Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

TỔNG QUÁT VĂN MINH, LỊCH SỬ VÀ TÔN GIÁO NƯỚC ẤN ĐỘ·_2 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.54 KB, 6 trang )

TỔNG QUÁT VĂN MINH, LỊCH SỬ VÀ TÔN
GIÁO NƯỚC ẤN ĐỘ

·Ấn Độ từ thế kỷ XIII - XIX

Thời kỳ Xuntan Đêli (1206-1526)Năm 1206, viên Tổng đốc của
Ápganixtan ở miền Bắc Ấn Độ đã tách miền Bắc Ấn Độ thành một
nước riêng tự mình làm Xuntan (vua), đóng đô ở Đêli, gọi là nước
Xutan Đêli (vương quốc Hồi giáo Đêli). Từ đó đến năm 1526, ở miền
Bắc Ấn Độ đã thay đổi đến 5 vương triều, nhưng đều do người ngoại
tộc theo Hồi giáo thành lập, đồng thời đều đóng đô ở Đêli, nên thời
kỳ này gọi là thời kỳ Xuntan Đêli.Thời kỳ Môgôn (1526-1857)Nước
Mông Cổ do thành Cát Tư Hãn thành lập năm 1206. Sau khi thành
Cát Tư Hãn chết (1227), đế quốc Mông Cổ chia thành nhiều nước.
Dòng dõi của người Mông Cổ ở Trung á đều Tuốc hóa và đều theo
đạo Hồi. Từ thế kỷ XIII, người Mông Cổ ở Trung á nhiều lần tấn công
Ấn Độ. Năm 1526, họ chiếm được Đêli, thành lập vương triều mới
gọi là vương triều Môgôn (Mông Cổ). Từ giữa thế kỷ XVIII, thực dân
Anh bắt đầu chinh phục Ấn Độ, đến năm 1849, Ấn Độ hoàn toàn biến
thành thuộc địa của Anh, vương triều Môgôn đến năm 1857 bị diệt
vong.

II - Những thành tựu chính của văn minh Ấn Độ
1. Chữ viết

Chữ viết đầu tiên của Ấn Độ được sáng tạo từ thời văn hóa Harappa.
Tại các di chỉ thuộc nền văn minh lưu vực sông Ấn đã phát hiện được
hơn 3.000 con dấu khắc chữ đồ họa. Suốt nửa thế kỷ từ khi phát hiện
lần đầu tiên vào năm 1921, nhiều tác giả của nhiều nước đã nghiên
cứu cách đọc loại chữ này nhưng chưa thành công. Mãi đến cách đây
vài chục năm, một nhà khảo cổ học Ấn Độ là tiến sĩ S.R. Rao đã khám


phá được sự bí ẩn của loại chữ này.Theo ông Rao, đây là một loại chữ
dùng hình vẽ để ghi âm, ghi vần. Trong số hơn 3000 con dấu ấy có
22 dấu cơ bản. Loại chữ này chủ yếu viết từ phải sang trái. Những
con dấu đã phát hiện được là những con dấu dùng để đóng trên các
kiện hàng để xác nhận hàng hóa và chỉ rõ xuất xứ của những hàng
hóa đó.Đến khoảng thế kỷ V TCN. ở Ấn Độ xuất hiện một loại chữ
khác gọi là chữ Kharosthi. Đây là một loại chữ phỏng theo chữ viết
của vùng Lưỡng Hà. Sau đó lại xuất hiện chữ Brami, một loại chữ
được sử dụng rộng rãi. Các văn bia của Axôca đều viết bằng loại chữ
này. Trên cơ sở chữ Brami, người Ấn Độ lại đặt ra chữ Đêvanagari có
cách viết đơn giản thuật tiện hơn. Đó là thứ chữ mới để viết tiếng
Xanxcrit. Đến nay ở Ấn Độ và Nêpan vẫn dùng loại chữ này.

2. Văn học

Ấn Độ là một nước có nền văn học rất phát triển. Thời cổ đại văn học
Ấn Độ gồm hai bộ phận quan trọng là Vêđa và sử thi.

· Vêđa

Vêđa vốn nghĩa là hiểu biết. Vêđa có 4 tập là Rích Vêđa, Xama Vêđa,
Yagiua Vêđa, và Atácva Vêđa.Ba tập Vêđa trên gồm những bài ca và
những bài cầu nguyện phản ánh tình hình người Arya tràn vào Ấn
Độ, tình hình tan rã của chế độ thị tộc, tình hình cư dân đấu tranh
với thiên nhiên như hạn hán, lũ lụt. Trong đó, Rích Vêđa với 1028
bài thơ là tập quan trọng nhất.Còn Atácva Vêđa chủ yếu bao gồm các
bài chú nhưng nội dung mà tập Vêđa này đề cập đến gồm các mặt
như chế độ đẳng cấp, việc hành quân, chữa bệnh, đánh bạc và cả tình
yêu nữa.Ca ngợi thần sét inđra, Rích Vêđa viết:Tôi muốn ca ngợi sự
tích anh hùng của thần Inđra,Những chiến công của vị thần Thiên Lôi

ấy,Ngài đã chém con ác long cho nước mưa tuôn chảy,Và mở toang
các hang động trên non cao.Nói về uy quyền của đẳng cấp Bàlamôn
khi họ làm cố vấn tôn giáo cho nhà vua, Atácva Vêđa viết:Sắc hơn
lưỡi búa,Sáng hơn ngọn lửa,Vang hơn tiếng sét của Inđra.Cố vấn của
người như thế chính là ta.Trong Atácva Vêđa cũng có những bài thơ
tỏ tình:Như gió lay ngọn cỏ,Anh lay chuyển lòng emRồi em sẽ yêu
anhVà không rời anh nữa.Kế tiếp theo 4 tập Vêđa và có liên quan với
Vêđa còn có các tác phẩm Bramana (Phạn thư), Araniaca (sách rừng
rậm) Ypannisát (sách nghĩa sâu) v.v Những sách này đều viết bằng
văn xuôi, nội dung bao gồm những bài cầu nguyện, thần chú, những
nghi thức cúng bái, những bài thuyết pháp, những lời giải thích triết
lý trong kinh Vêđa chứ về văn học thì không có giá trị gì đáng kể.

·Sử thi

Ấn Độ có hai bộ sử thi rất đồ sộ là Mahabharata và Ramayan. Hai bộ
sử thi này được truyền miệng từ nửa đầu thiên kỷ I TCN rồi được
chép lại bằng khẩu ngữ, đến các thế kỷ đầu công nguyên thì được
dịch ra tiếng Xanxcrit.

A. Mahabharata

Mahabharata có 18 chương và 1 chương bổ sung tài liệu, gồm
220.000 câu. Đây là bộ sử thi dài nhất thế giới, so với cả hai bộ Iliat
và Ôđixê của Hy Lạp cổ đại gộp lại còn dài hơn 8 lần.

Tương truyền rằng người soạn lại bộ sử thi này là Viasa. Chủ đề của
tác phẩm này là cuộc đấu tranh trong nội bộ một dòng họ đế vương
ở miền Bắc Ấn Độ. Bởi vậy tập thơ lấy tên là Mahabharata nghĩa là
"Cuộc chiến tranh giữa con cháu Bharata".Cốt chuyện như sau: Ở

thành phố Haxtinapua có một dòng họ vua chúa gọi là Curu vốn là
con cháu của vua Bharata. Dòng họ này có hai anh em là Đritarattơra
và Panđu. Vì người anh bị mù nên Panđu được làm vua, Đritarattơra
có 100 con trai, gọi chung là anh em Curu; còn Panđu có 5 con trai,
gọi chung là anh em Panđu.Sau khi Panđu chết, anh em Curu và anh
em Panđu chia đôi vương quốc. Nhưng vì muốn chiếm toàn bộ đất
nước, anh em Curu đã thách anh em Pađu đánh bạc. Nhờ gian lận,
anh em Curu thắng liên tiếp. Bị mất hết mọi của cải, anh em Panđu
đặt phần đất nước của mình vào canh bạc nhưng cũng bị thua nốt.
Theo lời giao hẹn, anh em Panđu bị trục xuất và phải trốn tránh
trong 13 năm, không được để phía anh em Curu phát hiện.Hết kỳ
hạn, anh em Panđu trở về yêu cầu anh em Curu trả lại đất đai cho họ,
nhưng bị từ chối, do đó một cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai bên
bùng nổ. Sau 18 ngày đánh nhau dữ dội, hàng trăm triệu người đã bị
tử trận, phe Curu chỉ có 3 người sống sót, cả 100 anh em Curu đều
chết. Phe Panđu tuy thắng lợi nhưng cũng chỉ còn lại 6 người, trong
đó có 5 anh em Panđu.Xoáy vào cốt chuyện ấy, bộ sử thi này đã miêu
tả rất nhiều cảnh khác nhau với những chi tiết ly kỳ như cảnh ăn
chơi xa hoa ở chốn cung đình, những cuộc tình duyên éo le nhưng
chung thủy, những cảnh sinh hoạt trong xã hội lúc bấy giờ và đậm
nét nhất là cảnh chiến đấu anh dũng nhưng vô cùng thảm khốc. Hơn
nữa, cùng với thời gian, những câu chuyện như vậy không ngừng
được bổ sung vào làm cho tác phẩm càng thêm phong phú.

B. Ramayana

Ramayana có VII chương, trong đó chương I và chương VII về sau
mới thêm vào, gồm 48000 câu. Tương truyền rằng tác giả là
Vanmiki. Chủ đề của tác phẩm này là câu chuyện tình duyên giữa
hoàng tử Rama và người vợ chung thủy Sita.Cốt chuyện như sau:

Trong thời Vêđa, vương quốc Côxala được sống trong cảnh thanh
bình dưới sự trị vì của vua Đaxarađa. Người con trưởng của vua là
Rama, một thanh niên thông minh dũng cảm và có đạo đức được vua
chọn làm thái tử nối ngôi.Gần đó có một vương quốc khác, là Viđêha,
dân chúng cũng được an cư lạc nghiệp dưới quyền thống trị của vua
Gianắc. Bản thân vua cũng cầm cày cày ruộng. Một hôm nhà vua
đang cày, bỗng thấy từ luống cày hiện lên một thiếu nữ xinh đẹp.
Nhà vua đêm về nuôi, đặt tên là Sita và coi như con. Khi Sita đến tuổi
lấy chồng, nhà vua tổ chức một cuộc thi bắn cung để kén phò mã.
Nhiều thanh niên tham dự cuộc thi, nhưng chỉ có Rama giương nổi
cây cung của nhà vua. Rama được kết hôn với công chúa Sita.Nhưng
một ái phi của vua Đaxarata vì ghen với hoàng hậu có con trai là
Rama được làm thái tử nối ngôi nên yêu cầu vua đày Rama ra khỏi
đất nước 14 năm.Rama cùng Sita đến sống ở trong rừng.

×