dựng và cập nhật thông tin trong hồ sơ quốc gia về các
bệnh nghề nghiệp, xây dựng các chương trình/kế hoạch liên quan đến giải quyết
các bệnh nghệ nghiệp và hỗ trợ thực thi các chương trình/kế hoạch này, tăng
cường năng lực và hỗ trợ phổ biến thông tin về các bệnh nghề nghiệp và nâng cao

6
khả năng tiếp cận các nguồn thông tin về bệnh nghề nghiệp cho các nhóm nhạy
cảm.
2.2.11 Định lượng tác động của môi trường lên sức khoẻ:
Xây dựng các hướng dẫn và các phương pháp luận nhằm đánh giá và định
lượng được tác động của yếu tố môi trường lên sức khoẻ.

2.2.12. Bức xạ tia cực tím:
Nhằm nghiên cứu đánh giá và đề xuất các giải pháp hạn chế tác động xấu
của tia cực tím lên sức khoẻ.
2.2.13 Nước, vệ sinh và sức khoẻ:
Xây dựng năng lực cấp quốc gia và liên quốc gia nhằm giải quyết các vấn
đề về bệnh tật liên quan đến việc sử dụng nguồn nước không đảm bảo vệ sinh, các
điều kiện vệ sinh yếu kém; thúc đẩy các công nghệ sản xuất nước sạch quy mô
vừa và nhỏ cho các vùng sâu, vùng xa; quản lý và cấp nước hợp vệ sinh; tăng
cường các hệ thống trao đổi và phổ biến thông tin về nước sạch, vệ sinh môi
trường và sức khoẻ và các hệ thống thông tin trao đổi về công nghệ.
Riêng ở Châu âu, hầu hết các quốc gia đều ban hành và thực hiện Chương
trình hành động quốc gia về sức khoẻ và môi trường (NEHAP: National
Environmental Health Action Plan). Đây là một văn bản của chính phủ nhận định
các vấn đề sức khoẻ môi trường một cách toàn diện, chính thể và liên ngành.
Trước khi quá trình hình thành NEHAP bắt đầu, hầu hết các quốc gia chưa có sự
kết hợp giữa chính sách môi trường và chính sách y tế.
Sự phát triển của NEHAP ở Châu Âu bắt đầu từ Hội nghị Helsinki năm
1994, kéo theo sự ra đời của Chương trình hành động sức khoẻ môi trường Châu
Âu (EHAPE). Đến tháng 6 năm 1999, trong Hội nghị bộ trưởng về Sức Khoẻ và
Môi trường lần thứ 3 tại London. các bộ trưởng môi trường và y tế đã cam kết tán
thành và ủng hộ thực thi NEHAPs ở quốc gia của mình.
Đến năm 2002, 43 nước Châu Âu (như Pháp, Bỉ, Anh, Đức, Nga, v.v.) đã
phát triển và bắt đầu triển khai thực hiện NEHAP. NEHAPs thường được đồng
thực hiện bởi nhiều ngành khác nhau từ các chuyên gia kỹ thuật và chuyên nghiệp,
các nhà chức trách quốc gia, của vùng và địa phương cũng như các tổ chức phi
chính phủ.

II. HỆ THỐNG QUẢN LÝ SỨC KHOẺ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
1. Khái niệm về quản lý môi trường
Quản lý môi trường là tổng hợp các giải pháp kỹ thuật và giải pháp hành

chính nhằm bảo vệ môi trường không bị ô nhiễm hoặc khống chế mức ô nhiễm

7
trong các giới hạn cho phép, không gây tác hại cấp tính hay mãn tính lên sức khoẻ.
Trong các trường hợp không thể bảo vệ được môi trường khỏi các nguy cơ ô
nhiễm, quản lý môi trường cũng còn nhằm vào các giải pháp bảo vệ các đối tượng
tiếp xúc, hạn chế các hậu quả của ô nhiễm và giải quyết các hậu quả trên sức khoẻ.
1.1 Quản lý bằng các giải pháp kỹ thuật đối với môi trường đất, nước, không
khí và thực phẩm
Đất, nước, không khí và thực phẩm có mối liên hệ khăng khít với nhau. Đất
có thể chứa các yếu tố hoá học, sinh học và lý học. Các yếu tố này thường xâm
nhập vào các nguồn nước sinh hoạt để rồi từ đó tác động đến sức khoẻ con người.
Từ đất, các cây trồng, lương thực hay động vật là nguồn thức ăn cho người và các
động vật khác cũng có thể bị ô nhiễm. Các yếu tố ô nhiễm trong đất lại cũng có thể
từ các nguồn nước thải, rác thải cũng như khói bụi có chứa các yếu tố hoá học và
sinh học độc hại.
Bảo vệ đất, nước, không khí và thực phẩm không bị ô nhiễm nhiều khi phải
tiến hành song song. Ví dụ, muốn nguồn nước giếng đào sạch phải ngăn ngừa ô
nhiễm từ các hố xí mất vệ sinh. Muốn thực phẩm sạch phải áp dụng các biện pháp
khống chế ô nhiễm nguồn nước, đất và cây trồng. Các nguồn tài nguyên bị khai
thác không có tổ chức sẽ dẫn tới phá vỡ mối cân bằng sinh thái và cũng tạo ra các
nguy cơ ô nhiễm. Trong sinh hoạt, bảo vệ môi trường khỏi các nguồn ô nhiễm bao
gồm tổng hợp các giải pháp khống chế ô nhiễm như: quản lý chất thải rắn, chất
thải lỏng và khói bụi từ các nguồn phát sinh, quá trình vận chuyển và quá trình thu
gom xử lý.
Trong sản xuất, bảo vệ môi trường lao động bao gồm việc sử dụng các
trang thiết bị vệ sinh nhằm khống chế không cho phát sinh ô nhiễm, làm loãng,
ngăn ngừa phát tán ô nhiễm ra môi trường. Nếu các giải pháp trên không thực hiện
được hoàn chỉnh, phải bổ sung các biện pháp phòng hộ cá nhân. Cả trong sản xuất
và sinh hoạt đều phải chú ý tới việc quản lý sức khoẻ cộng đồng, phát hiện sớm

các tác hại ở giai đoạn còn khả năng hồi phục để điều trị hoặc phục hồi chức năng
nếu hậu quả trên sức khoẻ là không chữa được.
Giám sát môi trường và giám sát sinh học là các hoạt động nhằm theo dõi,
phát hiện tình trạng ô nhiễm, tình trạng thấm nhiễm và tình trạng sức khoẻ bất
thường để từ đó có các phản ứng kịp thời. Các phương pháp dự báo, các kỹ thuật
đo lường giám sát môi trường và sinh học cần được sử dụng phù hợp với đặc điểm
địa lý, dân cư, kinh tế, xã hội của một địa bàn, một địa phương và quốc gia. Ví dụ,
khí xả các động cơ có sử dụng xăng pha chì là nguồn ô nhiễm rất nguy hiểm với
sức khoẻ cộng đồng, đặc biệt là sức khoẻ trẻ em. Quản lý nguy cơ này có thể bằng

8
rất nhiều giải pháp: cấm sử dụng xăng pha chì, tăng cường giao thông công cộng,
giám sát mức ô nhiễm chì trong không khí, khám sàng lọc phát hiện tình trạng
thấm nhiễm chì quá mức ở trẻ em và phát hiện các trường hợp nhiễm độc chì để
điều trị sớm.
1.2 Quản lý môi trường bằng chính sách, chiến lược, các giải pháp hành
chính và luật lệ
Quản lý môi trường không chỉ bằng các giải pháp kỹ thuật đơn thuần mà
cần các giải pháp mang tính tổng thể, luật và hành chính. Do nguồn gốc của ô
nhiễm môi trường là từ quá trình sản xuất, các quá trình khai thác tài nguyên, các
hoạt động của đời sống hàng ngày của từng địa phương, từng nhóm dân cư, từng
gia đình và từng cá thể nên việc quản lý môi trường có rất nhiều bên liên quan
(stakeholders) chứ không riêng gì ngành y tế.
Ở tầm cỡ quốc tế cũng có rất nhiều các tổ chức tham gia vào việc hoạch
định các chính sách bảo vệ môi trường toàn cầu. Ví dụ: Chương trình Nghị sự 21
về Phát triển Bền vững của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua tại Rio de
Janeiro tháng 6 năm 1992. Mỗi quốc gia lại phát triển chính sách môi trường riêng
của mình. Ngay các địa phương cũng cần có các chính sách riêng để cụ thể hoá
chính sách quốc gia nhằm giải quyết các vấn đề tại địa phương. Không có chính
sách phù hợp sẽ thiếu khả năng kiểm soát môi trường tổng thể cũng như khó phát

triển các giải pháp kỹ thuật. Có chính sách song chính sách đó không được thể
hiện bằng các văn bản pháp luật, bằng các quy định hành chính thì hiệu lực của
chính sách sẽ rất giới hạn.
Ở nước ta, Luật Bảo vệ Môi trường đã được ban hành năm 1993 (sửa đổi
năm 2005). Dưới luật là các nghị định của Chính phủ nhằm hướng dẫn việc thực
hiện luật. Dưới các nghị định là các thông tư của chính phủ hoặc của các bộ ngành
quy định chi tiết hơn các điều khoản nhằm đưa luật vào cuộc sống. Nhiều thông tư
lại phải ban hành dưới dạng thông tư liên bộ mới có hiệu lực vì có những điều luật
yêu cầu nhiều ngành và nhiều lĩnh vực tham gia.
Trong từng bộ ngành, Bộ trưởng có thể ban hành các văn bản chỉ đạo ngành
dọc của mình, như các quyết định và các chỉ thị. Tại từng địa phương, Uỷ ban
Nhân dân cấp tỉnh, thành cũng ban hành các văn bản chỉ đạo trên địa bàn dựa trên
các văn bản của Chính phủ, bộ ngành và căn cứ vào các quyết định của Hội đồng
Nhân dân cũng như cơ quan Đảng bộ địa phương.
Qua hệ thống các văn bản pháp luật như trên đảm bảo cho các giải pháp kỹ
thuật được thực thi về mặt hành chính. Bên cạnh đó, để kiểm soát việc quản lý môi

9
trường còn có sự tham gia của hệ thống thanh tra của chính phủ và các bộ ngành,
các địa phương.
2. Cấu trúc hệ thống quản lý môi trường
Vấn đề môi trường ở Việt Nam được ngành y tế đề cập đến đầu tiên và vào
những ngày đầu sau cách mạng Tháng Tám. Lúc này Đảng và Chính phủ đã phát
động các phong trào vệ sinh phòng bệnh mà nội dung chủ yếu là giữ gìn vệ sinh
môi trường sinh hoạt và vệ sinh trong gia đình. Hoạt động quản lý và bảo vệ môi
trường là nhiệm vụ do ngành y tế đảm nhiệm với vai trò chính mãi tới tận thập kỷ
70. Sau đó, ngành công nghệ và môi trường mới được thành lập và gánh vác
nhiệm vụ với vai trò ngày càng tăng, không chỉ ở cấp quốc gia mà còn ở cả các địa
phương.
Hiện nay, về thể chế công tác quản lý nhà nước về sức khoẻ môi trường chủ

yếu do Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Y Tế trực tiếp đảm nhiệm với sự hợp
tác của các bộ, ngành ở cấp trung ương và phối hợp với các UBND tỉnh/thành phố,
các cơ quan y tế và môi trường trực thuộc các cấp này. Tại các địa phương, công
tác quản lý về sức khoẻ môi trường do các sở, các phòng về tài nguyên và môi
trường và y tế đảm nhiệm theo sự chỉ đạo trực tiếp của UBND tỉnh/thành phố và
hướng dẫn về chuyên môn của các bộ, ngành liên quan.
Tuy nhiên, cho đến nay ở Việt Nam chưa có đầu mối chuyên trách riêng để
thống nhất thực hiện công tác quản lý Nhà nước và tổ chức các dịch vụ về sức
khoẻ môi trường. Các chức năng quản lý Nhà nước và tổ chức dịch vụ sức khoẻ
môi trường được phân mảng và giao cho nhiều bộ ngành khác nhau như Bộ Tài
nguyên và môi trường, Bộ Y tế, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ công
nghiệp, Bộ Lao động thương binh và xã hội, Uỷ ban quốc gia dân số gia đình và
trẻ em, v.v… Việc điều hoà, phối hợp công tác sức khoẻ môi trường ở các ngành,
các cấp mới ở giai đoạn mở đầu còn nhiều bất cập so với đòi hỏi thực tế.
2.1 Nhiệm vụ cơ bản của ngành Tài nguyên và Môi trường
Ngày 5 tháng 8 năm 2002 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khoá XI, kỳ họp thứ nhất thông qua Nghị quyết số 02/2002/QH11 quy định
danh sách các bộ và cơ quan ngang bộ của Chính phủ, trong đó có Bộ Tài nguyên
và Môi trường.
Bộ Tài nguyên và Môi trường được thành lập trên cơ sở hợp nhất các đơn
vị Tổng cục Địa chính, Tổng cục Khí tượng Thuỷ văn, Cục Môi trường (Bộ Khoa
học, Công nghệ và Môi trường), Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam và Viện
Địa chất và Khoáng sản (Bộ Công nghiệp) và bộ phận quản lý tài nguyên nước

10
thuộc Cục quản lý nước và công trình thuỷ lợi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn).
Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản,
môi trường, khí tượng thuỷ văn, đo đạc và bản đồ trong phạm vi cả nước; quản lý

nhà nước các dịch vụ công và thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà
nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước trong lĩnh vực tài nguyên đất, tài nguyên
nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thuỷ văn, đo đạc và bản đồ
theo quy định của pháp luật.
Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 05 tháng 11 năm 2002 của Chính phủ
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ trong đó, ở
lĩnh vực môi trường:
(1) Chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện các quy định, biện pháp bảo vệ môi
trường, các chương trình, dự án về phòng, chống, khắc phục suy thoái, ô
nhiễm, sự cố môi trường theo sự phân công của Chính phủ;
(2) Thống nhất quản lý hệ thống quan trắc môi trường quốc gia; tổng hợp,
xử lý số liệu về quan trắc môi trường và định kỳ đánh giá hiện trạng môi
trường, dự báo diễn biến môi trường;
(3) Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án và các
cơ sở sản xuất, kinh doanh; quy định các tiêu chuẩn môi trường và quản
lý thống nhất việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi
trường theo quy định của pháp luật;
(4) Vận động các nguồn tài trợ, tiếp nhận vốn đầu tư của Nhà nước hỗ trợ
các chương trình, dự án, các hoạt động, nhiệm vụ bảo vệ môi trường và
quản lý việc sử dụng Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam.
Sở Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh), giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng
thuỷ văn, đo đạc và bản đồ trên địa bàn tỉnh theo quy đinh của pháp luật.
Sở Tài nguyên và Môi trường chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế
và công tác của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về
chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Tài nguyên và môi trường.
2.2 Các nhiệm vụ cơ bản của ngành y tế trong quản lý môi trường
Ở Việt Nam, các cơ quan quản lý nhà nước về Y tế dự phòng có liên quan

chặt chẽ đến công tác quản lý sức khoẻ môi trường. Ở tuyến trung ương có Bộ Y

11
tế (Cục Y tế dự phòng, Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm) ở tuyến tỉnh có Sở y tế
(Trung tâm y tế dự phòng tỉnh), cấp huyện có (Trung tâm Y tế dự phòng
huyện/Đội Y tế dự phòng) và cấp xã có trạm y tế xã. Đây là các cơ quan tham gia
quản lý các vấn đề Sức khoẻ môi trường. Như vậy, hiện nay vẫn song hành hai hệ
thống của hai bộ ngành cùng tham gia quản lý môi trường cho dù đã có sự phân
định ranh giới nhưng hoạt động chồng chéo ở tuyến tỉnh là khó tránh khỏi. Ngành
y tế chịu trách nhiệm chính trong giám sát các yếu tố môi trường trực tiếp tác động
đến sức khoẻ cộng đồng và sức khoẻ người lao động. Trong khi đó, ngành môi
trường và tài nguyên quản lý ở tầm vĩ mô hơn như đánh giá tác động môi trường,
tham gia phê duyệt các quy hoạch phát triển sản xuất, công nghiệp, dân sự, đô thị
v.v Các hoạt động giám sát môi trường cũng được cơ quan này thực hiện chủ
yếu ở ngoài nhà máy.
Các bộ, ngành sản xuất cũng có một số trung tâm y tế lao động. Đây cũng
là các hệ thống quản lý môi trường lao động chịu sự giám sát và chỉ đạo chuyên
môn nghiệp vụ của các vụ, viện thuộc ngành y tế.
Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo 10 nhiệm vụ đối với các cơ sở y tế như
sau:
• Đề xuất và phổ biến các biện pháp dự phòng để bảo vệ sức khoẻ cộng
đồng. Cung cấp các cơ sở cũng như tham mưu với chính quyền các
chính sách, chiến lược bảo vệ sức khoẻ khỏi các nguy cơ từ ô nhiễm
môi trường. Thông tin cho các bộ ngành khác cũng như các cơ sở sản
xuất và các cộng đồng dân cư về các vấn đề sức khoẻ liên quan tới môi
trường. Đồng thời, khuyến khích các sáng kiến nhằm cải thiện môi
trường, thay đổi hành vi có lợi cho sức khoẻ.
• Nâng cao năng lực của cộng đồng trong xử lý các tác động của môi
trường lên sức khoẻ, bao gồm các giải pháp phòng bệnh do chính quyền
địa phương và người dân thực hiện.

• Tiến hành đánh giá các nguy cơ từ môi trường và tác động của môi
trường trên sức khoẻ. Ở đây, bao gồm các hoạt động theo dõi môi
trường, phát hiện những yếu tố độc hại đối với sức khoẻ từ môi trường
sản xuất, môi trường sinh hoạt công cộng và môi trường gia đình. Phát
hiện các nguy cơ do các hoạt động của các ngành khác, nhất là các
ngành sản xuất có sử dụng nhiên liệu và nguyên liệu phát sinh độc hại
• Tiến hành các giám sát dịch tễ học đối với các bệnh có liên quan đến
môi trường. Thông báo hiện trạng cũng như những dự báo về tình hình

12
sức khoẻ và các yếu tố độc hại từ môi trường cho những người có thẩm
quyền ra các chính sách phát triển kinh tế-xã hội.
• Đào tạo cán bộ vệ sinh phòng dịch cho các tuyến và các ngành liên
quan.
• Cung cấp các dịch vụ cũng như triển khai các chương trình, dự án về
kiểm soát môi trường độc lập hoặc phối hợp với các ngành sản xuất
khác. Ví dụ: triển khai chương trình tiêm chủng mở rộng, chương trình
nước sạch và vệ sinh nông thôn (cùng Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn) v.v
• Sẵn sàng tham gia cùng các bộ ngành, địa phương khác trong việc ứng
phó với các thảm hoạ tự nhiên cũng như thảm hoạ do con người gây ra.
• Phối hợp với các cơ quan hữu quan để đưa ra các tiêu chuẩn tiếp xúc
cho phép, các giới hạn và chuẩn mực vệ sinh, chuẩn bị các văn bản có
tính pháp quy trong bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khoẻ trình cấp có
thẩm quyền phê duyệt.
• Phối hợp đánh giá tác động môi trường (EIA) và chủ động đề xuất các
giải pháp dự phòng, các quy trình theo dõi tình hình sức khoẻ một cách
có hệ thống.
• Đề xuất và tiến hành những công trình nghiên cứu trong lĩnh vực sức
khoẻ môi trường và các giải pháp phòng ngừa.

III. HIỆN TRẠNG HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH THỂ CHẾ VỀ SỨC KHỎE
MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
Ở Việt Nam, vấn đề sức khoẻ môi trường đã được Đảng và Nhà nước quan
tâm, được cụ thể hoá bằng hệ thống chính sách và thể chế. Trong số đó, Luật bảo
vệ môi trường năm 1993, xác định rất rõ: “Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt
đối với đời sống con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của
đất nước, của dân tộc và nhân loại; bảo vệ môi trường nhằm bảo vệ sức khoẻ nhân
dân, bảo đảm quyền con người được sống trong môi trường trong lành, phục vụ sự
nghiệp phát triển bền vững của đất nước, góp phần bảo vệ môi trường, khu vực và
toàn cầu”.
Các nội dung về sức khoẻ môi trường hiện nay mặc dù càn chưa có thể chế
riêng biệt, nhưng đã được lồng ghép trong hệ thống chính sách, chiến lược, kế
hoạch quốc gia có liên quan và khung pháp chế hiện hành.

13
1. Chiến lược, kế hoạch
Chiến lược về sức khoẻ môi trường của Việt Nam đã được xác định trong
các văn bản của nhà nước như: Chiến lược Phát triển Kinh tế-Xã hội 2001-2010;
Chiến lược Chăm sóc và Bảo vệ sức khoẻ nhân dân giai đoạn 2001-2010; Chiến
lược bảo vệ môi trường Quốc gia đến 2010 và Định hướng đến năm 2020; Định
hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam; Chiến lược Quốc gia về Cấp
nước và Vệ sinh môi trường nông thôn đến năm 2020 và các kế hoạch hành động
liên quan.
Chiến lược Phát triển kinh tế xã hội 2001-2020 đã xác định các mục tiêu
liên quan đến bảo vệ sức khoẻ và môi trường như: “Người có bệnh được chữa trị;
giảm tỷ lệ trẻ em (dưới 5 tuổi) suy dinh dưỡng xuống khoảng 20%; tăng tuổi thọ
trung bình lên 71 tuổi. Chất lượng đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần được nâng
lên rõ rệt trong môi trường xã hội an toàn, lành mạnh; môi trường tự nhiên được
bảo vệ và cải thiện”
Định hướng chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2002-2007

để cụ thể hoá Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010, cũng đã xác định:
“Việc bảo vệ và làm trong sạch môi trường thiên nhiên” là một trong những biện
pháp nhằm nâng cao thể chất con người”
Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam (ban hành theo Quyết định số
153/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 17/8/2004) xác định các ưu
tiên hành động sau đây nhằm làm giảm tác hại do ô nhiễm môi trường đối với sức
khoẻ nhân dân:
• Đẩy mạnh công tác xây dựng và ban hành các chính sách và văn bản
pháp qui về vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm; xây dựng và ban
hành các tiêu chuẩn môi trường ngành và quốc gia; củng cố, tăng cường
hệ thống giám sát và quy hoạch tổng thể mạng lưới quan trắc môi
trường quốc gia
• Thiết lập các cơ chế kết hợp chăm sóc sức khoẻ với bảo vệ môi trường
• Xây dựng định hướng quốc gia về sức khoẻ môi trường
• Quản lý, giám sát môi trường lao động, phòng chống bệnh nghề nghiệp
do ảnh hưởng của các yếu tố độc hại, ô nhiễm trong môi trường lao
động
• Lập kế hoạch giám sát, thu gom và xử lý chất thải sinh hoạt và chất thải
nguy hại, đặc biệt là chất thải bệnh viện. Việc thực hiện kế hoạch phải
được các cơ quan bảo vệ môi trường giám sát.

14
Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân giai đoạn 2001-2010
theo Quyết định số 35/2001/QĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ, đã đưa ra mục tiêu
“Mọi người đều được sống trong cộng đồng an toàn, môi trường trong sạch, phát
triển tốt về thể chất và tinh thần, giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi
thọ và phát triển giống nòi”.
Chiến lược Quốc gia về cấp nước và Vệ sinh môi trường nông thôn đến
năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 25/8/2000 trong Quyết định
số 104/2000/QĐ-TTg đã cụ thể hoá các chủ trương, đường lối, chính sách chung

được thể hiện trong các chiến lược chung về phát triển bền vững, đề xuất các nội
dung nghiên cứu nhằm áp dụng các công nghệ cấp nước và vệ sinh môi trường
phù hợp về môi trường và sức khoẻ.
2. Các luật liên quan đến sức khoẻ môi trường
Các nội dung chiến lược quan trọng nêu trên đã được thể hiện trong các văn
bản luật như: Luật bảo vệ Sức khoẻ Nhân dân ban hành năm 1989; các Luật bảo
vệ Môi trường ban hành năm 1993 và 2005; các luật về Đất đai, Khoáng sản, Tài
nguyên nước.
Đặc biệt, Luật bảo vệ Sức khoẻ Nhân dân được Quốc hội nước CHXHCN
Việt Nam khoá VIII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 30/6/1989 dành riêng một
chương II “Vệ sinh trong sinh hoạt và lao động, vệ sinh công cộng, phòng và
chống dịch bệnh”.
Ngoài các văn bản luật và các chiến lược, còn có rẩt nhiều các Nghị quyết,
Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ, các văn bản của Bộ Y Tế, Bộ tài
nguyên và môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công nghiệp
ban hành nhằm tăng cường các hoạt động liên quan đến sức khoẻ môi trường.
Tuy nhiên việc xây dựng cũng như tổ chức thực hiện các chính sách trong
các văn bản trên thức tế vẫn còn nhiều bất cập; nhiều chính sách, chiến lược và
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của ngành và địa phương chưa tính đến sức
khoẻ môi trường.
3. Những vấn đề tồn tại trong quản lý sức khoẻ môi trường ở Việt Nam
Trên thế giới, sau Tuyên bố Stockholm 1972, nhận thức rõ được mối liên
hệ mật thiết và quan trọng giữa sức khoẻ và môi trường, hàng loạt các sự kiện và
văn bản ở cấp quốc tế đã được tổ chức và công bố nhằm kêu gọi và đưa ra các
định hướng giải quyết các vấn đề về sức khoẻ môi trường ở cấp toàn cầu.
Quan điểm về việc gắn kết các vấn đề về sức khoẻ và môi trường cũng đã
sớm được quan tâm ở Việt Nam. Luật bảo vệ môi trường năm 1993 đã xác định
“Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người, sinh vật

15

và sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước, dân tộc và nhân loại; bảo vệ
môi trường nhắm bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, bảo đảm quyền con người
được sống trong môi trường trong lành, phục vụ sự nghiệp phát triển lâu bền của
đất nước, góp phần bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu”. Trong nhiều văn bản
tiếp đó, như chiến lược Phát triển Kinh tế-Xã hội giai đoạn 2001-2010, Chiến lược
Chăm sóc và Bảo vệ sức khoẻ nhân dân 2001-2010, Chỉ thị số 36-CT/TW ngày
26/8/1998 của Bộ Chính Trị về việc tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Chương trình nghị sự
21 của Việt Nam và Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định
hường đến năm 2020 đều khẳng định tầm quan trọng của các hoạt động về sức
khoẻ môi trường.
Tuy nhiên,việc triển khai các hoạt động mang tính gắn kết giữa bảo vệ môi
trường với đảm bảo an toàn cho sức khoẻ người dân để tránh và hạn chế những rủi
ro từ môi trường sống ở Việt Nam do nhiều nguyên nhân khác nhau vẫn còn tồn
tại những bất cập và hạn chế nhất định. Trong bối cảnh phát triển kinh tế-xã hội
diễn ra nhanh chóng, trong những năm sắp tới, Việt Nam sẽ phải đối mặt với hàng
loạt những thách thức về sức khoẻ môi trường như ô nhiễm môi trường gia tăng,
hệ thống dịch vụ vệ sinh môi trường đô thị còn bất cập và chưa theo kịp xu thế đô
thị hoá, chất lượng các dịch vụ vệ sinh môi trường còn chưa cao, các vấn đề ô
nhiễm và vệ sinh thực phẩm, an toàn hoá chất, dịch bệnh, an toàn giao thông ngày
càng nảy sinh phức tạp, v.v. Việc giải quyết các vấn đề này đòi hỏi những nỗ lực
liên ngành thu hút sự tham gia của các tổ chức chính phủ, tổ chức chính trị- xã hội,
tổ chức tôn giáo, các doanh nghiệp và các tổ chức phi chính phủ. Các hoạt động
sức khoẻ môi trường trong nước cũng cần được kết hợp chặt chẽ với các hoạt động
thuộc lĩnh vực này trong khu vực và trên toàn cầu.
Trong thời gian gần đây, sự phối hợp giữa hai cơ quan ở tầm vĩ mô là Bộ
Tài nguyên và Môi trường và Bộ Y Tế đã có những chuyển biến tích cực, cụ thể là
hai Bộ đã lần đầu tiên hợp tác tổ chức các diễn đàn sức khoẻ môi trường ở ba miền
và một Diễn đàn Quốc gia về Sức khoẻ môi trường, vừa được tổ chức tháng
10/2006 tại Hà Nội, quy tụ nhiều chuyên gia và cố vấn trong và ngoài nước cùng

tham gia và thảo luận về các vấn đề sức khoẻ môi trường nổi bật của Việt Nam.
Trong hội nghị này, Báo cáo Quốc gia về sức khoẻ môi trường năm 2006 đã được
thảo luận. Đây là báo cáo đầu tiên về lĩnh vực này, được xây dựng nhằm mục tiêu
đánh giá hiện trạng các vấn đề sức khoẻ môi trường trong giai đoạn vừa qua
(2000-2005) và nêu lên một số định hướng ưu tiên nhằm giải quyết các vấn đề
nóng và bức xúc về sức khoẻ môi trường ở Việt Nam.

16
Báo cáo được xây dựng trong khuôn khổ các hoạt động hợp tác giữa hai Bộ
tài Nguyên và Môi trường và Bộ Y Tế nhắm đầy mạnh các hoạt động liên kết giữa
môi trường và sức khoẻ ở Việt Nam theo sáng kiến chung của Tổ Chức Y Tế Thế
Giới (WHO) và Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP).
IV. CÁC GIẢI PHÁP, HOẠT ĐỘNG VÀ CÁC BƯỚC LẬP KẾ HOẠCH
QUẢN LÝ SỨC KHỎE MÔI TRƯỜNG TẠI VIỆT NAM
1. Các giải pháp quản lý vệ sinh môi trường của ngành y tế
Đây là tập hợp các hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề phân, nước, rác
thải trong môi trường sinh hoạt và giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường công
nghiệp, nông nghiệp và sau đó là quản lý các chất thải rắn và lỏng ở quy mô lớn
hơn, nhất là sau khi có Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam (1993). Sự phối hợp
của ngành y tế, ngành khoa học công nghệ-môi trường cùng với việc đưa ra các
pháp lệnh, nghị định của Quốc hội, của Chính phủ thể chế hoá các biện pháp bảo
vệ môi trường đã làm cho các hoạt động quản lý môi trường có cơ sở hơn và được
đầu tư tổng thể hơn.
Các văn bản về quy định tiêu chuẩn vệ sinh của ngành y tế đề xuất và ban
hành dựa trên các tiêu chuẩn của Liên Xô cũ và của Tổ chức Y tế Thế giới là bản
tiêu chuẩn rất ưu việt. Tuy nhiên, để thực hiện các tiêu chuẩn đó còn gặp rất nhiều
khó khăn do: ý thức tự giác của cộng đồng còn thấp, kinh tế khó khăn làm hạn chế
các biện pháp cải thiện môi trường, công nghệ lạc hậu cũng gây ra những vấn đề ô
nhiễm rất đáng lo ngại, quy hoạch đô thị cũng như quy hoạch khu kinh tế còn rất
yếu kém, di dân thiếu tổ chức, tệ nạn phá rừng và dân số gia tăng làm cho tốc độ

sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên tăng, các tập quán lạc hậu cùng các yếu tố
địa lý dân cư của nhiều vùng vẫn là mảnh đất tốt cho các công trình vệ sinh của hộ
gia đình tồn tại ở cấp độ rất thô sơ. (Ví dụ, tình trạng sử dụng cầu tiêu ao cá ở các
tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, tình trạng nuôi trâu bò dưới nhà sàn ở miền núi
phía Bắc v.v ).
Đặc điểm môi trường nông thôn nước ta vẫn là ô nhiễm bởi các chất thải
hữu cơ. Thêm vào đó là hoá chất bảo vệ thực vật làm ô nhiễm nguồn nước và làm
nhiễm độc các động thực vật thuỷ sinh. Các làng nghề ở nông thông đang trở
thành nguồn ô nhiễm mới hiện nay.
Đặc điểm môi trường thành phố là ô nhiễm công nghiệp trong cơ sở sản
xuất và nước thải, rác thải ra khu vực ngoại thành. Tình trạng "bóng rợp đô thị" ở
các vùng ngoại ô hứng chịu nước thải, rác thải của thành phố cũng đã được cảnh
báo, song quản lý vấn đề này còn có nhiều hạn chế. Thiếu quy hoạch đô thị tạo ra
các yếu tố nguy cơ sức khoẻ môi trường như mất vệ sinh nhà ở, tình trạng ngập

17
lụt trong thành phố, khói xả của các động cơ, tiếng ồn giao thông v.v Lưu thông
các loại thực phẩm không hợp vệ sinh cả về mặt hoá học, lý học và vi sinh vật là
các yếu tố độc hại khôn lường. Điều đáng lưu ý là những gì đang xảy ra đối với
môi trường ở Việt Nam rất giống với những gì đã xẩy ra ở các nước có nền kinh tế
phát triển hơn trong khu vực. Ở đây, vai trò hợp tác quốc tế chưa phát huy tác
dụng, những sai lầm vẫn bị lặp lại mà không có biện pháp quản lý, phòng ngừa
thích hợp.
Vai trò của ngành y tế còn rất hạn chế trong cơ chế thị trường, nơi mà các
quy luật về lợi nhuận chi phối rất mạnh. Tuy nhiên, việc thay đổi các quy định, các
chính sách để có tính khả thi cao hơn, được chấp nhận nhiều hơn và có hiệu quả
hơn là rất cần thiết. Các quy định vệ sinh ban hành ở các nước phát triển cao
thường quá khắt khe, trong khi đó khả năng kiểm soát việc thực thi các quy định
đó lại rất hạn chế. Điều này đặt ra cho các nhà quản lý môi trường việc điều chỉnh
các văn bản cho phù hợp.

2. Điều hành bằng pháp luật ở cấp quốc gia
Như đã đề cập ở trên, các văn bản do ngành y tế chuẩn bị và ban hành chủ
yếu tác động ở tầm vi mô nhiều hơn là ở tầm vĩ mô. Ví dụ, đưa ra các tiêu chuẩn
vệ sinh về nguồn nước, vệ sinh thực phẩm, vệ sinh lao động v.v. Các văn bản do
Bộ Tài nguyên và Môi trường (trước đây là Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi
trường) chỉ đạo các hoạt động bảo vệ môi trường ở tầm vĩ mô hơn, có tính ngăn
ngừa nhiều hơn và hướng về bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở tầm chính
sách và chiến lược. Ngày càng cần các văn bản có tính liên bộ và văn bản của
chính phủ trong điều phối các hoạt động bảo vệ sức khoẻ môi trường.
Cũng cùng chung với tình trạng thực hiện các tiêu chuẩn vệ sinh, các văn
bản tuy có tính pháp lý cao của ngành tài nguyên - môi trường cũng gặp rất nhiều
khó khăn. Trong đó có năng lực của những người quản lý cấp tỉnh còn yếu, có sự
bất cập giữa các văn bản yêu cầu rất cao, rất ưu việt với mức đầu tư thấp về nguồn
lực cho các cơ quan quản lý môi trường.
3. Thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường
Việc thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường phụ thuộc vào mức thu
nhập quốc dân và chia làm 2 giai đoạn. Giai đoạn đầu, khi mức bình quân thu nhập
đầu người ở mức thấp (khoảng dưới 1.000 USD / người / năm) thì mức ô nhiễm
(ví dụ: ô nhiễm khí SO
2
) trong môi trường càng tăng. Ở thời gian này, các mục
tiêu kinh tế được đặt lên hàng đầu, trong khi đó khả năng kỹ thuật lại còn hạn chế,
mức đầu tư cho bảo vệ môi trường thấp làm cho càng phát triển sản xuất thì nguy
cơ thải SO
2
ra môi trường càng nhiều. Đến giai đoạn sau, khi nền kinh tế đã phát

18
triển, những khó khăn ở giai đoạn đầu giảm đi, khả năng đầu tư cho phòng chống
ô nhiễm tăng lên, công nghệ ở trình độ cao hơn vì vậy mức ô nhiễm sẽ giảm đi.

Đây là một ví dụ cụ thể về ô nhiễm chất khí SO
2
chỉ điểm của ô nhiễm môi
trường công nghiệp nhưng cũng có thể suy luận rộng ra cho nhiều yếu tố ô nhiễm
khác. Chúng ta cũng nhận thấy việc kiểm soát bằng luật lệ đối với những nước
đang phát triển như Việt Nam là không dễ dàng. Cũng có thể dự đoán rằng chúng
ta đang ở thời kỳ mà mức ô nhiễm môi trường tăng tỉ lệ thuận với tăng trưởng kinh
tế. Vì vậy, các biện pháp quản lý môi trường cần được đặc biệt chú ý. Rất tiếc là
chúng ta chưa có các số liệu dự báo ô nhiễm đáng tin cậy, cũng như mức đầu tư
cho chống ô nhiễm còn rất hạn chế và khó tính toán. Như vậy, câu hỏi đặt ra cho
các nhà quản lý môi trường ở cấp vĩ mô là cần đầu tư bao nhiêu, giải quyết yếu tố
nào, yếu tố nào cần ưu tiên giải quyết trước v.v. hiện vẫn chưa tìm được câu trả lời
thoả đáng.
Việc vận động nhân dân làm sạch môi trường còn lúng túng vì chưa tìm
được giải pháp có tính duy trì. Ví dụ, vào giữa những năm 90' phong trào xoá cầu
tiêu ao cá ở Đồng bằng sông Cửu Long được thực hiện rầm rộ. Có tỉnh "xoá cầu
tiêu ao cá" trong vài tháng, song lúc đó không tìm được loại hố xí nào phù hợp và
được cộng đồng chấp nhận nên chỉ vài tháng sau, các "cầu cá" lại "tái lập" như
trước đó. Vì vậy, khu vực này vẫn lưu hành các bệnh dịch đường tiêu hoá như
thương hàn, lỵ và cả bệnh tả.
Hiện nay, các phong trào "làng sức khoẻ" đang được Bộ Y tế phát động,
trong đó có việc khôi phục lại các chương trình vệ sinh nông thôn trước đây. Ở
thành phố, nhờ có sự hỗ trợ của Tổ chức Y tế Thế giới, nhiều nơi đang thực hiện
chương trình "thành phố lành mạnh", chương trình phòng chống bệnh bụi phổi
silic đang được hiện ở một số cơ sở có ô nhiễm bụi v.v. Cho dù có không ít cố
gắng của ngành y tế trong việc kiểm soát môi trường, tình hình ô nhiễm vẫn có xu
hướng gia tăng.
Những giải pháp khống chế ô nhiễm môi trường hiện nay do ngành y tế chỉ
đạo, bao gồm:
(1) Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy để tăng cường quản lý

nhà nước về môi trường và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng
(2) Nâng cao năng lực hệ thống y tế dự phòng các cấp
(3) Phát triển nhân lực
(4) Đầu tư trang thiết bị theo dõi, giám sát môi trường và giám sát tình
hình sức khoẻ, bệnh tật
(5) Đảm bảo ngân sách, kể cả việc tạo nguồn thu dịch vụ

19
(6) Tổ chức và quản lý bộ máy
(7) Phối hợp liên ngành
(8) Xã hội hoá các hoạt động bảo vệ môi trường, nâng cao sức khoẻ.
4. Những hoạt động quản lý sức khoẻ môi trường
Những câu hỏi chính thường đặt ra cho người quản lý môi trường gồm:
• Có những yếu tố môi trường nào có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng
đồng?
• Mức độ ô nhiễm hoặc nguy cơ của yếu tố đó đến sức khoẻ cộng đồng ra
sao?
• Có những giải pháp nào (hiện có) đang được sử dụng để ngăn ngừa
nguy cơ hiện tại và tác động lâu dài của ô nhiễm môi trường lên sức
khoẻ? Có những khiếm khuyết nào trong các giải pháp đó mà có thể
điều chỉnh được?
• Có những giải pháp khả thi nào khác nhằm tăng cường sức khoẻ, cải
thiện môi trường?
• Cần có các văn bản gì, quy định hành chính nào giúp cho việc thể chế
hoá, hành chính hoá các hoạt động quản lý môi trường?
• Hiện nay các luật lệ cũng như các văn bản pháp quy chỉ đạo công tác vệ
sinh phòng bệnh, ngăn ngừa các nguy cơ từ môi trường có phù hợp
không? điểm nào không phù hợp và cần phải điều chỉnh?
• Cần có những chiến lược nào, tiêu chuẩn gì đối với chất lượng môi
trường? Để triển khai các chiến lược đó ở các địa phương, các bộ ngành

cần có những hướng dẫn gì?
Từ các câu hỏi trên, có 7 nhóm hoạt động quản lý môi trường
4.1 Xác định và đo lường mức độ ô nhiễm môi trường
Đây là nhiệm vụ đầu tiên và cũng là hoạt động cần nhiều nguồn lực nhất
đối với cơ sở y tế dự phòng địa phương. Mỗi nước với trình độ phát triển kinh tế
cũng như điều kiện địa lý môi trường, hệ thống chính sách xã hội khác nhau có
những quan tâm không giống nhau.
Ở các nước phát triển, người ta quan tâm nhiều đến ô nhiễm môi trường
công nghiệp, đô thị, đến việc khai thác các nguồn tài nguyên không tái sinh, đến
tầng ôzôn, đến khí xả động cơ và cả các vấn đề mà nước đang phát triển ít chú ý
tới như thuỷ triều và tình trạng nóng lên của trái đất
Trong khi đó, các nước đang phát triển lại chú ý tới các yếu tố ô nhiễm môi
trường truyền thống như vấn đề chất thải sinh hoạt, các yếu tố ô nhiễm vi sinh vật,

20
ký sinh trùng, hoá chất bảo vệ thực vật, ô nhiễm thực phẩm v.v Ngay trong cùng
một quốc gia, các mối quan tâm về môi trường ở mỗi vùng cũng có các đặc trưng
riêng.
Trước khi xác định ô nhiễm môi trường của một địa phương, một khu vực
dân cư chúng ta cần tìm hiểu những vấn đề quan tâm hàng đầu của cộng đồng là
gì, yếu tố nào đang và sẽ gây hậu quả lên sức khoẻ, yếu tố nào đã được nhận biết
hoặc chưa được nhân biết, mức độ ảnh hưởng ra sao, các khó khăn cản trở gì trong
quá trình phát hiện ô nhiễm, theo dõi, giám sát và kiểm soát ô nhiễm v.v Dân số
đang sống trong tình trạng ô nhiễm là bao nhiêu, các nhóm dễ bị tổn thương là
những ai?
Việc xác định các yếu tố ô nhiễm có thể cần đến các kỹ thuật đo đạc, đánh
giá ô nhiễm. Song, không ít trường hợp các yếu tố ô nhiễm chỉ được ghi nhận có
tính chất định tính hoặc trên các suy luận lôgic.
Ví dụ: khi tỷ lệ hộ gia đình có hố xí hợp vệ sinh còn thấp, nguy cơ ô nhiễm
vi sinh vật đường ruột trong đất và đặc biệt là trong nước sẽ rất cao. Ở đây, yếu tố

có thể đo lường được đó là các chỉ số vệ sinh của các nguồn nước sinh hoạt
(coliform, BOD
5
, NH
3
) song các tác nhân gây bệnh đường ruột khác như các vi
rút và vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy ở trẻ em lại rất khó xác định, nhất là khi thiếu
các kỹ thuật la bô hiện đại, vì vậy phải "mượn" các chỉ số vệ sinh để đánh giá ô
nhiễm. Tương tự như thế, các yếu tố gây ung thư trong môi trường rất nhiều song
ít có khả năng đo lường chúng, trừ một vài nghiên cứu có mức đầu tư khá lớn.
Phương pháp "kiểm kê" (inventory) các yếu tố ô nhiễm dựa trên các mô
hình tính toán cũng được khuyến cáo áp dụng một khi thiếu các kỹ thuật theo dõi -
giám sát môi trường. Ví dụ, để xác định mức ô nhiễm khí SO
2
, SO
3
trong môi
trường do khói xả từ các ống khói nhà máy sử dụng than đá, người ta có thể sử
dụng phương pháp hoá học để định lượng SO
2
, SO
3
trong không khí, hoặc sử dụng
hệ thống thiết bị theo dõi tự động (monitoring). Trường hợp không có các kỹ thuật
trên, người ta có thể tính toán lượng SO
2
, SO
3
thải vào không khí trong một tháng
(hay 1 ngày đêm, 1 năm ) qua số liệu báo cáo về lượng than đá đã sử dụng (trong

than có một tỷ lệ lưu huỳnh xác định, khi đốt sẽ tạo thành SO
2
, SO
3
).
Khi xác định yếu tố ô nhiễm, cần xác định cả số lượng quần thể dân cư
cũng như sinh vật có thể chịu tác động trực tiếp hoặc gián tiếp do ô nhiễm môi
trường. Ví dụ, xem Bảng 6 về tình hình ô nhiễm SO
2
ở hai thành phố.

21
Bảng 6 Tình hình ô nhiễm SO
2
ở hai thành phố A và B
Thành phố A Thành phố B
Dân số
8.000.000 1.000.000
Mức ô nhiễm SO
2
(ppm)

• Tối đa
• Tối thiểu
• Trung bình

0,40
0,10
0,25


1,40
0,10
0,25
Số dân tiếp xúc
• Phụ nữ
• Trẻ em
• Người cao tuổi

4.200.000
600.000
800.000

510.000
150.000
100.000

Để đánh giá ô nhiễm có thể dựa vào các mức ô nhiễm, trong đó không chỉ
chú ý tới mức ô nhiễm trung bình, tỷ lệ số mẫu đo vượt tiêu chuẩn vệ sinh cho
phép mà còn chú ý tới mức ô nhiễm tối đa (có những thời điểm ô nhiễm cao nhất)
có thể tác động cấp tính trên cộng đồng. Thêm vào đó mức giao động (tối đa, tối
thiểu) cũng cần được chú ý phân tích về quy luật ô nhiễm. Sau cùng, song lại
không kém phần quan trọng, đó là số dân phải tiếp xúc, trong đó có các đối tượng
rất nhạy cảm. Với ví dụ trên cho thấy mức độ nguy cơ ở thành phố B có phần cao
hơn song thành phố A tổng số dân tiếp xúc cũng như các nhóm dễ bị tổn thương
lại nhiều hơn. Rõ ràng là mức đầu tư cho phòng chóng ô nhiễm khí SO
2
ở thành
phố A phải lớn hơn.
Xác định các yếu tố ô nhiễm cũng được phân theo các mức độ khác nhau:
• Mức hộ gia đình hay còn gọi là "vi môi trường", trong đó các nguồn ô

nhiễm từ các công trình vệ sinh, bếp, khói thuốc lá, các hoá chất và cả
các thói quen có hại tới sức khoẻ khác.
• Mức độ cộng đồng hay môi trường địa phương, trong đó các nguồn ô
nhiễm từ giao thông, các công trình công cộng, các cơ sở sản xuất trong
khu vực
• Mức độ ô nhiễm của một vùng lãnh thổ, vùng địa lý, nơi đó có các yếu
tố ô nhiễm từ môi trường thiên nhiên, độ cao, vùng khí hậu.
• Mức độ ô nhiễm trong các cơ sở sản xuất, trong các nghề nghiệp: nông,
lâm, ngư nghiệp, công nghiệp, dịch vụ
Nếu phối hợp với các loại yếu tố ô nhiễm ta sẽ có ma trận hệ thống hoá các
yếu tố ô nhiễm như sau:
Bảng 7 Mẫu ma trận hệ thống hoá các yếu tố ô nhiễm

22
Các loại yếu tố ô nhiễm

Hoá học Lý học Sinh học
Mức hộ gia đình
Mức cộng đồng
Mức khu vực
Ô nhiễm tại các cơ sở sản xuất,
trong các nghề nghiệp


4.2 Đo lường các yếu tố độc hại và đánh giá các nguy cơ cũng như hậu quả lên
sức khoẻ
4.2.1 Đánh giá tiếp xúc với môi trường
Muốn đánh giá mức độ tiếp xúc với môi trường, việc đầu tiên là phải lấy
mẫu. Ở đây có 5 câu hỏi được đặt ra là:
• Cần lấy mẫu trong bao lâu và bao lâu lại lấy mẫu một lần (tần suất lấy

mẫu)?
• Vị trí lấy mẫu ở đâu?
• Yêu cầu về chất lượng số liệu phân tích đến đâu?
• Cần có phương tiện lấy mẫu gì và kỹ thuật nào sử dụng trong phân tích
mẫu?
Nội dung bài này không đưa ra câu trả lời cho các câu hỏi trên đây mà lưu ý
chúng ta các câu hỏi của người quản lý môi trường đặt ra cho các nhà kỹ thuật môi
trường và sẽ được học trong những bài khác.
Có không ít trường hợp không thể đo lường được mức độ tiếp xúc (định
lượng) mà chỉ ước lượng được nguy cơ (định tính). Ví dụ, trong vụ dịch hội chứng
viêm đường hô hấp cấp tính (SARS) năm 2003, khi tác nhân gây bệnh không biết
cụ thể, chỉ qua các xét nghiệm định nhóm vi rút biết được có thể là một loại
corona vi rút và càng không thể định lượng được số vi rút trong một mét khối
không khí. Vì vậy, không có lấy mẫu và phân tích mẫu trong môi trường. Khả
năng duy nhất để xác định nguy cơ là số người đã từng tiếp xúc gần gũi với người
bệnh điển hình (index case).
Mức độ ô nhiễm mà một cộng đồng phải tiếp xúc càng cao quá tiêu chuẩn
tiếp xúc cho phép thì nguy cơ càng nhiều. Thêm vào đó, thời gian tiếp xúc cũng
đóng vai trò rất quyết định. Thời gian tiếp xúc càng dài thì nguy cơ càng cao. Tuy
nhiên, có những yếu tố tác hại gây ảnh hưởng cấp tính hoặc tối cấp tính thì chỉ
trong một thời gian tiếp xúc rất ngắn cũng có thể ảnh hưởng tới sức khoẻ, thậm chí
có thể gây tử vong (ví dụ, tiếp xúc với hơi khí CO).

×