Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

BƯỚC đầu tìm HIỂU về các GIỐNG lúa và NGHỀ TRỒNG lúa ở VIỆT NAM THẾ kỷ XVIII XIX (PGS TSKH NGUYỄN hải kế)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.05 KB, 36 trang )

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VỀ CÁC GIỐNG LÚA VÀ NGHỀ TRỒNG
LÚA Ở VIỆT NAM THẾ KỶ XVIII-XIX

PGS.TSKH Nguyễn Hải Kế

Trong lịch sử sản xuất nông nghiệp, việc tìm hiểu giống cây
trồng nói chung, đặc biệt là các giống lúa với tư cách là loại
cây lương thực chủ yếu của nước ta, có ý nghĩa quan trọng.
Nó không chỉ bao hàm việc làm sáng tỏ sự phát triển kinh
tế, chính trị trong tiến trình lịch sử, mà còn góp phần khám
phá, tiếp thu kho tàng tri thức khoa học nông nghiệp quý
giá được ông cha ta đúc rút trong công thức nổi tiếng:
nước-phân-cần-giống.
Mặt khác, trong khi cả nước tập trung cao độ trí tuệ, sức lực
để “phát triển vượt bậc về nông nghiệp, giải quyết cho được
vấn đề lương thực”[1], công tác nghiên cứu khoa học phục
vụ nông nghiệp có trách nhiệm nặng nề như xây dựng hệ
thống quốc gia, phân vùng quy hoạch nông nghiệp Nhưng
cơ sở khoa học của công tác này, ngoài yêu cầu của các yếu
tố tự nhiên, hiện đại… còn gắn bó với kinh nghiệm, với
truyền thống.
Bước đầu tìm hiểu các giống lúa và kỹ thuật trồng lúa ở Việt
Nam chúng tôi mới chỉ đề cập đến trong phạm vi của thế kỷ
XVIII-XIX vì lý do sau:
- Với tư cách là một tư liệu sản xuất quan trọng của sản
xuất nông nghiệp, giống cây trồng là sản phẩm lao động
trực tiếp, liên tục, lâu dài của con người. Tập đoàn giống lúa
ở thế kỷ XVIII-XIX có thể coi là đại diện cao nhất cho sự phát
triển về hình thái sinh vật, của kỹ thuật trồng lúa trong thời
Cổ - trung đại ở Việt Nam.
- Đến thế kỷ này, dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn


năm phát triển, xây dựng, tích lũy được một kho tàng tri
thức nông nghiệp phong phú. Bên cạnh dân ca, ca dao, tục
ngữ gắn bó với nghề nông, đã xuất hiện những tác phẩm ở
nhiều mức độ khác nhau, đề cập đến các khía cạnh của sản
xuất nông nghiệp như đất đai, khí hậu, giống lúa, v.v…
Những tác phẩm này thông thường là các loại địa phương
chí như Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch, Hưng Hóa ký lược
của Phạm Thận Duật, Cao Bằng thực lục của Nguyễn Hữu
Cung… Song đề cập nhiều và tập trung hơn về lúa và kỹ
thuật canh tác là những tác phẩm: Vân Đài loại ngữ, Phủ
Biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Gia Định thành thông chí của
Trịnh Hoài Đức, Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán
triều Nguyễn.
Vân Đài loại ngữ[2] là cuốn bách khoa toàn thư đúc kết
những tri thức tự nhiên, xã hội Việt Nam cho đến thế kỷ
XVIII của nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1783). Ông hoàn
thành tác phẩm này vào ngày 1 tháng 9 năm 1773 (rằm
tháng 7 năm Quý tỵ). Với cách biên soạn “trích lấy các sự
tích trong truyện, ký, rồi xếp đặt lại theo ý mình mà bình
luận” Lê Quý Đôn đã dành 320 điều Phẩm vật để tìm hiểu về
lúa và các loại cây trồng, vật dụng khác.
Lê Quý Đôn đã chú ý miêu tả, nhận xét từ tên gọi, thời vụ,
đặc điểm sinh vật đến chỉ tiêu kinh tế của các giống lúa. Ở
một số giống, ông còn ghi cụ thể địa phương sản xuất kỹ
thuật trồng cấy, bón phân, mức đẻ nhánh. Tuy vậy có một số
giống như Sài đường, Bồ lộ…, Lê Quý Đôn chỉ đề cập đến đặc
điểm sinh vật mà không nhắc đến đặc điểm sản xuất. Ông
cũng chỉ chia ra hai loại vụ hạ, vụ thu mà không ghi rõ
tháng cấy, gặt, thậm chí không thấy chép đến một giống nếp
chiêm nào.

Phủ Biên tạp lục[3] được Lê Quý Đôn hoàn thành trong thời
gian làm Hiệp trấn xứ Thuận Hóa (Bình - Trị - Thiên đến
Nghĩa Bình ngày nay) năm 1776.
So với Vân Đài loại ngữ thì Phủ Biên tạp lục ghi chép về lúa
cụ thể hơn, từ thời vụ, đặc điểm sản xuất đến chỉ tiêu kinh
tế. Trong phạm vi từng phủ, thậm chí từng tổng, như tổng
Bái Ân, huyện Minh Linh, ông đã đề cập chi tiết về đất đai,
canh tác. Song một số giống như A suốt, Héo trắng… chỉ
được đề cập qua, các giống lúa ở Đồng Nai, Gia Định được
chép đến ít ỏi, cả vùng Quảng Nam không thấy chép tới.
Với phạm vi thời gian và địa bàn trên, Vân Đài loại ngữ và
Phủ Biên tạp lục cho chúng ta một tập hợp các giống lúa ở
thế kỷ XVIII.
Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (?-1825). Khác
với Lê Quý Đôn, ông không nêu từng giống lúa mà chỉ viết:
“loại lúa đạo có rất nhiều, đại khái có hai loại Canh và
Thuật…”[4].
Về thời vụ, ông chú ý đề cập khá chi tiết khi nhận xét công
việc cày cấy ở các trấn, huyện, vùng Đồng Nai - Gia Định.
Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn
(đời Tự Đức 1864-1875)[5] đã đề cập đến lúa, thời vụ cấy
lúa trong phần khí hậu của các tỉnh, tập trung nhất là mục
Thổ sản phủ Thừa Thiên, quyển 2. Tác phẩm này trên cơ sở
tham khảo các sách vở của Việt Nam và Trung Quốc có từ
thời trước đến bây giờ, đề cập khá cụ thể các đặc điểm sinh
vật, chỉ tiêu kinh tế của các giống lúa.
Song Đại Nam chỉ chép có 19 giống nếp, 20 giống tẻ “các
tỉnh đều có”, ngoài ra “tục gỏi là lúa Thốc, lúa Vàng, Trĩ…,
phẩm loại rất nhiều” không được đề cập đến.
Có thể coi Gia Định thành thông chí và Đại Nam nhất thống

chí là tập hợp các giống lúa ở thế kỷ XIX.
Cả một quá trình trồng lúa lâu dài, phong phú hàng ngàn
năm của nông dân Việt Nam chỉ được phản ánh ít ỏi qua tư
liệu xưa, và quan niệm cũng không thống nhất. Mặt khác, do
điều kiện sản xuất riêng rẽ của thời phong kiến, tình trạng
mùa màng xen kẽ, giống má phức tạp; hơn nữa, do yêu cầu
tích cực tất yếu nhằm thay thế các giống lúa xấu bằng
những giống lúa mới tốt hơn…, vì thế ngoài những điều
chép trong thư tịch, chúng ta không có một sưu tập giống
thực tế của đương đại. Tất cả những hạn chế trên làm cho
việc tập hợp, phân tích, so sánh nhận xét các giống lúa
không được đầy đủ và cụ thể.
Tuy vậy, dựa trên những nét chung được các tài liệu đề cập
đến như đặc điểm sản xuất thời vụ, đặc điểm sinh vật…, đối
chiếu với khái niệm phổ thông về giống. (“Có những đặc tính
hình thái sinh học, di truyền và những đặc tính kinh tế giống
nhau trong một khu vực nào đó…”)[6], đồng thời kết hợp
với kết quả điều tra dân tộc học ở những vùng Nghệ Tĩnh,
Hải Hưng, Hải Phòng, Thái Bình…, chúng tôi tiến hành sắp
xếp, phân loại hệ thống bước đầu các giống lúa ở thời kỳ
này.
Nhận xét sơ bộ về các giống lúa và kỹ thuật canh tác ở thế
kỷ XVIII-XIX
Thành tựu của các khoa sử học, khảo cổ học, nông nghiệp…
ngày càng chứng minh rõ rằng: Đông Nam Á - Việt Nam là
một quê hương của lúa nước, là nơi có nghề trồng lúa khá
sớm.
Từ buổi đầu tiên người Việt cổ biết đến nông nghiệp, biết
đến cây lúa nước Oryza - Satyva, hàng ngàn năm đã đi qua.
Đến thế kỷ XVIII-XIX, cư dân nông nghiệp Việt Nam với bao

nhiêu mồ hôi, trí tuệ đã không ngừng gây dựng, chọn lựa
được một tập đoàn giống lúa đông đảo về số lượng, phong
phú về loại hình, có nhiều phẩm chất tốt, phù hợp với điều
kiện tự nhiên và xã hội Việt Nam.
Chỉ mới thống kê qua Vân Đài loại ngữ và Phủ Biên tạp lục
đã có tới 120 giống lúa nếp, tẻ.
Do đặc tính cơ bản của cây lúa nước là loại cây đầm lầy
(Hudro-phyte) “có tổ tiên và họ hàng gần vốn sinh trưởng ở
những hồ nước không sâu”[7], ưa nước, ưa nóng, ưa ánh
sáng; do điều kiện nhiệt đới gió mùa, vì vậy lúa nước tập
trung chủ yếu vào hai vụ hạ và đông (chiêm và mùa, theo
cách gọi của cư dân đồng bằng phía Bắc). Điểm này, Dương
Phù trong sách Di vật chí, ngay từ thế kỷ I, đã có chép: “Lúa
ở Giao Chỉ mỗi năm trồng hai lần vào mùa hè và mùa
đông”[8]. Sách Thủy kinh chú còn nói rõ: “Nơi gọi là Bạch
điền trồng lúa trắng, tháng bảy làm thì tháng mười chín;
nơi gọi là Xích điền thì trồng lúa đỏ, tháng chạp làm thì
tháng tư chín”[9].
Vụ mùa bắt đầu cấy vào mùa hè, nóng lắm, mưa nhiều, thích
hợp với sinh thái cây lúa hơn là vụ chiêm bắt đầu vào vụ
hanh khô.
Vân Đài và Phủ Biên ghi 85 giống lúa mùa, 35 giống lúa
chiêm.
Gia Định và Đại Nam chép 31 giống lúa mùa và 15 giống lúa
chiêm.
Ở cả hai bảng trên đều cho một tỉ lệ: mùa gần 70%, chiêm
khoảng 30%.
Tuy nhiên, do địa hình trải dài trên 15 vĩ tuyến (từ 8 độ 30
bắc, đến 23 độ 22 bắc), nhất là do vị trí đặc biệt của Việt
Nam trong châu Á gió mùa, năng lượng bức xạ quanh năm

dương, đạt trên 75 kcal/cm2/năm, nhiệt độ trung bình từ
22 độ đến 27 độ C, lượng mưa trung bình gần 2000
mm/năm, bình quân có 0,8-1 km sông hồ trên 1 km vuông
đất đai.
Đất nước, nhiệt độ, khí hậu Việt Nam thật thuận lợi cho việc
gieo trồng quanh năm[10]. Và, không dừng lại ở mức độ lệ
thuộc, mô phỏng thiên nhiên, nông dân Việt Nam đã không
ngừng vươn lên khai thác, tranh thủ những lợi thế của thiên
nhiên nhiệt đới.
Từ thế kỷ XIII, Trần Phu Sứ của nhà Nguyên, khi sang Đại
Việt, đã trầm trồ: “Lúa mỗi năm chín bốn lần, tuy giữa mùa
đông mà mạ vẫn mườn mượt”[11]. Đến thế kỷ XVIII-XIX qua
tư liệu càng thấy rõ hơn ở Việt Nam quanh năm có cấy cày,
gặt hái, ví dụ: “Đinh Châu, Văn Lang, Đại Từ, Phú Lương
(Bắc Thái ngày nay) cấy lúa 4 mùa, cứ 3 tháng một lần thu
hoạch”[12].
Như thế, các giống lúa có thời gian sinh trưởng trên 100
đến 120 này (theo sự phản ánh của tư liệu, chúng tôi coi
những giống lúa có thời gian sinh trưởng như trên là giống
lúa ngắn ngày) đã khá phát triển; đặc biệt còn có giống lúa
Câu “cấy được 48 ngày thì lúa chín”[13].
Các giống lúa ngắn ngày thường tập trung vào vụ mùa như
tám thơm, ba giăng, bát nguyệt… Càng ngày các giống ngắn
ngày số lượng càng tăng lên, từ gần 7% (qua Vân Đài và
Phủ Biên) đến gần 14% (trong Đại Nam): phải chăng điều
đó phản ánh quá trình cố gắng tìm chọn các giống lúa để
xen canh tăng vụ của nông dân Việt Nam?
Bên cạnh một số lớn các giống lúa được cấy trồng tập trung
ở đồng bằng châu thổ với chế độ nước, đất đai thuận lợi, thì
trên dải đất dài 15 vĩ tuyến với nhiều dạng địa hình đất đai

khí hậu phức tạp của Việt Nam, người nông dân đã gây
trồng được nhiều loại giống thích hợp.
Chân ruộng trũng, úng, có giống lúa cao cây, cứng, đanh
dảnh, 100% giống lúa chiêm cấy ruộng sâu chép trong Đại
Nam đều cao, cứng, thậm chí có lúa chiêm di “ngập nước
một tháng vẫn kết quả”[14].
Ở những vùng nước lợ, nước mặn ven biển có loại chịu mặn
tốt như lúa viên, lúa nước mặn.
Những vùng núi cao, hoặc xứ Thuận Hóa (Bình Trị - Thiên
ngày nay) được hình thành do phù sa biển, địa hình cồn cát,
đầm phá nhiều, nên khó giữ nước, đã gây dựng được các
loại lúa không cần nhiều nước, chịu hạn giỏi như lúa vay
“không ưa nước, cày đất qua rồi gieo hạt giống…”[15].
Về sự phát triển của các giống lúa, các tài liệu ghi chép
không nhiều. Vân Đài chỉ cho biết sức đẻ nhánh của lúa tám
sinh, hoa riềng, mít, trung bình là 4 đến 5 nhánh. Nếu so
sánh với ghi chép của sách Cổ kim chú “Năm diên quang thứ
hai đời vua An đế nhà Hán (123), ở quận Cửu Chân (Thanh
Hóa ngày nay), lúa tốt quá, 150 gốc được những 768
bông”[16] thì thấy sức đẻ của lúa đại trà thế kỷ XVIII ngang
với những khóm lúa tốt quá ở thế kỷ thứ II.
Những giống lúa được trồng phần lớn có giá trị kinh tế khá
cao, phù hợp với điều kiện kinh tế, tập quán xã hội.
Đến thế kỷ này, những phẩm chất tốt của hột gạo như
trắng, thơm, dẻo,… ngày càng chiếm tỉ lệ cao và trở thành
phẩm chất thường trực. Nếp củ nâu “thổi cơm thơm ngon,
để năm ngày vẫn dẻo”[17].
Đặc biệt là các giống lúa tám, như tám thơm, tám xoan,
“gạo trắng trong, mùi ngọt thơm, nấu cơm rất ngon để lâu
vẫn mềm”[18]. Bên cạnh đó, cư dân nông nghiệp Việt Nam,

nhất là ở vùng đồng bằng sông Hồng, sống gắn bó với ngôi
nhà tranh, mái rạ, trâu bò, bếp núc… do đó, ngoài yêu cầu về
năng suất cao, thơm ngon, cần phải có cái để lợp nhà, nấu
bếp, làm thức ăn cho trâu bò, phải chăng vì thế tập đoàn
giống lúa xưa cây cao, gần gũi với loại hình Inđica chiếm tỉ
lệ cao.
Nếp bàu hương, nếp hoa vàng “hạt tròn, to, sắc vàng, gạo
trắng thơm, chín vào tháng tám”[19] đúng tiết trung thu
của cư dân nông nghiệp, đã trở thành nếp cốm, thơm đậm
đà trong cỗ trông trăng, thành cốm vòng nổi tiếng ở vùng
Thăng Long… Trở lại, chính phong tục này, lại kích thích
quá trình gây chọn các giống trên theo hướng đó.
*
* *
Có được tập đoàn giống lúa với những phẩm chất trên,
nông dân Việt Nam đã trải qua một quá trình chọn lọc bền
bỉ và bồi dưỡng giống.
Nông dân ta quan niệm thật giản dị mà khoa học “tốt giống
tốt má” trong khâu liên hoàn “nước-phân-cần-giống”.
Qua Vân Đài và Phủ Biên, chúng tôi nhận thấy ở thế kỷ XVIII,
tính địa phương của các giống lúa còn khá sâu sắc, thường
mỗi giống lúa kèm theo một địa phương sản xuất: “lúa mộ
sản ở Thái Nguyên”, “nếp chuối sản ở Nghệ An”…Thậm chí
“năm thứ lúa tẻ héo, vàng, nự và trĩ… chỉ ở tổng Bãi Ân là
hợp thổ nghi, còn các nơi khác rất ít màu nên trồng cũng
không có thóc”[20].
Đến thế kỷ XIX, bên cạnh các giống lúa địa phương còn phổ
biến, những giống lúa trên địa bàn toàn quốc khá lớn. Theo
Đại Nam, ít nhất cũng có 19 giống nếp, 20 giống tẻ “các tỉnh
đều có”. Nhiều giống lúa ở thế kỷ XVIII còn trong phạm vi

địa phương, một trăm năm sau đã nhân lên trên địa bàn
rộng lớn với những phẩm chất tốt hơn; chẳng hạn “nếp voi
thóc to sản ở Nghệ An”, đến thế kỷ XIX “thân lúa cao, bông
lúa thưa, hạt thóc tròn lớn, được nhiều rạ sắc trắng, cơm
mềm. Bắt đầu ở Nghệ An, hiện nay các tỉnh đều có”[21].
Trong Vân Đài, Lê Quý Đôn còn chép đến “Người Nam Giao
tiếp xúc với người Chiêm, nên trồng được nhiều thứ lúa chín
về mùa hạ, gọi là lúa chiêm”[22].
Ngày nay, một số ngành nghiên cứu nông nghiệp (dựa trên
các tài liệu khảo cứu về đặc tính sinh vật, nhất là phản ứng
của lúa đối với các thời vụ gieo khác nhau trong một năm,
tính mẫn cảm đối với ánh sáng dài ngắn của một số lúa mùa
sớm ở vùng trung Trung bộ, đã phản ứng gần như lúa
chiêm ở miền Bắc) cũng cho rằng “có thể giống lúa chiêm
của ta bắt nguồn từ giống lúa mùa sớm ở Chiêm Thành đưa
lên miền Bắc và được gieo vào vụ hanh khô. Điều kiện khí
hậu từ lâu đời đã huấn luyện cho các giống lúa sớm phương
Nam được di chuyển lên phía Bắc phải sinh sống qua mùa
đông đã xây dựng dần dần những đặc tính của lúa
chiêm”[23].

*
* *

Cùng với những ghi nhận về tập đoàn giống lúa, các tài liệu
trên còn phản ánh một số mặt của kỹ thuật canh tác nông
nghiệp Việt Nam thế kỷ XVIII, XIX.
Điểm chú ý đầu tiên ở đây là công cụ và phương pháp làm
đất. Kỹ thuật cày bừa do trâu bò kéo “con trâu đi trước cái
cày đi sau”, mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đã phổ biến

ở đầu công nguyên, đến thế kỷ này đã hết sức quen thuộc ở
vùng đồng bằng.
Ở mỗi vùng, tùy theo tình trạng đất đai, nông dân ta đã sử
dụng một biện pháp cày thích hợp. Ở những chân đất thịt,
bừa khó nhỏ, khó lên bùn, thường được cày bừa nhiều lần.
Với những nơi đất mặn, cần thấm nước hoặc cát dễ tơi như
vùng Đông Thành (Yên Thành, Diễn Châu, Nghệ Tĩnh) hay
vùng ven biển Thuận Hóa (Bình - Trị - Thiên), lại chỉ cần
“cày đất qua rồi gieo hạt giống”[24].
Nói chung, đối với khâu quan trọng nhất trong quá tình làm
đất, vì nó ảnh hưởng đến tính chất của đất nhiều nhất, tốn
công nhất, là cơ sở các biện pháp làm đất tiếp sau như bừa,
vun xới, công việc cày ruộng đã được nông dân quan niệm
thật đúng “nhai kỹ no lâu, cày sâu tốt lúa”.
(Rất tiếc là các hình thức làm đất khác như xếp ải, xới đất
“hòn đất nỏ bằng giỏ phân” vốn rất phổ biến ở những vùng
như Thái Bình, Nam Định, Hải Dương không thấy các tài
liệu ghi chép).
Ở miền núi, nhất là vùng các dân tộc ít người, hình thức
“đao canh hỏa chủng” (dùng dao chặt cây, đốt lá to), hay
“đao canh thủy nậu” (dùng dao phát nhỏ, dẫn nước vào
ruộng) còn khá phổ biến. Vân Đài và Đại Nam còn chép
nhiều đến hình thức này, chẳng hạn ở miền núi Thanh Hóa:
“Làm ruộng thì không dùng cày bừa, mà chỉ cho từng đàn
trâu dẫm nát đất”[25]. Hay trong Gia Định thành thông chí:
“ruộng núi ban đầu khai thác thì đốn cây chặt củi đợi cho
khô, đốt làm phân tro, khi mưa trồng lúa không cần cày
bừa”[26].
Về kỹ thuật cấy lúa, ngày nay chúng ta còn thấy trong dân
ca, ca dao những hình thức cấy khác nhau ở từng vùng mà

nông dân đã đúc kết được. Chẳng hạn ruộng đất cát thì cấy
liền tay, đất thịt thì cấy “chày ngày”, cấy “moi” ở Ninh Bình,
cấy “húng” ở Hà Nam ( Hà - Nam - Ninh), hoặc “mạ chiêm
đào sâu chôn chặt, lúa mùa vừa đặt vừa đi”[27].
Các tài liệu trên không nhắc đến kỹ thuật này, mà chỉ cho
biết chắc chắn ở thế kỷ XVIII, XIX, hình thức gieo mạ phổ
biến là cấy lúa. Với kỹ thuật trên, cho phép người nông dân
chăm sóc được cây con trong thời kỳ mạ, tận dụng được đất
đai trong ruộng cấy, để có thể tranh thủ trồng cây khác,
hoặc làm đất kỹ hơn, diệt bớt cỏ dại…; sau ngày cấy lúa có
điều kiện phát triển nhanh.
Song bên cạnh ấy ta còn thấy hình thức gieo trực tiếp,
thường thường ở những vùng núi cao, đất cát. Ở vùng
Thuận Hóa có lúa vay “cày đất qua rồi gieo hạt giống, lại
bừa qua một lượt là lúa mọc”[28]. Và ở vùng Đông Thành,
Nghệ An “đất toàn cát…, khởi công cày bừa, gieo thóc giống
rất dày: ngay ngày gieo giống lại bừa luôn một lượt, thóc và
cát lẫn lộn…; không bao lâu lúa mọc lên tốt như cỏ”[29].
Hình thức gieo trực tiếp mà nông dân ở thời kỳ này áp
dụng, không phải chủ yếu là các biện pháp kỹ thuật để xen
vào các cây trồng, tranh thủ thời gian sinh trưởng hay để
dư thêm sức lao động, mà áp dụng vào những nơi đất cao,
thiếu nước, hoặc đất cát pha, dễ mất nước.
Phân, yếu tố quan trọng của kỹ thuật trồng lúa, cơ sở vật
chất để cấu tạo nên cây trồng, điều kiện quyết định năng
suất và sản phẩm, đã được ông cha ta nhấn mạnh “người
đẹp về lụa, lúa tốt về phân”. Khí hậu nước ta thuận lợi cho
quá trình phân hủy mùn trong đất, và nguồn phân hữu cơ
người nông dân Việt Nam thường dùng là phân xanh, phân
rác. Nguồn phân đó có thể mang lại do chính biện pháp “đao

canh thủy nậu” hay “đao canh hỏa chủng”: đó vừa là một
cách làm đất, vừa kết hợp với bón phân, được người trồng
lúa thời nguyên thủy áp dụng[30].
Đến thế kỷ này, biện pháp đó còn phổ biến đối với các ruộng
đồi núi hoặc vùng đầm lầy mới khai thác. Người ta không
chỉ sử dụng những quần thể sinh vật trên ruộng, mà còn
dùng chính “lúa còn lại không cắt đi để cho nó thối thành
phân bón ruộng càng tốt”[31]. Ngày nay, hình thức vận rạ
vẫn còn áp dụng phổ biến trong nông nghiệp, nhất là đối với
các loại ruộng trũng.
Các tài liệu trên không thấy chép đến một loại cây phân
xanh khá phổ biến, vốn phân bố rộng rãi ở vùng Đông Nam
Á, là bèo dâu (Azôba punnata). La Vân, Thái Bình nghề ươm
bèo làm phân từ lâu đã trở thành truyền thống, thành quê
hương của bèo dâu Việt Nam. Không biết ở thế kỷ này, việc
sử dụng bèo hoa dâu đã phổ biến đến mức độ nào? Hay vì bí
mật của nghề mà kỹ thuật làm bèo dâu không được truyền
bá.
Một hình thức bón phân khác mà Lê Quý Đôn trích lại tác
phẩm Tề dân yếu thuật “phép làm cho tốt ruộng thì nên
trồng đậu xanh trước, thứ đến đậu nhỏ và vừng. Các thứ cây
trồng ấy trồng vào tháng năm tháng sáu đến tháng bảy,
tháng tám thu hoạch xong, cày bừa lật úp xuống làm ruộng
trồng lúa…; những cây đậu và vừng mà cày, bừa lên như thế
sẽ bón cho ruộng tốt ngang với bón phân tằm hay phân
bắc”[32]. Chúng ta không biết đến thế kỷ này, kỹ thuật dùng
phân bắc, phân chuồng và các loại phân xanh họ đậu đã phổ
biến đến mức độ nào, song Trịnh Hoài Đức có nhắc đến một
loại phân bằng xác đậu ở vùng Đồng Nai - Gia Định thế kỷ
XIX: “xác đậu làm bánh bán cho người ta bón ruộng, mỗi

năm sản xuất hơn 400 nghìn cân”[33].
Nông dân còn biết sử dụng một hình thức bồi dưỡng đất
trồng khác bằng cách đổi giống lúa cấy trên ruộng là luân
canh. Đại Nam nhất thống chí có chép đến một chế độ luân
canh vùng ruộng vụ thu tỉnh Quảng Bình và Quảng Ngãi.
Chẳng hạn, “tháng 5, tháng 6 cấy, tháng 9, tháng 10 gặt;
tháng 2 trồng dưa, tháng 3 trồng đậu, tháng 4, tháng 5,
tháng 6 hái quả…”[34].
Sự thay đổi cây trồng trong một năm, trên một mảnh ruộng,
nhất là các loại cây họ đậu, vừng, không chỉ có ý nghĩa làm
tăng sản phẩm mà còn góp phần nâng cao độ phì cho đất,
khắc phục tình trạng sử dụng đất đai mất cân đối, phòng
ngừa cỏ dại, sâu bệnh.
*
* *

Trong phạm vi chi phối của quan hệ sản xuất phong kiến
chật hẹp, tình trạng sở hữu ruộng đất cá thể vụn vặt, sức
sản xuất thấp kém…, tập đoàn giống lúa và kỹ thuật canh
tác của Việt Nam đến thế kỷ XVIII-XIX còn bộc lộ rõ những
hạn chế sau:
- Tính địa phương sâu sắc, nhỏ hẹp, phức tạp.
- Còn mang tính dã sinh: khả năng đẻ chết, thóc có râu, gạo
đỏ cứng… Thế kỷ XVIII gần 30%, đến thế kỷ XIX còn khoảng
20%.

×