Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Siêu âm Tinh Hoàn pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.42 KB, 13 trang )

Siêu âm Tinh Hoàn

Đau tinh hoàn cấp tính chiếm khoảng 0,5% trường hợp nhập viện tại khoa
cấp cứu. Những chẩn đoán phân biệt của đau tinh hoàn cấp bao gồm viêm
mào tinh, viêm tinh hoàn, xoắn tinh hoàn, xoắn phần phụ tinh hoàn, chấn
thương tinh hoàn và thoát vị ổ bụng vào bìu. Những triệu chứng cơ năng
và thực thể về bệnh nguyên của một bệnh nhân bị đau tinh hoàn cấp tính
chồng chéo lên nhau một cách đáng kể, do đó gây khó khăn để chẩn đoán
phân biệt những tình huống lâm sàng này. Tuy nhiên, việc phân biệt giữa
các bệnh nguyên khác nhau là rất cần thiết để có thể can thiệp nhanh
chóng trong những trường hợp bị xoắn tinh hoàn, chấn thương và thoát vị
nghẹt. Chẩn đoán sai một trường hợp xoắn tinh hoàn có thể dẫn đến tổn
thương vĩnh viễn cơ quan này và gây vô sinh. Sự suy sụp của bệnh nhân
và sự ảnh hưởng đến khả năng sinh con của bệnh nhân đã đặt một áp lực
đáng kể lên các bác sĩ cấp cứu trong việc đưa ra được một chẩn đoán
chính xác.

Chỉ định
 Đau tinh hoàn
 Sưng hoặc có khối lạ nổi lên ở tinh hoàn
 Chấn thương
GIẢI PHẪU HỌC
Bìu là một cấu trúc dạng túi được chia ra thành hai ngăn bởi một nếp ở
giữa. Mỗi ngăn có chứa tinh hoàn, mào tinh, ống dẫn tinh và thừng tinh.
Tinh hoàn được bọc bởi một lớp vỏ xơ được gọi là lớp cân trắng (tunica
albuginea) và được bao phủ bởi màng bao tinh hoàn (tunica vaginalis).
Màng bao tinh hoàn có 2 lớp, lớp thành bên ngoài và lớp tạng bên trong
được tách biệt với nhau bởi một lượng dịch nhỏ xen giữa. Tinh hoàn của
một người trưởng thành bình thường sẽ có hình bầu dục và có kích thước
từ 2 đến 3 cm chiều rộng và 3 đến 5 cm chiều dài. Kích thước của tinh
hoàn thay đổi theo tuổi, tăng kích thước dần từ lúc mới sinh ra cho đến


tuổi dậy thì rồi sau đó nhỏ dần đi. Về mặt cấu trúc, tinh hoàn được chia ra
thành các thùy bởi các vách ngăn xuất phát từ lớp cân trắng. Bên trong
nhu mô tinh hoàn có các ống dẫn tinh hội tụ về trung thất tinh hoàn, các
vách không hoàn toàn được tạo thành từ sự lõm vào của các cân trắng. Nó
nằm ở mặt sau của tinh hoàn.Mào tinh nằm ở mặt sau bên của tinh hoàn.
Mào tinh có kích thước khoảng 6 đến 7 mm chiều dài vào bao gồm các
phần: đầu, thân và đuôi. Đầu mào tinh nằm gần cực trên của tinh hoàn,
thân của nó chạy dọc theo phía sau và phần đuôi nằm ở cực dưới tinh
hoàn. Phần lớn nhất của mào tinh là phần đầu và thường có hình tròn
hoặc tam giác. Đuôi mào tinh sẽ trở thành các ống dẫn tinh khi nó chạy
lên phía trên ra khỏi bìu. Thừng tinh treo tinh hoàn vào bìu và bao gồm
các thành phần: các động mạch, tĩnh mạch, dây thần kinh, bạch huyết và
các ống dẫn tinh. Phần phụ tinh hoàn và phần phụ mào tinh đều là di tích
còn sót lại từ phôi thai nằm ở phía cực trên của tinh hoàn. Nguồn cấp máu
chủ yếu của tinh hoàn là động mạch tinh hoàn, xuất phát từ động mạch
chủ. Những nguồn cấp máu khác bao gồm động mạch ống dẫn tinh cung
cấp máu cho mào tinh và các ống dẫn tinh và các động mạch bìu cung cấp
máu cho vùng mô xung quanh tinh hoàn. Máu tĩnh mạch từ bìu đi theo
đám rối hình dây leo (pampiniform plexus) rồi đổ về các tĩnh mạch tinh
hoàn.

Resized to 63% (was 736 x 533) - Click image to
enlarge

Hình minh họa 1: Tổng quan về tinh hoàn.
Những biến thể bình thường

Ở khoảng 50% nam giới, động mạch xuyên trung thất, là một nhánh lớn
của động mạch tinh hoàn, đi xuyên qua trung thất tinh hoàn để cung cấp
máu cho các động mạch vỏ bao và thường đi kèm với một tĩnh mạch lớn.


KỸ THUẬT VÀ NHỮNG HÌNH ẢNH BÌNH THƯỜNG
Bệnh nhân sẽ được đặt nằm ngửa với hai chân hơi dạng ra. Bìu sẽ được
đặt vào một dải băng quàng được làm từ khăn để gia tăng tiếp xúc và nên
được nâng đỡ và cố định bởi một cái khăn được cuốn lại và đặt giữa hai
đùi bệnh nhân. Dương vật được bọc lại bằng khăn rồi buộc lại ở thành
bụng. Hoặc bác sĩ cũng có thể yêu cầu bệnh nhân cầm dương vật và kéo
nó lên hướng về phía đầu. Có một điểm cần lưu ý là khi sử dụng gel lạnh
có thể sẽ làm da bìu co lại và dày lên hoặc có thể làm cho tinh hoàn chạy
lên phía trên làm cho việc khảo sát trở nên khó khăn hơn.Đầu dò linear
tần số cao (7.5-10 MHz) có thể được dùng để thực hiện siêu âm Doppler
năng lượng và Doppler phổ. Bìu và những cơ quan chứa bên trong sẽ
được quét ở ít nhất là 2 mặt phẳng cắt: một theo trục dọc và một theo trục
ngang. Trước tiên cần phải quét ở bên tinh hoàn bình thường để giúp
bệnh nhân làm quen với thủ thuật khám và cũng để cho bác sĩ có thể có
sự so sánh về mặt giải phẫu cũng như về sự tưới máu bình thường so với
bên bệnh lý. Trước tiên cần phải quét theo trục dài của tinh hoàn, khi đó
mào tinh sẽ nằm ở bên trái của màn hình (hình 1)
Resized to 85% (was 541 x 406) - Click image to
enlarge

Hình 1: Cách bộc lộ và quấn khăn bệnh nhân đúng cách, tinh hoàn
được nâng đỡ bởi một dải băng quàng làm bằng khăn. (Courtesy of
Michael Blaivas, M.D.)

Toàn bộ tinh hoàn sẽ được quét từ đầu bên này sang đến đầu bên kia, lưu
ý mẫu hồi âm và những hình ảnh bất thường. Ngoài ra, mào tinh cũng
được khảo sát. Đầu dò sẽ dịch chuyển từ từ để khảo sát toàn bộ các mặt
giải phẫu của nó. Sau đó đầu dò sẽ được quay 90 độ về bên trái bệnh nhân
để ghi nhận hình ảnh cắt ngang của tinh hoàn. Cắt theo mặt phẳng trán cả

hai tinh hoàn khi chúng nằm sát bên cạnh nhau có thể giúp nhận biết
được sự khác biệt về kích thước, độ hồi âm và sự tưới máu.

Các lớp thành và lớp tạng của màng bao được nhìn thấy trên siêu âm với
hình ảnh là một đường viền hồi âm. Tinh hoàn bình thường có độ xám
trung bình và đồng đạng. Độ hồi âm của tinh hoàn tương tự với gan hoặc
tuyến giáp. Mào tinh cũng có độ hồi âm tương tự hoặc có thể hơi tăng nhẹ
nếu so với tinh hoàn bình thường. Trung thất tinh hoàn được nhìn thấy
dưới dạng một dải tăng âm thẳng chạy theo hướng đầu-đuôi hoặc song
song với mào tinh. Phần phụ tinh hoàn và phần phụ mào tinh có hình bầu
dục, tăng âm, nhỏ, nhô lên ở cực trên của tinh hoàn, bình thường được
che lại bởi đầu mào tinh. Trừ phi được bao phủ bởi dịch trong trường hợp
bệnh nhân bị tràn dịch tinh mạc, nếu không thì chúng rất khó phát hiện
trên siêu âm. Thừng tinh trên siêu âm có hình ảnh là những cấu trúc gồm
nhiều đường giảm âm ở mặt cắt dọc trục và những cấu trúc gồm các vòng
tròn giảm âm ở mặt cắt ngang trục.

Tiếp theo đó, bệnh nhân sẽ được siêu âm Doppler năng lượng. Trước tiên
cần khảo sát ở phía bên lành để điều chỉnh Doppler chính xác. Để đánh
giá chính xác dòng máu, những thông số Doppler nên được điều chỉnh ở
mức nhạy cảm nhất mà không xuất hiện những xảo ảnh đáng kể. Doppler
năng lượng và Doppler xung nên được hiệu chỉnh sao cho có thể thể hiện
được những dòng chảy vận tốc thấp của các mạch máu bên trong tinh
hoàn và những cấu trúc kế cận. Độ lọc thành, thang xám, và gain nên
được điều chỉnh để ghi nhận được tối đa dòng máu mà không có xảo ảnh
đáng kể. Độ lọc thành nên được cài đặt ở mức thấp nhất có thể, và PRF
(tần số lặp lại xung) cũng nên được đặt ở mức nhỏ nhất. Gain màu cũng
nên được điều chỉnh cẩn thận do những biểu hiện xảo ảnh của dòng chảy
có thể xuất hiện ở những tinh hoàn bị xoắn. Dòng chảy bên trong tinh
hoàn và mào tinh nên được xác nhận lại bằng cách dùng cả Doppler năng

lượng và phân tích dạng sóng của Doppler phổ. Doppler năng lượng giúp
phát hiện những dòng máu bên trong tinh hoàn và Doppler phổ giúp xác
định dòng máu đó là từ tĩnh mạch hay động mạch. Hình dạng sóng của
phổ Doppler nên được ghi nhận ở nhiều vị trí khác nhau của dòng chảy đã
được phát hiện bởi Doppler năng lượng để ghi nhận cả những kiểu dòng
chảy của động mạch lẫn tĩnh mạch. Thông thường, Doppler năng lượng
và Doppler phổ có thể được thực hiện ở trên cùng một cửa sổ siêu âm.




Your browser does not support inline frames or is currently configured
not to display inline frames.

Hình 2: Hình ảnh siêu âm tinh hoàn bình thường với đầu mào tinh ở
bên trái và thân của tinh hoàn ở bên phải (Courtesy of Michael
Blaivas, M.D.)



BỆNH HỌC
Resized to 85% (was 541 x 406) - Click image to
enlarge

Hình minh họa 2: biểu đồ những bệnh lý của tinh hoàn
Testic torsion: xoắn tinh hoàn; Epididymitis: viêm mào tinh; Orchitis:
viêm tinh hoàn; Appendix testis torsion: xoắn phần phụ tinh hoàn;
Testicular mass: khối lạ ở tinh hoàn; Hydrocele: tràn dịch tinh mạc;
Spermatocele: u tinh trùng; Varicocele: dãn tĩnh mạch thừng tinh;
Testicular rupture: vỡ tinh hoàn.


Tràn dịch tinh mạc
Tràn dịch tinh mạc là nguyên nhân thường gặp nhất gây sưng tinh hoàn.
Tinh hoàn bình thường có chứa một lượng nhỏ thanh dịch nằm giữa hai
lớp của màng bao tinh hoàn. Sự tích tụ dịch bất thường ở khoang nằm
giữa lớp thành và lớp tạng của màng bao tinh hoàn gây ra tràn dịch tinh
mạc. Sự tích tụ dịch thường khu trú ở phần trước bên của bìu do màng
bao nối với tinh hoàn và bìu ở phía sau. Tràn dịch tinh mạc có thể ở một
bên hoặc hai bên và có thể được phát hiện độc lập hoặc có thể đi kèm
theo một bệnh lý cấp tinh hoặc mạn tính nào đó. Trong nhiều trường hợp,
tràn dịch có tính bẩm sinh. Tràn dịch tinh mạc mắc phải có thể do nhiễm
trùng, khối u, chấn thương, xoắn và xạ trị.
Tràn máu tinh mạc và tràn mủ tinh mạc là những kiểu tràn dịch tinh mạc
phức tạp. Về mặt siêu âm, tràn dịch tinh mạc đơn thuần cho hình ảnh tụ
dịch có echo trống ở xung quanh tinh hoàn (hình 3), còn tràn dịch tinh
mạc phức tạp có thể cho hình ảnh có hồi âm bên trong dịch với vách ngăn
và chia thùy. Tràn dịch tinh mạc mạn tính cũng có thể cho hình ảnh có
hồi âm bên trong dịch do sự hình thành của những tinh thể cholesterol.

Your browser does not support inline frames or is currently configured
not to display inline frames.
Hình 3: Hình ảnh tinh hoàn phải và trái với tràn dịch tinh mạc bên
phải (Courtesy of Michael Blaivas, M.D.)
Dãn tĩnh mạch thừng tinh
Đây là tình trạng các tĩnh mạch bên trong đám rối hình dây leo của thừng
tinh trở nên ngoằn nghèo và dãn ra. Chúng chiếm xấp xỉ 15% nam giới
trưởng thành và có thể gây ra vô sinh thứ phát do làm giảm khả năng di
chuyển và số lượng tinh trùng. Nguyên nhân là do sự suy yếu của các van
của tĩnh mạch tinh hoàn. Phần lớn trường hợp bệnh xảy ra chỉ ở bên trái
và chỉ có 1% trường hợp là ở cả hai bên, và tình trạng này được cho là do

tĩnh mạch tinh hoàn trái có đường đi dài hơn và góc quẹo của nó khi đi
vào tĩnh mạch thận trái. Tĩnh mạch tinh hoàn phải ngắn hơn và đi trực
tiếp vào tĩnh mạch chủ dưới. Dãn tĩnh mạch thừng tinh sẽ rõ ràng hơn khi
bệnh nhân thực hiện nghiệm pháp Valsalva hoặc khi đứng dậy. Do đó,
nên siêu âm ở cả hai tư thế là nằm ngửa và đứng. Trên siêu âm, chúng
xuất hiện dưới dạng nhiều cấu trúc echo trống hình ống thẳng hoặc cong
và có kích thước khác nhau (lớn hơn 2 mm đường kính) ở vùng mào tinh
(hình 4). Nên dùng doppler năng lượng để xác nhận lại sự hiện diện của
dòng chảy trong dãn tĩnh mạch thừng tinh.


Your browser does not support inline frames or is currently configured
not to display inline frames.
Hình 4: Mặt cắt dọc của tinh hoàn với đám rối hình dây leo phì đại.
Lưu ý sự dày lên của mô liên kết xung quanh thứ phát do viêm vùng
bìu sau ghép dương vật thất bại (Courtesy of Beatrice Hoffmann, M.D.)
Xoắn tinh hoàn
Xoắn tinh hoàn là một cấp cứu niệu khoa. Cần phải chẩn đoán nhanh
chóng và điều trị sớm do thời gian là yếu tố then chốt để bảo tồn được
tinh hoàn. Xoắn tinh hoàn thường gặp ở trẻ em hơn nhưng cũng có thể
gặp ở những nam giới sau tuổi dậy thì. Phần lớn trườn hợp xoắn tinh hoàn
là do những thiếu sót về giải phẫu dẫn đến thừng tinh bị dài quá mức và
tinh hoàn bị treo một cách bất thường trong bìu. Tinh hoàn ẩn cũng làm
gia tăng nguy cơ bị xoắn. Thừng tinh dài quá mức khi di động sẽ xoắn
vào chính nó. Trong quá trình xoắn như vậy, dòng chảy trong tĩnh mạch
sẽ bị ngừng lại ban đầu là do các thành mạch dễ bị xẹp và áp lực trong
lòng mạch thấp. Nối tiếp với hiện tượng tắc nghẽn tĩnh mạch sẽ là giảm
dòng chảy vào của động mạch, cuối cùng sẽ dẫn đến tắc hoàn toàn. Khi
thừng tinh bị xoắn hoàn toàn và máu không đến được, tinh hoàn sẽ nhanh
chóng bị nhồi máu và mất chức năng vĩnh viễn một cách nhanh chóng.

Chẩn đoán nhanh chóng tình trạng xoắn tinh hoàn đóng vai trò rất quan
trọng để bảo tồn khả năng sinh con của bệnh nhân. Tỷ lệ bảo tồn được
xấp xỉ 100% trong 3 giờ đầu, 83 - 90% trong 5 giờ, 75% trong 8 giờ, và
50 - 70 % trong 10 giờ. Tỷ lệ bảo tồn được sẽ giảm xuống còn 10 đến
20% khi tình trạng xoắn tinh hoàn vẫn còn tồn tại cho đến trên 10 giờ.
Sau 24 giờ, khả năng bảo tồn được tinh hoàn rất kém ngoại trừ trường
hợp bệnh nhân bị xoắn không liên tục. Những dấu hiệu trên siêu âm tùy
thuộc vào thời gian xoắn và mức độ lan rộng của tổn thương mạch máu.
Tinh hoàn có thể lớn ra và giảm âm, nhu mô tinh hoàn trở nên kém đồng
nhất hơn khi so sánh với tinh hoàn bình thường (Hình 5). Tuy nhiên,
không phải lúc nào siêu âm cũng hữu ích do những dấu hiệu trên siêu âm
có thể sẽ rất mờ nhạt ở giai đoạn sớm của bệnh. Siêu âm Doppler màu và
Doppler năng lượng có thể giúp xác định dòng chảy ở tình trạng cấp tính
(Hình 6). Nếu không có dòng chảy của máu thì chẩn đoán xoắn tinh hoàn
đã rõ ràng. Đôi khi sự giảm dòng chảy của máu trong trường hợp xoắn
giai đoạn sớm có thể bị chẩn đoán lầm với bình thường. Do đó, cần phải
so sánh với phía bên đối diện. Chỉ sử dụng Doppler màu thôi thì không
xác định được dòng chảy của tĩnh mạch và động mạch ở tinh hoàn. Cũng
nên sử dụng Doppler phổ để xác nhận lại dòng chảy của động mạch và
tĩnh mạch. Nếu không có dòng chảy của tĩnh mạch trên Doppler phổ ở
tinh hoàn thì có thể nghi ngờ xoắn giai đoạn sớm. Nếu chẩn đoán vẫn còn
nghi ngờ do tình trạng xoắn-tháo xoắn xảy ra xen kẽ, nên lập lại Doppler
màu kèm với Doppler phổ trong vòng 1 giờ.

Your browser does not support inline frames or is currently configured
not to display inline frames.
Hình 5: Hình cắt ngang của hai tinh hoàn cho thấy hình ảnh tinh
hoàn trái bình thường và tinh hoàn phải bị xoắn. Lưu ý hình ảnh giảm
âm của tinh hoàn phải (Courtesy of Michael Blaivas, M.D.)


Your browser does not support inline frames or is currently configured
not to display inline frames.
Hình 6: Hình cắt ngang của cả hai tinh hoàn. Hình Doppler năng
lượng của bìu cho thấy tinh hoàn phải được tưới máu còn tinh hoàn
trái bị phù nề thì không được tưới máu. (Courtesy of Michael Blaivas,
M.D.)


Viêm mào tinh
Viêm mào tinh là nguyên nhân thường gặp nhất gây đau tinh hoàn cấp
tinh ở những nam giới sau tuổi dậy thì. Thông thường bệnh nhân sẽ cảm
thấy đau căng ở bìu, tiểu khó và sốt. Nhiễm trùng ngược từ bàng quang
và tiền liệt tuyến thường là nguyên nhân gây viêm đầu mào tinh. Siêu âm
trắng đen ở những trường hợp viêm mào tinh cấp tính có hình ảnh mào
tinh lớn ra và giảm âm. Thông thường cũng sẽ phát hiện ra được hình ảnh
tràn dịch tinh mạc phản ứng (hình 7). Viêm mào tinh mạn tính sẽ trở nên
dày lên và có những vùng tăng âm khu trú do bị calci hóa. Doppler màu
cho thấy hình ảnh tăng lưu lượng máu thứ phát do viêm mào tinh. Sự hiện
diện của tình trạng tăng lưu lượng máu ở bên viêm so với bên lành giúp
chẩn đoán phân biệt với xoắn tinh hoàn.

Your browser does not support inline frames or is currently
configured not to display inline frames.
Hình 7: Hình ảnh vùng mào tinh giảm âm và tăng kích thước trong
viêm mào tinh. (Courtesy of Michael Blaivas, M.D.)

Viêm tinh hoàn
Viêm tinh hoàn là một tình trạng nhiễm trùng cấp tính của tinh hoàn
thường xuất hiện sau viêm mào tinh. Bệnh nhân thường sẽ bị đau và viêm
ở tinh hoàn. Trên siêu âm trắng đen cho hình ảnh tinh hoàn lớn ra có mật

độ echo không đồng nhất. Biểu hiện này không đặc hiệu và có thể tìm
thấy ở nhiều bệnh khác, chẳng hạn như khối u, di căn, nhồi máu và xoắn.
B-mode chuẩn không phải là một phương pháp chuẩn để phân biệt giữa
viêm tinh hoàn và xoắn tinh hoàn. Trong cả 2 trường hợp viêm và xoắn
đều có hiện tượng viêm và phù nề làm cho tinh hoàn lớn ra và mật độ
không đồng nhất. Doppler màu giúp chẩn đoán phân biệt giữa viêm tinh
hoàn với xoắn tinh hoàn do trong viêm tinh hoàn thì sẽ tăng lưu lượng
máu so với bên lành do tình trạng viêm (Hình 8).

Your browser does not support inline frames or is currently configured
not to display inline frames.
Hình 8: Viêm tinh hoàn. Gia tăng tưới máu đáng kể kèm với tràn dịch
tinh mạc phản ứng. (Courtesy of Michael Blaivas, M.D.)

Chấn thương bìu
Chấn thương cùn vào bìu có thể dẫn đến tổn thương tinh hoàn và những
cấu trúc kế cận. Những tổn thương bìu bao gồm rách, xuất huyết, hoặc
dập tinh hoàn. Mục tiêu của siêu âm bìu ở những bệnh nhân này là đánh
giá những tổn thương ở tinh hoàn. Cũng nên đánh giá luôn sự tưới máu ở
tinh hoàn do chấn thương có thể dẫn đến xoắn tinh hoàn. Hình ảnh tinh
hoàn bình thường trên siêu âm có thể loại trừ gần như tất cả những tổn
thương đáng kể của tinh hoàn. Bất kỳ những bất thường nào của tinh
hoàn quan sát được trên siêu âm trong trường hợp chấn thương bìu đều có
thể được nghi ngờ đến một tình trạng vỡ tinh hoàn (hình 9). Những dấu
hiệu trên siêu âm giúp hướng đến tổn thương tinh hoàn bao gồm đường
bờ không liên tục và mẫu hồi âm không đồng nhất do xuất huyết hoặc
nhồi máu. Đường nứt riêng biệt chỉ quan sát được trên siêu âm trong 17%
trường hợp vỡ tinh hoàn. Tụ máu tinh hoàn đáng kể là một dấu hiệu gián
tiếp của vỡ tinh hoàn. Hình ảnh xuất huyết trong tinh hoàn thay đổi tùy
theo tuổi của khối tụ máu. Xuất huyết cấp sẽ có hình ảnh hồi âm không

đồng nhất, nhưng sau đó sẽ có một vùng không có hồi âm bên trong nó
phát triển lớn dần lên. Siêu âm Doppler màu giúp phân biệt giữa khối
máu tụ với khối u. Khối u thường sẽ có tưới máu còn khối máu tụ thì
không.

Your browser does not support inline frames or is currently
configured not to display inline frames.
Hình 9: Nứt tinh hoàn. Chú ý mẫu hồi âm không đồng nhất của tinh
hoàn và đường nứt. (Courtesy of Michael Blaivas, M.D.)

NHỮNG LƯU Ý VÀ CẠM BẪY
 Dùng trung thất tinh hoàn làm điểm tham khảo khi khảo sát tưới
máu trong tinh hoàn. Lưu ý nếu trung thất tinh hoàn bị nghiêng lệch trong
hình siêu âm thì có thể có một khối tổn thương bị bỏ sót.
Siêu âm Doppler màu không phân biệt  được tăng tưới máu do bệnh ác
tính với tăng tưới máu do viêm.
  Chẩn đoán sớm xoắn tinh hoàn khi nó vẫn chưa bị xoắn hoàn
toàn sẽ có thể khó khăn nếu chỉ sử dụng Doppler màu. Phương pháp này
dựa trên sự khác biệt nhỏ giữa hai tinh hoàn. Ban đầu dòng chảy của tĩnh
mạch sẽ biến mất, kế tiếp sẽ đến dòng chảy động mạch. Dùng Doppler
phổ để ghi nhận cả hình dạng sóng của dòng chảy tĩnh mạch lẫn động
mạch là tối ưu nhất. Một số bệnh nhân có thể có biểu hiện xoắn và tháo
xoắn xen kẽ nhau. Một thời gian ngắn sau khi tháo xoắn sẽ có hiện tượng
tăng tưới máu ở tinh hoàn tuy nhiên thông thường hiện tượng này sẽ
không kéo dài lâu hơn 15 phút và có thể bị bỏ sót. Cần phải chẩn đoán
phân biệt hiện tượng tăng tưới máu với viêm tinh hoàn do những bệnh
nhân này vẫn tiếp tục cần phải được theo dõi để can thiệp phẫu thuật.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×