Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, chụp cắt lớp vi tính đối chiếu với phẫu thuật của ung thư hạ họng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.52 MB, 105 trang )



1
Đặt vấn đề

Ung thư hạ họng là một u ác tính xuất phát từ lớp biểu mô Malpighi của
niêm mạc bao phủ hạ họng. Ung thư vùng hạ họng và thanh quản chiếm
khoảng 5 - 6 % trong tổng số các loại ung thư nói chung và đứng thứ hai trong
các ung thư vùng đầu mặt cổ sau ung thư vòm họng [1]. Theo Xue - ying Deng
ung thư hạ họng chiếm khoảng 20% trong các ung thư đường hô hÊp và tiêu
hoá trên [62]. Ở Pháp ung thư hạ họng chiếm khoảng 12,15% tổng số các ung
thư của đường ăn, đường thở trên và chiếm 1% trong tổng số các loại ung thư
[14]. Ở Mỹ ung thư hạ họng chiếm khoảng 5 - 10% trong tổng số các ung thư
đường tiêu hoá trên, khoảng 0,5% trong tổng số các khối u ác tính, khoảng 24%
các trường hợp vùng hạ họng, thanh quản, hàng năm số ca mắc mới là
1,22/100.000 nam giới [22][46][43]. Ở Anh, sè ca mắc mới là 1/100.000 nam
giới [62].
Ở Việt Nam, cũng như một số nước ( Pháp, Mỹ, Trung Quốc ) ung thư
hạ họng gặp ở nam nhiều hơn ở nữ, tỷ lệ nam/ nữ là 5/1. Nhóm tuổi hay gặp
nhất là khoảng 40 - 60 tuổi [17], [43]. Các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng tới việc
hình thành ung thư hạ họng bao gồm: nghiện rượu, hút thuốc lá, các viêm
nhiễm mạn tính vùng hạ họng. Và gần đây đã phát hiện ung thư vùng hạ họng
có liên quan chặt chẽ với hội chứng trào ngược dạ dày- thực quản [17],
[43][46][51].
Chẩn đoán ung thư hạ họng dựa vào: chẩn đoán lâm sàng, chẩn đoán
mô bệnh học, đặc biệt là nội soi phóng đại, chẩn đoán hình ảnh - CLVT, chẩn
đoán giai đoạn TNM (Khối u, di căn hạch, di căn xa). Điều trị bệnh chủ yếu là
phẫu thuật, xạ trị, hoá trị, nhưng tiên lượng xấu bởi hầu hết các bệnh nhân đều
đến ở giai đoạn muộn. Phát hiện sớm ung thư hạ họng vẫn còn rất khó khăn,
do các triệu chứng lâm sàng ở giai đoạn đầu thường kín đáo, cấu trúc giải



2
phẫu ở sâu đòi hỏi phải có phương tiện thăm khám chuyên sâu. Việc chẩn
đoán dễ nhầm với một viêm nhiễm mạn tính tại vùng họng và hạ họng.
Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều phương
pháp mới đã được sử dụng trong chẩn đoán. Cắt lớp vi tính cho thấy chính
xác vị trí, kích thước, sự lan rộng của u. Đặc biệt là với việc thăm khám bằng
nội soi phóng đại, soi trực tiếp với nguồn sáng lạnh cho phép đánh giá chính
xác tình trạng tổn thương bề mặt của tổn thương hạ họng. Bên cạnh nội soi thì
chụp cắt lớp vi tính cho phép chúng ta đánh giá những tổn thương lan vào các
cấu trúc sâu hơn, trong điều trị và tiên lượng bệnh.
Hạch cổ trong ung thư hạ họng thường xuất hiện sớm, đồng thời cũng
là một trong những dấu hiệu quan trọng trong chẩn đoán và tiên lượng ung
thư hạ họng. Khám lâm sàng khi thấy hạch cổ nghĩa là bệnh đã không còn ở
giai đoạn sớm. Các yếu tố như: kích thước, số lượng, vị trí so với u nguyên
phát, thời điểm xuất hiện hạch có ý nghĩa quan trọng trong việc điều trị, đánh
giá, tiên lượng của bệnh. Trong đó cắt lớp vi tính đóng một vai trò rất lớn để
điều trị hạch cổ di căn trong ung thư hạ họng [22][26],[36][43],[49][.
Việc đánh giá mối liên quan giữa hình ảnh tổn thương trên lâm sàng,
nội soi và chụp cắt lớp vi tính đóng mét vai trò quan trọng trong hoạch định
chiến lược điều trị và tiên lượng bệnh. Nhưng từ trước đến nay chưa có một
nghiên cứu đầy đủ nào về vấn đề này. Vì vậy chúng tôi tiến hành làm đề tài:
"Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, chụp cắt lớp vi tính - đối chiếu với phẫu
thuật của ung thư hạ họng" với các mục tiêu sau:
1. Mô tả các đặc điểm lâm sàng, tổn thương thực thể qua nội soi và
chôp cắt lớp vi tính.
2. Đối chiếu đặc điểm lâm sàng, tổn thương thực thể với chụp cắt lớp vi
tính và phẫu thuật.




3
Chương 1
Tổng quan tài liệu
1.1. Lịch sử nghiên cứu
Vào những thập niên đầu của thế kỷ XX Isamber và Klishaber đã bắt
đầu phân loại khối u ở bên trong và bên ngoài của thanh quản [26][43][46].
Năm 1878, Cheever người đầu tiên thực hiện phẫu thuật mở họng
đường bên kết hợp với việc cắt xương hàm dưới lấy u vùng hạ họng [46].
Năm 1901, Most mô tả hệ thống bạch huyết vùng họng là cơ sở cho việc
nạo vét hạch cổ trong các ung thư vùng đầu cổ (vùng hạ họng và thanh quản) [19].
Năm1904, Sebileau phát triển kỹ thuật mở họng phía sau bên sụn giáp lấy u
để điều trị ung thư hạ họng [46].
Năm 1906, lần đầu tiên thực hiện việc lấy bỏ hạch bạch huyết vùng cổ
cả khối trong ung thư di căn hạch cổ được Crile mô tả. Việc thực hiện phẫu
thuật này được biết như là một phẫu thuật nạo vét hạch cổ tiệt căn [15].
Năm 1913, Trotter phát triển thêm một bước kỹ thuật mở họng đường
bên lấy u vùng hạ họng [26][46].
Năm 1960 Ogura và cộng sự đưa ra kết luận rằng các khối u ở vùng hạ
họng tuy nhỏ nhưng cũng phải cắt bỏ rộng rãi do tính chất xâm lấn của u
[42][46].
Năm 1962, Andre, Pinel, Laccourreye mô tả kỹ thuật cắt thanh quản -
hạ họng bán phần phía trên sụn nhẫn để điều trị ung thư hạ họng [43][46].
Năm 1965 Mallen báo cáo kết quả sống 5 năm ở những bệnh nhân ung
thư hạ họng được điều trị bằng phẫu thuật bảo tồn [30]. Ogura phát triển thêm
kỹ thuật cắt thanh quản - hạ họng bán phần mở rộng [43][46].
Năm 1992 Kirchner và Owen đánh giá kết quả vị trí thường gặp và giai
đoạn T của bệnh nhân ung thư hạ họng [26].



4
Năm 1996 Laccourreye và cộng sự đánh giá kết quả phẫu thuật của 167
bệnh nhân ung thư xoang lê [26].
Về ứng dụng X- quang trong chẩn doán hình ảnh. Năm 1895 khi
Roentgen phát hiện tia X, nó đã được áp dụng vào chẩn đoán bệnh lý thanh
quản- hạ họng [43][53].
Năm 1973, Godfrey. M. Hounsfild người Anh, Allan Mc Lead
Carmack người Mỹ phát minh ra máy chụp CLVT và được trao giải thưởng
Nobel về y học năm 1979 .cho những phát minh của mình được áp dụng trong
y học.
Từ đó đến nay, cắt lớp vi tính được ứng dụng rộng rãi trong y học. Kỹ
thuật và chất lượng được cải tiến từng ngày và được áp dụng trong chụp vùng
đầu cổ. Nhiều công trình nghiên cứu bệnh lý tổn thương ung thư hạ họng và
ung thư thanh quản trên cắt lớp vi tính được công bố.
Năm 1984 Archer đã cho ra bảng phân loại ung thư hạ họng- thanh
quản trên chụp CLVT.
Năm 2002 Hugh D. Curtin và cộng sự đã nghiên cứu khá chi tiết khi sử
dụng các lớp cắt và sự tái tạo các bình diện khác nhau để đánh giá tổn thương
hạ họng- thanh quản [43].
Năm 2009 Xue-ying Deng và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu đánh giá
sự xâm lấn vùng của ung thư hạ họng dựa vào CLVT trên 65 trường hợp [62].
Từ đó đến nay có rất nhiều các công trình nghiên cứu về ung thư hạ
họng, nhiều phương tiện được áp dụng trong chẩn đoán cũng như các phương
pháp điều trị mới được áp dụng đã đem lại hiệu quả trong việc điều trị ung thư
hạ họng.
Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về ung thư hạ họng-
thanh quản. Khởi đầu phải kể đến Trần Hữu Tước, rồi đến Trần Hữu Tuân đã
mở đầu cho các phẫu thuật vùng hạ họng. Trong những năm gần đây khoa ung
bướu B1 viện Tai - Mòi - Họng trung ương có một số bài tổng kết về lĩnh vực
này.



5
Năm 1999 Nguyễn Đình Phúc và cộng sự nghiên cứu “Đặc điểm lâm
sàng của ung thư thanh quản và hạ họng- thanh quản qua 132 bệnh nhân tại
khoa B1 viện TMH trung ương từ 1995 -1998” [8].
Năm 2003 Lê Anh Tuấn Nghiên cứu về “Hình thái lâm sàng và mô
bệnh học của hạch cổ trong ung thư thanh quản và hạ họng” [16]
Năm 2005 Nguyễn Đình Phúc và cộng sự nghiên cứu “Đặc điểm lâm
sàng và kết quả điều trị phẫu thuật của ung thư thanh quản- hạ họng tại khoa
ung bướu bệnh viện TMH trung ương từ 2000 - 2004” [9].
Năm 2009 Nguyễn Đình Phúc nghiên cứu “Ung thư thanh quản và hạ
họng tổng kết 1030 bệnh nhân của 54 năm từ 1955- 2008 tại bệnh viện TMH
trung ương” [10].
Cho đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu nào về ứng dụng của chụp cắt
lớp vi tính để đánh giá về lan tràn tổn thương thực thể của ung thư hạ họng.
1.2. Giải phẫu ứng dụng trong ung thư hạ họng [6] [7] [14] [17] [19] [26]
[28] [37] [43] [46] [51].
Hạ họng nằm ở tầng dưới cùng của họng, là ngã tư của đường hô hấp
và tiêu hoá. Hạ họng ở giữa thanh quản và cột sống, về chiều cao nó đi từ bờ
trên của xương móng, nếp thanh thiệt tương ứng với bờ dưới đốt sống cổ 3
đển bờ trên của sụn nhẫn tương ứng với đốt sống cổ 6.
Hạ họng được chia thành ba vùng giải phẫu: phía trước là vùng sau
nhẫn phễu, phía sau là thành sau họng (cũng là phần mềm phủ mặt trước các
đốt sống từ cổ 4 đến cổ 6), hai bên là máng họng - thanh quản và xoang lê.









6

Hình 1.1. Giải phẫu họng
1. Vòm mũi họng; 2. Họng miệng; 3.
Họng thanh quản (hạ họng); 4. Mặt
trước của họng miệng (ảnh ảo) [14]
Hình 1.2. Hạ họng (nhìn từ phía
sau) [22]

1.2.1. Máng họng thanh quản


Hình 1.3. Rãnh họng - thanh quản (xoang lê) nhìn mặt sau [6]
Giới hạn: Đi từ đầu trên của hạ họng - ngang tầm vùng trên xương
móng đến miệng thực quản. Gồm hai phần:
- Phần dưới của máng họng thanh quản, còn có tên là tầng sụn, chiếm
1/3 dưới của xoang lê. Đây là một cái nghách hẹp nằm giữa hai thành sụn,
thành bên ngoài là sụn giáp, thành bên trong là sụn nhẫn, ung thư ở đây thuộc
loại biểu mô rất biệt hoá có tính chất thâm nhiễm Ýt nhậy cảm với tia xạ.
- Phần trên của máng họng thanh quản còn có tên là tầng màng. Thành
trong của máng là nẹp phễu thanh thiệt, thành ngoài là màng giáp móng. Ung
thư ở đây thường xuất phát từ góc trước của máng hoặc ở thành trong của
máng (tức là mặt ngoài của nẹp phễu thanh thiệt) hoặc từ thành ngoài của
máng. Ung thư ở đây thường là thể sùi [14].
- Nó có các cấu trúc và liên quan quan trọng sau :



7
+ Ở thành trước có các cấu trúc ở bờ (lề) của lối vào thanh quản và mặt
sau của thanh quản.
+ Ở thành bên có cơ khít họng dưói và xoang quả lê. Xoang này có
được giới hạn ở giữa bởi nếp phễu - thanh thiệt và ở phía bên bởi mặt trong
của sụn giáp và màng giáp - móng
+ Liên quan trực tiếp với hạ họng ở mức thanh quản gồm có động
mạnh cảnh chung, tĩnh mạch cảnh trong va dây thần kinh X, còn liên quan
của thành sau hạ họng ngoài cơ khít họng còn có gân trước cột sống và thân
của các đốt sống cổ từ C3 đến C6.
- Biểu mô lót là biểu mô vảy xếp lớp không sừng hoá [5].
1.2.2. Xoang lê
Ung thư hạ họng có tới 80- 85% [17][19][26][28][35][43][46] là xuất
phát từ xoang lê. Do vậy chúng tôi sẽ mô tả chi tiết hơn về giải phẫu vùng
xoang lê và các cấu trúc liên quan.
Định nghĩa:[19] Xoang lê liên tiếp với máng bên họng miệng, hạ họng
thanh quản, là một vùng hõm xuống do niêm mạc ở khoảng hạ họng chũng
xuống tạo thành, xoang lê ở kèm hai bên của hệ thống thanh quản.
Đây là một vùng khó phân giới hạn, xoang lê nằm ở khoảng giữa của
máng họng thanh quản, máng này đi từ đáy lưỡi đến miệng thực quản.
Xoang lê có giới hạn như sau:
Ở trên, giới hạn là bờ dưới của nếp họng - thanh thiệt, nếp này đi từ mặt
bên của họng đến bờ ngoài của thanh thiệt, vào khoảng gặp nhau của hai phần
ba trên và phần ba dưới của bờ ngoài thanh thiệt.
Ở dưới, giới hạn là bờ dưới của nếp nhẫn - họng Betz đi từ mặt bên của
họng (về phía dưới) cho đến bờ ngoài sụn nhẫn: nếp này nhìn rõ nhiều hay Ýt
tuỳ theo từng độ phát triển của các bờ dưới niêm mạc.
Nói chung, giới hạn của xoang lê có thể rõ rệt nhiều hay Ýt mà có khi
rất khó định một giới hạn thật chính xác. Ngoài ra, hai xoang lê phải và trái
không giống nhau hoàn toàn, thường một bên to, bên nhỏ (thường bên trái to

và rõ hơn)


8
Kích thước xoang lê: Là hai khoảng rỗng hình quả lê vòng khung ở hai
bên thanh quản, đầu dưới nhỏ như một ống, đầu trên mở thông với họng miệng.
Xoang lê có hình tháp tam giác:
Đỉnh ở phía dưới bị cắt cụt.
Đáy hướng lên trên mở rộng.
Mặt sau mở ra phía sau thông với hạ họng và miệng thực quản.
KÝch thước trung bình:
Chiều cao: - 2,5 - 3 cm ở nam
- 2,2 - 2,5cm ở nữ.
Chiều rộng: - Phía cao tương ứng với xương móng 11- 15mm
- Phía thấp tương ứng với nếp Betz 1- 1,5cm
Chiều sâu: - 2,5- 2,7cm tính từ bờ trên sụn giáp đi xuống.
- 0,5- 0,6cm ở nếp Betz.
Xoang lê được mô tả gồm:
Các thành : - Thành ngoài
- Thành trong
Một bờ trước: Là góc hợp bởi hai thành trong và ngoài.
Một giới hạn trên với đáy lưỡi: Rộng, hình tam giác, là một khoang ảo
nối với đáy lưỡi
Mét giới hạn dưới: Hẹp hơn nhiều, đè vào phía lòng miệng thực quản.
Chia hai tầng:
- Tầng trên(tầng màng): Rộng, co giãn. Liên quan đến khoang mãng -
giáp - thanh thiệt và màng giáp móng ở phía trước.
- Tầng dưới (tầng sụn): Hẹp, dài, Ýt co giãn vì dựa vào các mô sụn (sụn
giáp, sụn thanh quản). Là vùng nằm giữa cánh sụn giáp ở ngoài và sụn phễu,
sụn nhẫn ở trong. Phần này sẽ hẹp dần từ cao xuống thấp để liên tiếp với

miệng thực quản.
Cấu trúc: các thành của xoang lê được phủ bởi niêm mạc, chúng dính
vào các các mô xơ, sụn với các mức độ khác nhau.
1.2.2.1. Thành ngoài:


9
Hình thang có bốn bờ: Trước, trên, dưới, sau.
Bờ trước: Hơi chếch xuống dưới và ra sau, bờ này hợp với bờ trước của
thành trong xoang lê tạo nên góc trước của xoang lê.
Bờ trên: Không thẳng, hơi lõm xuống dưới và ra sau, gồm có hai đoạn:
- Đoạn trước: chiếm một phần ba trước của bờ trên, tương ứng với bê
dưới của nẹp họng thanh thiệt.
- Đoạn sau: Hầu như thẳng, chiếm hai phần ba sau của bờ trên, hơi
chếch xuống dưới và ra trước, tương ứng với nửa sau của sừng lớn xương
móng, bờ trên đo trung bình được 15 - 20 mm.
Bờ dưới: Đo khoảng 5 - 7 mm, chếch ra trước và vào trong, tương ứng
với đáy của xoang lê.
Bê sau: Là bờ dài nhất, từ 2,5 - 3cm chiếm toàn bộ chiều cao của xoang
lê. Có thể phân biệt được hai phần:
- Đoạn trên: Ngắn, chiếm 1/5 chiều cao toàn bộ, tương ứng với bờ sau
của dây chằng giáp bên, dây chằng này giới hạn ở phía sau có màng giáp
móng. Ngoài ra đoạn ngắn của bờ sau mặt ngoài xoang lê còn tương ứng với
sừng lớn của sụn giáp.
- Đoạn dưới: Dài hơn, gồm 4/5 chiều cao toàn bộ của xoang lê, tương
ứng với bờ sau của cánh sụn giáp
Hướng của thành ngoài:Thành này hơi chếch ra trước, vào trong, toàn
bộ hơi lõm vào trong. Ngoài ra thành này có hướng chếch xuống dưới, vào
trong đi từ trên xuống dưới.
Liên quan trực tiếp: Tất cả thành ngoài của xoang lê được cấu tạo bởi

niêm mạc, nó tạo thành phần chủ yếu của máng bên sau hạ họng. Từ sâu ra
nông của thành này là niêm mạc che phủ rồi đến:
- Mô liên kết lỏng lẻo sát vào niêm mạc, có thể bóc tách dễ dàng ở mọi
điểm, chính nhờ có mô dưới niêm mạc này mà người ta có thể tận dụng tối đa
niêm mạc các thành của xoang lê khi bóc tách trong phẫu thuật.
- Tiếp đến là một lớp cơ rất mỏng gồm các sợi cơ của cơ xiết họng (giữa,
dưới). Các sợi này rất lỏng lẻo và thưa, phân bố không đều ở dưới niêm mạc.


10
- Ở phía ngoài nữa, qua lớp cơ sẽ đến bộ khung, coi như giá đỡ cho
thành ngoài đó là:
+ Phần trên của khung này là màng giáp móng.
+ Phần dưới của khung là cánh sụn giáp, phần rộng của sụn giáp. Ở nửa
sau, liên quan đặc biệt với 2/3 trên của cánh giáp. Tại nơi này, ở thành ngoài
có những liên quan quan trọng về mặt giải phẫu, phẫu thuật, sinh lý: đó là các
liên quan mạch máu, thần kinh. Cuống mạch thần kinh thanh quản trên, nó đi
từ ngoài vào thanh quản xuyên qua màng móng giáp, ở vị trí tương ứng giữa
1/3 ngoài của màng này. Nhiều khi, dây thần kinh thanh quản trên đội niêm
mạc của thành ngoài xoang lê, tạo nên một cung chếch ra trước vào trong,
cung này nhìn thấy rất rõ và tạo nên nếp thanh quản Hyrth, trong nếp này có:
Ở phía trên là động mạch thanh quản trên và các tĩnh mạch đi kèm. Ở phía
dưới là dây thần kinh thanh quản trên.
1.2.2.2. Thành trong
Thành trong xoang lê được coi như là một hình trám hướng chếch
xuống dưới và ra sau, tạo lên bởi hai hình tam giác có chung một đáy. Thành
này chính là mặt ngoài của vùng nẹp phễu thanh thiệt. Xuyên qua thành trong
là vào thanh quản. Thành trong được chia ra:
* Diện trên:
Hầu nh- thẳng đứng và hơi lồi ở mọi hướng. Bờ trước, hợp với bờ

trước của thành ngoài, để tạo lên góc trước của xoang lê. Bờ sau, chếch xuống
dưới ra sau, tương ứng với nếp phễu thanh thiệt. Bờ sau-dưới, ảo, nối liền hai
đầu của hai bờ trước và sau, tương ứng với góc sau trong của xoang lê.
* Diện dưới:
Hơi chếch xuống dưới và ra ngoài, hẹp hơn tam giác trên, các bờ của
tam giác dưới không rõ bằng tam giác trên. Các bờ trước dưới thì rất giới hạn
và lẫn hoàn toàn với đáy của xoang lê. Bờ sau tương ứng với bờ trước của sụn
phễu, phần trên của bản nhẫn. Bề rộng trung bình ở phần trên từ 13 -17mm, ở
phần dưới bề rộng giảm dần chỉ còn 8 - 12mm.


11
Nếu ta so sánh diện của hai thành trong và ngoài của xoang lê thì thành
trong hẹp hơn cả về diện tích và bề ngang.
* Liên quan ở diện tam giác trên từ nông vào sâu:
- Niêm mạc xoang lê.
- Mô liên kết Ýt lỏng lẻo hơn ở thành ngoài, điều đó cần chú ý khi bóc
tách niêm mạc.
Các bó của cơ giáp phễu toả ra từ trước ra sau, từ ngoài vào trong, từ
trên xuống dưới
Các bó của nếp phễu thanh thiệt, có cùng một hướng với các bó trên,
nhưng cao hơn và ở phía trong hơn
Màng đàn hồi của thanh quản, khung thanh quản, có bờ trên tạo nên
nếp phễu thanh thiệt.
* Liên quan ở diện tam giác dưới từ nông vào sâu: Các liên quan hoàn toàn
là cơ và sụn.
- Niêm mạc đáy xoang lê (dính chắc vào thành ngoài thanh quản).
- Lớp dưới niêm mạc là mô liên kết khá chắc ở từng chỗ, nhìn chung thì
Ýt lỏng lẻo hơn ở nơi khác, bóc tách khó khăn hơn.
- Các sợi tận cùng của cơ giáp phÔu, nhẫn phễu bên có xu hướng chếch

từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, từ sau ra trước, sợi khá mảnh, khá dính
vào niêm mạc xoang lê.
- Phần tư trên của bản nhẫn.
- Khớp nhẫn phễu.
- Mặt trước ngoài và bờ ngoài của sụn phễu.
- Các phân nhánh của thần kinh thanh quản trên, nhánh trước của dây
quặt ngược, quai Galien, các mạch máu thần kinh của thành trong xoang lê
(thành ngoài thanh quản). Các nhánh của dây thần kinh thanh quản trên, sau
khi chui qua màng giáp móng (tạo nên phần trên của thành ngoài xoang lê) thì
toả ra ở thành trong của xoang lê, ngay dưới bề dầy của niêm mạc hạ họng,
các nhánh này chi phối tầng trên, tiền đình thanh quản. ở phần thật trước của
thành trong của xoang lê, có các nhánh trước của dây hồi quy chi phối các cơ


12
nhẫn phễu bên và giáp phễu. Ngoài ra, ở phần trước diện tam giác dưới của
thành trong xoang lê thấy có quai Galien tạo lên chỗ nối giữa các nhánh tận
của dây hồi quy và dây thần kinh thanh quản trên. Gần quai Galien, nhiều khi
ở diện tam giác dưới của thành trong xoang lê, có sự tiếp nối giữa các động
mạch thanh quản trên và dưới của thành trong xoang lê (phần ở gần ngay đáy
xoang lê) có nhiều mạch máu và thần kinh làm trở ngại việc bóc tách.
1.2.2.3. Giới hạn trên:
Mốc đánh dấu họng miệng chuyển sang hạ họng, coi như hình chữ V mở
một góc về phía sau, đỉnh V là một góc rất nhọn, khoảng10
o
, chếch ra trước vào
trong, về phía đường giữa. Hai nhánh của chữ V không ở trên cùng một bình
diện, nhánh ngoài thì hơi ngang, coi như một đường là đầu trên của thành ngoài
xoang lê, nhánh trong hơi chếch theo nếp phễu - thanh thiệt (30 - 45
o

).
Giới hạn trên liên quan theo thứ tự từ ngoài vào trong:
- Thành trong của nửa sau của sừng lớn xương móng.
- Bờ dưới của nếp họng thanh thiệt, chếch xuống dưới, ra trước, ra ngoài.
- Góc trước của chữ V liên quan đến chỗ tiếp nối của các dây chằng
họng - thanh thiệt và phễu - thanh thiệt.
- NÕp phễu thanh thiệt, chếch ra sau, vào trong, xuống dưới
1.2.2.4. Giới hạn dưới:
Khó phân biệt, hẹp hơn nhiều so với giới hạn trên, được nhận định bởi
nếp Betz. Nếp này có đường đi khá phức tạp. Bắt đầu chếch xuống dưới và ra
ngoài, bắt chéo liên tiếp phần dưới của khoang liên phễu, góc sau bên của bản
nhẫn. Tiếp tục theo hướng chếch lên trên, ra ngoài, tận cùng ở bờ trên của cánh
giáp. Trong trường hợp không có nếp Betz, giới hạn dưới của xoang lê liên tiếp
với rãnh liên nhẫn giáp, để tận cùng ở đường mở vào miệng thực quản.
1.2.2.5. Liên quan xa
Xoang lê liên quan với các cơ quan lân cận, đặc biệt phía trong là
thanh quản, phía ngoài vùng cổ trước bên, phía sau vùng trước cột sống.
* Liên quan với thanh quản:


13








Hình 1.4: Xoang lê: Các liên quan của xoang lê với thanh quản [6].

Xoang lê, qua trung gian của màng đàn hồi, liên quan ở phía trong với
thanh quản. Tuy nhiên, một cách chính xác hơn, cần phải nhận xét rằng chỉ
riêng có nửa sau của thanh quản là có liên quan trực tiếp và mật thiết với
xoang lê. Xoang lê có hình phễu mở lên trên, chia làm ba đoạn liên quan phần
riêng biệt của thanh quản.
- 1/3 trên của xoang lê: liên quan với tiền đình thanh quản, mặt trên
băng thanh thất, đây là phần rộng nhất, loe nhất.
- 1/3 giữa xoang lê: Liên quan phần dưới băng thanh thất, phần trên
buồng Morgaghi.
- 1/3 dưới xoang lê: liên quan với bản nhẫn phễu, buồng Morgagni, dây thanh.
Các liên quan theo chiều cao của xoang lê với các yếu tố của thanh
quản cắt nghĩa phần nào cách thức lan toả các khối u từ xoang lê vào thanh
quản và ngược lại. Khối u thành trong xoang lê ảnh hưởng sớm, nhanh và rõ
dệt tới chức năng của thanh quản (nói, thở), ở thành ngoài thì chậm hơn.
* Liên quan với vùng trước bên cổ:








14


Hình1.5. Xoang lê: Các liên quan
đến thành bên cổ [6]
Hình 1.6. Xoang lê: Hình chiếu mặt
ngoài của xoang lê [6]


Xoang lê, liên quan qua trung gian của thành ngoài với các yếu tố khác
nhau của vùng trước bên cổ. Từ nông vào sâu
- Da, tổ chức dưới da, cơ bám da cổ.
- Thành ngoài của xoang lê chiếu ra bên ngoài thành một hình vuông giới
hạn như sau: phía trên là một đường ngang chạy 3.5 cm ở dưới góc hàm. Phía
dưới là một đường song song, cách 3,5 cm ở phía dưới. Phía trước là một đường
thẳng góc với hai đường trên, cách đường giữa 3,5 cm. Phía sau là một đường
thẳng góc tương tự, đi qua đầu sau của sừng lớn xương mãng.
- Cân cổ nông, bao quanh cơ ức đòn chũm.
- Lớp cơ dưới móng nằm trong cân cổ giữa
* Liên quan trực tiếp ở phía ngoài xoang lê
- Ở tầng màng của xoang lê: Đó là khoảng giáp móng bên Poivier,
giới hạn bởi:
+ Phía ngoài: Màng giáp móng
+ Phía trên: Sừng lớn xương móng
+ Phía dưới: Bờ trên sụn giáp
+ Phía trước: Cơ giáp móng
Trong khoảng Poivier có cuống thanh quản trên, từ trên xuống là: Động
mạch thanh quản trên, tĩnh mạch thanh quản trên, thần kinh thanh quản trên.
- Ở tầng sụn của xoang lê: Có liên quan với các thành phần sau: Cơ
giáp móng, ức móng, sợi tận cùng lan toả của cơ siết họng dưới, dây thần kinh
thanh quản ngoài, động mạch thanh quản ngoài.
* Liên quan ở phía trong và phía sau của xoang lê: Có các liên quan chính sau:


15
- Bình diện tĩnh mạch :Tĩnh mạch cảnh trong, tiếp nhận ở phía sau thân
giáp- lưỡi - mặt nó tương ứng với tầng màng của xoang lê
- Dãy hạch cảnh trong, với các hạch cảnh ngoài và trước.

- Bình diện động mạch: Ngay phía dưới bình diện tĩnh mạch là động
mạch cảnh gốc (phía sau, ngoài của tầng sụn của xoang lê), động mạch giáp
trên (vắt chéo xoang lê từ trên xuống dưới, ra trước).
- Bình diện thần kinh: Dây thần kinh của cơ giáp - mãng (Tách từ dây
XII), dây thần kinh thanh quản trên (sâu hơn, đi qua phần màng của thành
ngoài xoang lê).
* Liên quan với các vùng phía sau cổ

Hình 1.7. Giải phẫu họng.
9. Xương móng 10. Thanh thiệt 11. Sụn giáp 12. Thanh đới 13. Khí quản 14.
Xoang bướm 18. Amyđan 23. Sụn nhẫn 24. Đốt sống cổ 6 (ngang tầm miệng
thực quản) [14].
- Phía sau và phía ngoài: Màng hầu bao quanh bê sau của thân giáp
tạo một khe dọc.
- Phía sau và phía trong: Bê sau dưới xoang lê liên quan từ trên
xuống, thành liên phễu, thành sau nhẫn.
Do thành ngoài xoang lê có liên quan tới các sụn giáp, thành trong
chính là tường họng thanh quản.
* Ở phía xa, xoang lê mở rộng vào hạ họng


16
- Qua trung gian của thành họng sau, nã liên quan với bình diện trước cột
sống, với nó, họng được nối liền bởi hai cánh nhỏ Charpy.
- Nhìn chung xoang lê liên quan với các đốt sống cổ 4, 5, 6.
1.2.2.6. Niêm mạc, mạch máu và thần kinh

Hình 1.8. Xoang lê: Các cuống mạch máu - thần kinh (nhìn mặt ngoài) [6].
* Niêm mạc
- Xoang lê được phủ một lớp niêm mạc tiêu hoá, cấu tạo bởi biểu mô

lát tầng Manpighi. Ở phía sau, niêm mạc phủ các cơ trước sống, niêm mạc
mang tính chất giống ở họng mũi. Ở phía trước tương ứng với thanh quản,
niêm mạc phủ xoang lê, niêm mạc có hình thái khác, niêm mạc ở vùng này có
hình máng hẹp và gần thẳng đứng, toả ra từ mỗi bên của ống thanh quản, tự
gấp lại theo nhiều hướng giống như một cái màng rộng hơn là bình diện trên
đó nó dính vào, và chỉ dính vào bình diện đó bởi một mô tế bào rất lỏng lẻo
(Sappey)
- Niêm mạc dính vào hai thành của xoang lê khác nhau.
+ Thành ngoài, thành giáp trạng của xoang lê. Bình diện ở dưới thì khá
chắc, ở trên cao là màng giáp trạng, dưới thấp là cánh sụn giáp dễ bóc tách.
+ Thành trong của xoang lê niêm mạc dính chắc hơn vào các bao rất
mỏng của các cơ thanh quản.
- Niêm mạc của xoang lê (thành thanh quản) có sự bám dính chắc hơn
vào các bao rất mỏng của các cơ thanh quản, khó bóc tách.


17
- Có sù bao phủ khác nhau rõ rệt ở thành trong với thành ngoài, mặc dù
cấu trúc có sự thống nhất.
Niêm mạc xoang lê có cấu trúc gồm có hai lớp: lớp biểu mô và lớp đệm.
* Cấu tróc
- Lớp biểu mô: Niêm mạc phủ xoang lê vẫn mang tính chất của niêm
mạc miệng là biểu mô lát, loại Manpighi.
- Lớp đệm: Cấu tạo tương tự nh- niêm mạc miệng. Bề mặt nhẵn có
nhiều gai đơn hoặc kép.
+ Gồm các sợi của mô liên kết, các sợi đàn hồi, các nang kín.
- Tuyến ở họng
+ Niêm mạc xoang lê chứa các tuyến hình chùm kích thước nhỏ có
hình cầu hay hình tấm.
+ Các tuyến ở các mức độ sâu khác nhau của niêm mạc.

+ Thường là các tuyến hỗn hợp, vừa mang yếu tố của niêm mạc vừa
mang yếu tố của thanh mạc, thỉnh thoảng có tuyến mang tính chất thanh mạc
hoàn toàn. Các chất tiết theo các ống tuyến đổ lên bề mặt niêm mạc
* Mạch máu
- Xoang lê được cấp máu bởi các động mạch:
+ Động mạch thanh quản trên.
+ Động mạch thanh quản dưới.
+ Động mạch thanh quản ngoài.
* Thần kinh
- Xoang lê được chi phối bởi hai hệ thống thần kinh (hệ não tuỷ, hệ
giao cảm)
- Hệ não tuỷ:
+ Có dây thần kinh thanh quản trên, tách từ phần dưới và trong của
hạch đám rối. Nã cho các nhánh trên và dưới.
+ Dây thần kinh hồi quy (quặt ngược) gồm có dây hồi quy phải và trái
tách từ dây thần kinh sè X.
- Hệ giao cảm đi từ các hạch giao cảm cổ


18
1.2.2.7. Bạch mạch
Các bạch mạch ở thành hạ họng được chia làm hai hệ thống: hệ thống
cơ và niêm mạc.
* Hệ thống cơ: Chạy trong lớp cơ đan được Sappey nghiên cứu và mô
tả, song còn nhiều điều chưa biết rõ.
* Hệ thống niêm mạc: Quan trọng, rải ra trong các lớp nông nhất của
tầng đệm, có mặt ở khắp nơi của niêm mạc, và phát triển trong những vùng có
các mô hạnh nhân.
- Bạch mạch trong hệ niêm mạc liên quan với các vùng lân cận khác
nhau. Phía trước với hệ thống hốc mũi, miệng, thanh quản. Hai bên cạnh với

hệ thống của thực quản.
- Các thân lớn nhỏ bắt nguồn từ hai hệ thống kể trên tách khỏi họng ở
ba điểm:
+ Phía sau, trên: Các bạch mạch sau.
+ Hai bên: Bạch mạch bên.
+ Phía trứơc dưới: Bạch mạch trước và dưới.
- Bạch mạch của xoang lê đổ vào các bạch mạch bên rồi đi lên cách
hạch cổ sâu, đặc biệt là tới các hạch dọc theo bờ dưới cơ nhị thân.
- Phần dưới của xoang lê cho các bạch mạch đi tới các bạch mạch
trước, dưới cổ họng. Các bạch mạch này đi qua màng giáp gần chỗ động
mạch thanh quản trên rồi đổ vào các bạch mạch tương ứng của thanh quản rồi
đổ vào các hạch cảnh trên và giữa của chuỗi cảnh trong.
Bạch mạch của xoang lê thuộc hệ thống bạch mạch của họng, các bạch
mạch này sẽ đổ chủ yếu vào các hạch dưới cơ nhị thân (Hạch Kuttner) và các
hạch trên, giữa của chuỗi cảnh trong.
1.2.3. Vùng sau nhẫn phễu và miệng thực quản
1.2.3.1. Vùng sau nhẫn phễu
Tương ứng với mặt sau thanh quản, niêm mạc phủ từ cao xuống thấp
gồm: mặt sau sụn phễu, cơ liên phễu và mặt sau của mặt nhẫn. Niêm mạc


19
vùng này tương đối dầy và có nhiều nếp nhăn. Niêm mạc ở giữa sụn phễu Ýt
khi là nơi xuất phát của u [19][26].
1.2.3.2. Miệng thực quản
Tương ứng với bờ dưới sụn nhẫn, ngang tầm đốt sống cổ 6. Miệng thực
quản nối tiếp với phần dưới của hạ họng và là gianh giới hạ họng với thực
quản, có cơ vòng tương ứng với cơ nhẫn họng, cơ này chỉ mở ra khi nuốt.
Theo trường phái Anh thì ung thư miệng thực quản thuộc phạm vi hạ
họng. Về giải phẫu học vùng sau sụn nhẫn (postericoid area) còn gọi là gianh

giới họng thực quản (UICC 1978) bao gồm từ miệng thực quản đến phần dưới
hạ họng, bắt đầu từ phía trước là sụn phễu đến các nẹp, ra đến phía sau là các
khớp nhÉn phễu [3][16].
1.2.4. Thành sau hạ họng
Là phần liên tiếp với thành sau họng đi xuống được tính từ vùng tương
ứng với đỉnh của thanh thiệt tới cơ nhẫn hang ở ngang tầm sụn nhẫn phễu.
Gianh giới bên được xác định không rõ ràng, coi như là vùng nối với thành
sau họng với hai bên và có một phần nhỏ thành họng bên ở phía sau của
xoang lê. Phần nối giải phẫu rõ ràng được xem là gianh giới sau của thành bên
xoang lê. Thành sau hạ họng phân cách với cột sống bởi dây chằng trước cột
sống và khoảng sau họng. Là phần niêm mạc phủ phía trước cột sống đi từ cổ
3 đến cổ 6. Hai bên chỉ cách bó mạch cảnh bởi các cơ xiết họng [24].
1.2.5. Liên quan hạ họng [7]



20
Hình 1.9. Thành trước của họng (nhìn từ sau)
9. Hạnh nhân khẩu cái; 10. đáy lưỡi; 11. lồi của sừng lớn xương móng; 12.
Thượng thiệt (thanh thiệt); 13. Lồi của sừng nhỏ xương móng; 15. Xoang lê;
16. Sụn phễu; 17. Lồi sụn nhẫn; 20. Nếp phễu - thanh thiệt; 21. Lồi của thần
kinh thanh quản trên; 22. Thực quản; 23. Khí quản [7].

Hạ họng là tầng dưới cùng của họng, là ngã tư của đường hô hấp và
tiêu
hoá, nã nằm ở phía sau thanh quản và trước cột sống cổ, chiếm một khoảng từ
bờ trên chỗ nắp thanh môn tới bờ dưới sụn nhẫn ( về chiều cao, nó đi từ
xương móng đến bờ trên của sụn nhẫn). Từ đó liên quan với thực quản.
- Mặt trước của hạ họng gồm hai phần :
+ Phần trên là lỗ thanh quản hay tiền đình thanh quản bị bao vây ở phía

trước bởi thanh thiệt, hai bên bởi hai nẹp phễu thanh thiệt, phía sau bởi hai sụn
phễu và mép sau. Nẹp phễu thanh thiệt là gianh giới giữa thanh quản và hạ họng
+ Phần dưới là mặt sau của sụn phễu và sụn nhẫn.
Hai thành bên: Là phần niêm mạc được nâng đỡ bởi xương móng,
màng giáp móng và mặt trong sụn giáp, là hai cái máng để đứng, đi từ nẹp
họng thanh thiệt xuống đến bờ trên sụn nhẫn. Máng gồm có hai bờ, bờ ngoài
là cánh của sụn giáp, bờ trong là thành bên của thanh quản. Hai máng này
mang tên là máng họng thanh quản hay xoang lê. Tiền đình thanh quản được
ngăn cách với xoang lê bởi nẹp phễu thanh thiệt, xoang lê là vị trí hay gặp ung
thư nhất. Thành sau liên tiếp với thành sau họng miệng nằm phía trước ba đốt
sống cổ 4, 5, 6 .
Hạ họng là một cái ống mềm, bình thường xẹp và chỉ phình ra khi nào
có thức ăn đi qua. Hạ họng được nối liền với thực quản bằng một cái eo hẹp
gọi là miệng thực quản ngang mức đốt sống cổ 6. Dưới niêm mạc của xoang
lê có nhánh trong của thần kinh thanh quản trên đội niêm mạc lên, tạo nên nếp
thần kinh thanh quản [13].
- Ở trên liên tiếp với phần họng miệng.
- Ở duới tiếp nối với thực quản và là chỗ hẹp nhất của hầu.
Ung thư hạ họng 80 - 85 % là xuất phát từ xoang lê. Các khối u đi theo
máng họng – thanh quản lan lên đáy lưỡi, hố lưỡi thanh thiệt, khẩu cái mềm,
Amydal. Thành trong của xoang lê là nẹp phễu thanh thiệt, qua nẹp này khối


21
u dễ xâm lấn vào thanh quản (khoảng cạnh thanh môn, dây thanh, băng thanh
thất, hạ thanh môn, thanh môn, tiền đình thanh quản). Thành ngoài xoang lê là
màng giáp móng và khung sụn. U có thể xâm lấn vào sụn giáp, màng giáp
móng, cuống mạch thần kinh thanh quản, dây thần kinh thanh quản, dây quặt
ngược, da, tổ chức dưới da. Đáy xoang lê liên tiếp với miệng thực quản vì vậy
khối u ở vùng này có thể lan xuống miệng thực quản. Khi khối u đã xâm lấn

tới miệng thực quản thì khả năng phẫu thuật là rất hạn chế.
1.2.6. Dẫn lưu bạch huyết của hạ họng

Hình 1.10. Dẫn lưu bạch huyết hạ họng [1][22]

Hệ thống bạch huyết của hạ họng phong phú và tập chung lại đổ dồn vào
hai ống ở hai bên màng giáp móng, vào các hạch cảnh ở tầng trên và tầng giữa.
Hệ thống bạch huyết dưới niêm mạc của hạ họng và đặc biệt của xoang
lê dày đặc. Chúng đổ vào các hạch sát tạng như hạch trước khí quản, hạch hồi
quy, sau đó đổ vào các nhóm hạch của nhóm II, III, IV theo thứ tự giảm dần
về mặt tần suất. Các ung thư này đôi khi còng di căn hạch ở nhóm VI.
Sự phân bố hệ thống dẫn lưu bạch huyết có liên quan đến sự di căn từ
khối u nguyên phát hạch. Sự di căn hạch cổ là yếu tố quan trọng để quyết định
tới giai đoạn bệnh và tỷ lệ sống sót của bệnh nhân (tỷ lệ sống sót ở nhóm bệnh
nhân có hạch dương tính nói chung giảm 40% so với nhóm bệnh nhân N0).
Tỷ lệ có hạch cổ thường phụ thuộc vào vị trí, kích thước và mức độ biệt hoá
của tế bào khối u nguyên phát. Ung thư hạ họng dễ di căn hạch hơn khi khối u


22
có đường kính lớn hơn 2cm. U kém biệt hoá dễ di căn hạch hơn. Tuy nhiên
yếu tố quyết định liên quan đến sự di căn hạch cổ vẫn là vị trí của khối u.
1.2.7. Phân nhóm hạch bạch huyết vùng cổ ứng dụng trong ung thư tai-
mũi- họng [2] [8].








Hình 1.11. Tam giác bạch huyết Rouviere [ 8 ]

Vùng cổ có khoảng 200 - 600 hạch bạch huyết, chiếm khoảng 30%
tổng số hạch trong cơ thể. Hệ thống hạch bạch huyết ở vùng cổ chia thành hai
chuỗi: chuỗi hạch sâu và chuỗi hạch nông.
1.2.7.1. Chuỗi hạch sâu
Chuỗi hạch sâu còn gọi là chuỗi cảnh sâu, trải dài từ nền sọ cho đến bờ
trên xương đòn và được chia thành 3 nhóm: trên , giữa, dưới.
- Nhóm cảnh trên: Nhận những dẫn lưu bạch huyết từ khẩu cái mềm,
amidal, cung lưỡi khẩu cái và cung họng khẩu cái, mặt sau lưỡi, đáy xoang lê,
thanh quản (phần trên thanh môn), những nhóm hạch nông hơn ở phần cao
của vùng đầu mặt cổ (thành sau họng, nhóm hạch cạnh dây XI, tuyến mang
tai, hạch dưới hàm).
- Nhóm cảnh giữa nhận dẫn lưu từ thanh quản, phần thấp của xoang lê.
Nhóm này nhận dẫn lưu thứ phát của nhóm cảnh sâu phía trên và những hạch
thấp của vùng thành họng sau.
- Nhóm cảnh dưới nhận dẫn lưu từ tuyến giáp, khí quản, thực quản cổ.
Nhận dẫn lưu thứ phát từ nhóm cảnh trên, hạch quanh khí quản.
1.2.7.2. Chuỗi hạch nông [2][8].


23
Chuỗi hạch nông là chạm dẫn lưu thứ phát như đã nói ở nhóm hạch
cảnh sâu. Nhóm hạch nông là nhóm dưới cằm, cổ nông, dưới hàm, nhóm dây
XI, nhóm trước cơ nâng vai.
Có nhiều cách phân loại hạch nhưng để đơn giản hoá, tiện Ých trong áp
dụng phẫu thuật cũng như hiệu quả cao trong điều trị. Nhóm tác giả Memorial
Sloan- Ketery đã đưa ra cách phân loại theo vùng hiện được áp dụng rộng rãi
trên toàn thế giới. Hạch cổ được chia làm 6 nhóm:









Hình 1.12. Phân nhóm hạch bạch huyết vùng cổ [2][8].

- Nhóm I: Nhóm dưới cằm và dưới hàm.
+ Nhóm Ia: Tam giác dưới cằm, giới hạn bởi bụng trước cơ nhị thân và
xương móng.
+ Nhóm Ib: Tam giác dưới hàm, giới hạn bởi bờ xương hàm dưới, bụng
trước và sau cơ nhị thân.
- Nhóm II: Nhóm hạch cảnh trên.
Giới hạn:
+ Phía trước: bờ ngoài cơ ức móng.
+ Phía sau: Bê sau cơ ức đòn chũm.
+ Phía trên: nền sọ.
+ Phía dưới : ngang mức xương móng (mốc lâm sàng), hoặc mức phân
đôi của động mạch cảnh chung ( mốc phẫu thuật).


24
Nhóm II được phân ra làm 2 nhóm nhỏ: IIa và IIb bởi dây thần kinh XI
(thần kinh phụ). Mốc lâm sàng phía trên cơ nhị thân và xương móng, mốc
phẫu thuật chỗ chia đôi của động mạch cảnh chung.
- Nhóm III: Hạch cảnh giữa. Giới hạn:
+ phía trước: Bờ ngoài cơ ức móng.

+ Phía sau: Bê sau cơ ức đòn chũm.
+ Phía trên: Ngang mức xương móng (mốc lâm sàng) hoặc phân đôi
của động mạch cảnh chung (mốc phẫu thuật).
+ Phía dưới: Ngang mức khớp giáp nhẫn (mốc lâm sàng), cơ vai mãng
(mốc phẫu thuật).
- Nhóm IV: Nhóm hạch cảnh thấp. Giới hạn:
+ Phía trên: Ngang mức khớp nhẫn giáp (mốc lâm sàng) hoặc cơ vai
mãng (mốc phẫu thuật).
+ Phía dưới: Xương đòn.
+ Phía trước: Bờ ngoài cơ ức móng.
+ Phía sau: Bê sau cơ ức đòn chòm.
- Nhóm IV chia làm hai nhóm IVa và IVb.
+ Nhóm IVa: Dọc tĩnh mạch cảnh trong và nằm sâu dưới đầu ức của cơ
đòn chũm.
+ Nhóm IVb: Nằm sâu dưới đầu đòn của cơ ức đòn chũm.
- Nhóm V: Tam giác cổ sau ( có 6 đến 10 hạch) giới hạn:
+ Phía trước: Bờ sau cơ ức đòn chũm.
+ Phía sau: Bờ trước cơ thang.
+ Phía dưới: Xương đòn.
Nhóm V được chia làm hai nhóm: Nhóm Va và Vb.
+ Nhóm Va: Gồm các hạch ở phần trên tam giác cổ sau, gồm các hạch
chạy dọc thần kinh phô.
+ Nhóm Vb: Gồm các hạch chạy dọc theo động mạch cổ ngang, về mặt
giải phẫu hai nhóm được phân ra bởi bong dưới cơ vai mãng.
- Nhóm VI: Nhóm hạch Delphian, nhóm hạch trước khí quản, trước sụn
nhẫn, quanh khí quản, hay còn gọi là khoang cổ trứơc. Giới hạn:
+ Phía ngoài: Bao cảnh.


25

+ Phía trên: Xương móng.
+ Phía dưới: Hõm xương ức
1.3. GIảI PHẫU và Mô bệnh học
Niêm mạc bao phủ hạ họng là lớp biểu mô Malpighi. Ung thư hạ họng
là loại ung thư biểu mô Malpighi (biểu mô lát)
1.3.1. Đại thể
Có các hình thái:
- Loét thâm nhiễm chiếm 85 %, tổn thương bắt đầu từ niêm mạc rồi
thâm nhiễm sâu xuống các mô ở phía dưới (tuyến, cơ, sụn…)
- Hình thái từng lớp chiếm khoảng 12,15%.
- Loại nông khá điển hình, có từng hạt nhỏ hoặc nổi hạt, không nhẵn
bóng và không thâm nhiễm xuống dưới rất khó phân biệt với niêm mạc bị
viêm mãn tính. Hình thái này phát triển trên bề mặt niêm mạc, nó rải rác
nhiều chỗ hoặc toàn bộ niêm mạc của hạ họng. Đôi khi nó lại phối hợp với
một ung thư biểu mô thể thâm nhiễm tạo thành những đám to nhỏ khác nhau,
thể tăng sản hoặc bạch sản. Ngay trong lúc phẫu thuật cũng khó xác định
được gianh giới cần phải lấy bỏ cho triệt để, vì vậy đôi khi việc cắt bỏ phải
dựa vào kÕt quả của sinh thiết tức thì (frozen section).
- Các hình thái khác: loại này Ýt gặp nhưng hay bị nhầm dẫn đến chẩn
đoán nhầm và sai sót trong điều trị như ung thư thể Sarcom. Đại thể là một
tổn thương có giới hạn rõ rệt, lồi lên có cuống, chân cuống hay gặp ở phần
màng xoang lê, vùng sau nhẫn phễu. Về vi thể thì các tế bào u không còn tính
chất biểu mô, tế bào hình thoi to, phân bố rải rác như một Sarcom nguyên bào
sợi trong cơ. Loại u này Ýt khi xâm lấn xuống sâu, giải quyết nh- cắt một
Polyp có chân bám.
- Về đại thể ung thư hạ họng có các hình thái sau:
+ Dạng nụ sùi.
+ Dạng loét.
+ Loét thâm nhiễm.
+ Hỗn hợp.

1.3.2. Vi thể [1]
95% là ung thư biểu mô vẩy, 5% là ung thư biểu mô tuyến.

×