Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Vai trò của tổ chức xã hội dân sự trong hoạch định và thực thi chính sách khoa học và công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 123 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





DƢƠNG THỊ KIỀU HƢƠNG





VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ
TRONG HOẠCH ĐỊNH VÀ THỰC THI CHÍNH
SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

(NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP
TRUNG ƢƠNG ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH)






LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
MÃ SỐ: 603472






NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS.ĐẶNG NGỌC DINH









Hà Nội, 8/2008






LỜI CẢM ƠN



Tôi xin trân trọng cảm ơn thầy giáo hướng dẫn khoa học PGS.TS. Đặng
Ngọc Dinh, giáo sư Vũ Cao Đàm, các thầy giáo Khoa Khoa học Quản lý, các
thầy, cô giáo trong Hội đồng khoa học Trường Đại học khoa học Xã hội và
Nhân văn, các anh chị đồng nghiệp đã tận tình hướng dẫn, góp ý, giúp đỡ bản

thân tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này.





Tác giả luận văn
Dương Thị Kiều Hương






DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT



XHDS Xã hội dân sự
TNCS Thanh niên cộng sản
KH&CN Khoa học và Công nghệ
TNNT Thanh niên nông thôn
TNCN Thanh niên công nhân
CN,VC Công nhân, viên chức
BCH Ban chấp hành
CT-XH Chính trị-xã hội
XHCN Xã hội chủ nghĩa
CNH,HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 7
1. Sự cần thiết nghiên cứu 7
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 11
3. Mục tiêu nghiên cứu 16
4. Phạm vi nghiên cứu 17
5. Mẫu khảo sát 17
6. Câu hỏi nghiên cứu 18
7. Giả thuyết nghiên cúu 18
8. Phƣơng pháp nghiên cứu 18
9. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 20
Phần II : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 22
CHƢƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN 22
1. Một số khái niệm cơ bản 22
1.1. Khái niệm xã hội dân sự và các tổ chức xã hội dân sự 22
1.1.1. Khái niệm “Xã hội dân sự” 22
1.1.2.Khái niệm tổ chức xã hội dân sự 25
1.1.3. Khái niệm tổ chức xã hội dân sự được sử dụng trong luận
văn 37
1.2.Khái niệm về chính sách Khoa học và Công nghệ. 37
1.2.1 Khái niệm về Chính sách: . 37
1.2.2 Khái niệm chính sách Khoa học và Công nghệ 38
2. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về hoạch định và xây dựng chính
sách khoa học và công nghệ. 39
2.1. Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu 39
2.2. Khoa học và công nghệ phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nƣớc 41
2.3. Phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ 42
2.4. Xã hội hoá hoạt động khoa học và công nghệ 43
2.5. Phát huy vai trò của tuổi trẻ trong tham gia xây dựng chính
sách và thực hiện nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ. 45

CHƢƠNG II 47
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG UƠNG ĐOÀN TNCS HỒ
CHÍ MINH TRONG THAM GIA HOẠCH ĐỊNH VÀ THỰC THI
CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ 47
2.1. Một số nét đặc điểm các tổ chức xã hội dân sự của Việt nam 47
2.2. Đặc điểm tính chất XHDS của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh 49
2.2.1. Tính chất hai nhiệm vụ của Đoàn TNCS Hồ chí Minh 49
2.2.2. Tính tình nguyện của thanh niên Việt nam trong tổ chức xã
hội dân sự 51
2.2.3. Tính phi lợi nhuận trong tổ chức xã hội dân sự của thanh
niên 52
2.2.4. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là một tổ chức hoạt động vì mục
đích chung của tuổi trẻ xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ,
giàu mạnh, công bằng và văn minh
52

2.3. Bản chất về chức năng tổ chức xã hội dân sự của Trung ƣơng
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. 53
2.3.1. Bản chất về chức năng tổ chức XHDS của Trung ương Đoàn.
53
2.3.2. Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là một tổ chức quần
chúng ngày càng thể hiện rõ nét là tổ chức hoạt động phi lợi nhuận.
55
2.4. Thực trạng hoạt động của Trung ƣơng Đoàn trong việc tham
gia hoạch định, giám sát và phản biện chính sách khoa học và công
nghệ. 57
2.4.1. Kết quả hoạt động trong tham gia xây dựng pháp luật và
chính sách về khoa học và công nghệ có liên quan đến thanh niên.
57
2.4.2. Kết quả hoạt động trong giám sát chính sách khoa học và

công nghệ. 64
2.4.3. Hoạt động góp ý, phản biện xây dựng pháp luật và chính
sách khoa học và công nghệ. 66
2.4.4.Kết quả hoạt động trong giám sát việc thực hiện pháp luật và
chính sách khoa học và công nghệ 68
2.5. Đánh giá tác động của chính sách khoa học và công nghệ đối
với thanh niên. 75
2.5.1. Những chính sách có tính then chốt, quan trọng có tác
động tích cực đối với thanh niên. 75
2.6. Bàn luận về kết quả tác động của chính sách Khoa học và Công
nghệ đối với thanh niên. 81
2.7. Thực trạng hoạt động của Trung ƣơng Đoàn trong thực hiện
chính sách khoa học và công nghệ. 81
2.7.1. Kết quả hoạt động tuyên truyền, phổ biến, bồi dưỡng, tập
huấn nâng cao kiến thức về khoa học và công nghệ. 81
2.7.2. Kết quả triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ tại
Trung ương Đoàn 87
2.7.3. Tổ chức phong trào thanh niên thực hiện chính sách khoa
học và công nghệ 91
2.8. Bàn luận về kết quả hoạt động của Trung ƣơng Đoàn trong
tham gia hoạch định và thực thi chính sách khoa học và công nghệ
97
CHƢƠNG III 98
MỘT SỐ HẠN CHẾ CỦA TRUNG ƢƠNG ĐOÀN TRONG THAM
GIA HOẠCH ĐỊNH VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ 98
3.1. Những hạn chế trong tham gia hoạch định chính sách khoa học
và công nghệ 98
3.1.1.Những hạn chế về đề xuất xây dựng chính sách chuyên biệt
cho thanh niên. 98

3.1.2. Những hạn chế trong việc tham gia góp ý xây dựng và phản
biện chính sách. 100

3.2. Những hạn chế trong chính sách sử dụng và phát triển nhân
lực khoa học và công nghệ của Trung ƣơng Đoàn 101
3.3. Những hạn chế trong công tác tuyền truyền, phổ biến và triển
khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu Khoa học và Công nghệ vào
thực tiễn. 102
3.3.1. Hạn chế trong hoạt động tuyên truyền, phổ biến chính sách
Khoa học và Công nghệ. 103
3.3.2. Hạn chế trong triển khai và ứng dụng chính sách khoa học
và công nghệ. 104
CHƢƠNG IV 106
CÁC NHÓM GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ TỔ CHỨC
XHDS CỦA TRUNG ƢƠNG ĐOÀN TRONG VIỆC THAM GIA
HOẠCH ĐỊNH VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ 106
4.1. Nhóm giải pháp 1: Tham gia đề xuất và góp ý phản biện hoạch
định chính sách khoa học và công nghệ. 106
4.1.1. Giải pháp tham gia đề xuất chính sách khoa học và công
nghệ 106
4.1.2. Giải pháp tham gia góp ý, phản biện chính sách Khoa học và
Công nghệ 108
4.2. Nhóm giải pháp 2: Tăng cƣờng vai trò của Trung ƣơng Đoàn
trong tham gia thực hiện chính sách khoa học và công nghệ 109
4.2.1.Giải pháp tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chính
sách khoa học và công nghệ trong các đối tượng thanh niên. 109
4.2.2 Giải pháp củng cố tổ chức và xây dựng nhân lực khoa học và
công nghệ tại Trung ương đoàn. 112
4.2.3. Giải pháp quản lý và triển khai ứng dụng các kết quả nghiên

cứu khoa học vào thực tiễn công tác Đoàn và phong trào Thanh
Thiếu niên. 113
4.3. Nhóm giải pháp thứ 3: Tăng cƣơng các biện pháp chỉ đạo và
liên kết của Trung ƣơng Đoàn trong công tác triển khai hoạt động
khoa học và công nghệ cho thanh niên. 115
4.3.2 Giải pháp liên kết, phối hợp với các ban, ngành để triển khai
hoạt động hoạch định và thực thi chính sách khoa học và công
nghệ trong thanh niên. 115
KẾT LUẬN 117
KHUYẾN NGHỊ 119
1.Đối với Đảng và Nhà nƣớc 119
2. Đối với các bộ, ban, ngành 119
3. Đối với Trung ƣơng §oàn TNCS Hồ Chí Minh. 120
TÀI LIỆU THAM KHẢO 121


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu
1.1. Tổ chức Xã hội dân sự, vấn đề đang được quan tâm
Xã hội dân sự (XHDS) được biết đến từ thời kỳ Cổ đại ở phương tây
nhưng chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 90 của thế kỷ XX. Ở Việt
Nam, từ khi Đảng ta khởi xướng sự nghiệp đổi mới việc nhìn nhận và đánh
giá về vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội (CT-XH) ngày càng cởi mở và
thực chất hơn. Vì vậy XHDS cũng có cơ hội phát triển và phát huy vai trò to
lớn của mình trên mọi lĩnh vực, đặc biệt trong việc xoá đói giảm nghèo và từ
thiện nhân đạo.
Trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, cùng với việc
thừa nhận phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, quá trình đổi mới
hệ thống chính trị nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN đảm bảo
mọi quyền lực thuộc về nhân dân đã thu được những thành tựu đáng kể. Quá

trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân đã
được thực thi trên thực tế. Cuộc sống của nhân dân được cải thiện. Xã hội
dân sự có cơ hội và điều kiện để phát huy vai trò của mình trong cuộc cuộc
phát triển đất nước. Mọi người dân được tham gia một cách chủ động, tự giác
tích cực, thiết thực và đa dạng hơn vào các tổ chức xã hội vì nhu cầu, lợi ích
của chính bản thân người dân và cả cộng đồng trên cơ sở tuân theo pháp luật
và đạo lý của dân tộc Việt Nam. Nhưng để xây dựng và phát huy ngày càng
có hiệu quả vai trò của Nhà nước thì tất yếu phải xây dựng và phát huy mạnh
mẽ vai trò của XHDS trong tham gia hoạch định và thực thi các chính sách
kinh tế-xã hội, trong đó đặc biệt quan tâm đến chính sách khoa học và công
nghệ để phát triển đất nước trong xu thế hội nhập mạnh mẽ như hiện nay.
1.2. Thành phần, bản chất của tổ chức xã hội dân sự
Xã hội dân sự (XHDS) bao gồm các tổ chức xã hội nằm ngoài Nhà nước,
nằm ngoài các hoạt động của doanh nghiệp (thị trường), nằm ngoài gia đình,
để liên kết người dân với nhau trong những hoạt động vì mục đích chung.

Thành phần quan trọng của xã hội dân sự là các Hội, hiệp Hội trong dân
chúng, trong làng xóm, mang tính chất liên kết cộng đồng
1
. Lịch sử phát triển
của nhiều quốc gia trên thế giới đã chứng minh rằng các tổ chức xã hội dân sự
ngày càng góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội
của mỗi quốc gia.
Bản chất của xã hội dân sự đó là những tổ chức liên kết cộng đồng có
vai trò rất lớn trong việc thu hút, tập hợp cộng đồng cùng tham gia thực hiện
những hoạt động vì mục đích chung. Mục đích chung mà các tổ chức xã hội
dân sự hướng tới đó là đưa đến những kết quả thúc đẩy sự phát triển của Nhà
nước, xã hội, gia đình và bản thân. Với sự liên kết các thành viên trong tổ
chức của mình, xã hội dân sự có vai trò hỗ trợ và giúp đỡ người dân thực thi
luật pháp luật và phản ánh nguyện vọng của mình trong mục tiêu phát triển vì

lợi ích chung của xã hội. Một trong những phẩm chất tích cực của các tổ chức
xã hội dân sự là khả năng liên kết để thực hiện các chính sách xã hội đối với
người nghèo và nhóm người kém vị thế trong khi các chương trình của Chính
phủ khó có thể kham nổi. Sức mạnh của các tổ chức xã hội dân sự là tính
chuyên môn hoá và đưa ra những ý tưởng và phương thức mới mẻ để liên kết
các thành viên với nhau.
Xã hội dân sự là một đối tác bình đẳng với Nhà nước, có vai trò tổ chức,
vận động các thành viên cùng tham gia hoạch định và thực thi chính sách,
đồng thời thực hiện và giám sát việc thực hiện các chính sách của Nhà nước.
Các thành viên của các tổ chức xã hội dân sự có quyền phản ánh, phản biện
xã hội nhằm góp phần hoàn thiện các chính sách của Nhà nước, làm cho các
chính sách của Nhà nước ngày càng có hiệu quả hơn.
Như vậy, các tổ chức xã hội dân sự được xem như là chủ thể quan trọng
trong nền kinh tế, bên cạnh Nhà nước và thị trường. Xã hội dân sự đóng vai
trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Nhiều nhà nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn đã kết luận rằng: Một xã hội

1
Norlund I., Đặng ngọc Dinh và ctv,Đánh giá ban đầu về xã hội dân sự ở Việt nam, Báo cáo khoa học Dự án
CIVICUS SCI-SAT, Hà nội, 2006.

muốn đạt mục tiêu phát triển bền vững phải được điều hành trong một hệ
thống gồm “3 đỉnh” gắn kết chặt chẽ với nhau, đó là: Thể chế Nhà nước, thể
chế thị trường và thể chế xã hội dân sự (Hình 1)


Hình 1. Ba đỉnh thể chế trong Phát triển bền vững
1.3. Đặc điểm của các tổ chức chính trị-xã hội ở Việt Nam
Hiện nay, ở nước ta các tổ chức xã hội dân sự mang tính chất đoàn thể
nhân dân bao gồm: Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh,

Hội Phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu Chiến binh. Các tổ chức này có hệ thống
từ Trung ương đến cơ sở, hoạt động theo Điều lệ do Hội nghị toàn thể hoặc
Hội nghị Đại biểu các thành viên thông qua.
Tính đến thời điểm tháng 12/2005 ở Việt Nam có 400 Hội có phạm vi
hoạt động toàn quốc, 2150 Hội có phạm vi hoạt động cấp tỉnh và hàng chục
vạn hội có phạm vi hoạt động cấp quận, huyện, thị, xã mang tính chất các tổ
chức xã hội-nghề nghiệp, các Hiệp hội nghiên cứu và phát triển khoa học, kỹ
thuật và công nghệ
2
.
Các tổ chức XHDS nằm trong hệ thống (chính trị-xã hội) này đang trở
thành đối tác quan trọng của Chính phủ và ngày càng khẳng định vai trò của
mình trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Đặc biệt trong
công tác xoá đói giảm nghèo. Mục đích hoạt động chung của các tổ chức
chính trị-xã hội là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các hội viên, góp
phần tuyên truyền và tổ chức vận động nhân dân thực hiện đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia xây dựng và củng cố

2
Báo cáo của Bộ nội vụ năm 2005.
Thể chế
Nhà nước
Thể chế thị
trường
Thể chế xã
hội dân sự

chính quyền nhân dân; giáo dục pháp luật cho các thành viên; phản ánh yêu
cầu, nguyện vọng của các thành viên, đoàn viên, hội viên; tham gia giám sát,
phản biện chính sách hoặc giám sát hoạt động của các cơ quan và cán bộ,

công chức Nhà nước và của hệ thống chính trị.
1.4. Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh - Một tổ chức của thế hệ
trẻ
Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là một tổ chức chính trị - xã hội
của thanh niên Việt Nam, có hệ thống tổ chức từ Trung ương đến cơ sở. Bên
cạnh chức năng là trường học xã hội chủ nghĩa của Thanh niên, tuyên truyền,
tổ chức vận động các thành viên trong tổ chức mình thực hiện đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng và củng cố
chính quyền nhân dân; Đoàn còn có chức năng đại diện chăm lo bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của tuổi trẻ đã được quy định trong Điều lệ Đoàn; Giáo
dục pháp luật cho các thành viên, phản ánh nhu cầu, nguyện vọng của các
thành viên; Tham gia phản biện, đánh giá các chính sách nhằm phát triển kinh
tế-xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, thực tế trong thời gian qua Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh mới thực hiện tốt vai trò tuyên truyền, vận động thanh niên thực hiện
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đối với chính sách Khoa
học và Công nghệ việc tham gia hoạch định và thực thi vẫn còn bị động, đôi
lúc mang tính hình thức.
Vai trò đánh giá, phản biện xã hội đối với chính sách Khoa học và
Công nghệ vẫn còn những hạn chế, bất cập. Chưa khuyến khích tính tích cực,
chủ động của tổ chức đại diện cho thế hệ trẻ trong tham gia hoạch định, đánh
giá, thẩm định các chính sách trong đó có chính sách khoa học và công nghệ,
một trong những chính sách quan trọng được coi là quốc sách hàng đầu, là
nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu vai trò của Trung ương Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh nhằm phát huy hơn nữa tính tích cực, chủ động và sáng

tạo của tuổi trẻ trong tham gia hoạch định và thực thi chính sách Khoa học và
Công nghệ là vấn đề rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Xã hội dân sự là vấn đề không mới với thế giới, song ở Việt Nam đây là
vấn đề khá mới mẻ không chỉ cho những người bình thường mà kể cả những
nhà quản lý và các nhà khoa học. Vì vậy, để tổng quan lại những vấn đề
nghiên cứu, tác giả chưa có tham vọng nêu được nhiều vấn đề mà chỉ đi sâu
tìm hiểu các công trình, đề tài, luận văn khoa học mà một số tác giả trong và
ngoài nước đã đề cập đến vấn đề liên quan trực tiếp đến “XHDS và tổ chức xã
hội dân sự”.
2.1.Trên thế giới
Thế giới đã có nhiều nhà khoa học tập trung nghiên cứu về xã hội dân sự
ngay sau khi đại chiến thế giới lần thứ II kết thúc. Tuy nhiên, cách đây gần 30
năm, vào những năm 80 của thế kỷ XX, sự phát triển của XHDS bùng nổ như
là một hiện tượng chính trị trong đời sống xã hội của nhiều nước và nhiều nhà
khoa học đã tập trung nghiên cứu các vấn đề về xã hội dân sự, đặc biệt là đi
sâu nghiên cứu về bản chất, cấu trúc và các loại hình xã hội dân sự.
- Năm 1989, Daniel Bell đã đưa ra công trình nghiên cứu “Vai trò của
xã hội dân sự” (The role of civil Society). Trong công trình này, tác giả chủ
yếu phân tích các vai trò chủ yếu của xã hội dân sự trong đời sống xã hội lúc
bấy giờ.
- Năm 1990 Charles Taylor xuất bản cuốn sách “Các kiểu xã hội dân sự”
(Modes of civil Society)
- Năm 1991 Michael Waltzer có công trình nghiên cứu về “Ý tưởng của
xã hội dân sự” (The Idea of civil Society)
3


3
Đặng Ngọc Dinh-Vũ Duy Phú,Trần Chí Đức, Nguyễn Vi Khải, Xã hội dân sự, Một số vấn đề chọn lọc,
NXB Tri thức, Tr.51.

- Năm 1991-Edward Shils, có công trình nghiên cứu về “Những ưu điểm

của XHDS” (The Virtues of Civil Society)
- Tháng 4 năm 2008- giáo sư Stein Kuhnle trường quản lý Hertie Berlin
đã trình bày công trình nghiên cứu về vai trò của XHDS trong sự phát triển
của Nhà nước phúc lợi Bắc Âu”
4
. Khi phân tích mô hình phúc lợi Bắc Âu
giáo sư Stein Kuhnle cho rằng mô hình Nhà nước phúc lợi Bắc Âu có nhiều
điểm phù hợp với mô hình tổ chức XHDS. Tuy nhiên tính bền vững của mô
hình này cần phải có thời gian để kiểm chứng. Tác giả cũng đưa ra mô hình
“XHDS” phương thức thứ ba và ông cũng cho rằng nên chăng phải có những
mô hình đa dạng hơn về XHDS như “Phương thức trung gian”, “Nền chính trị
thoả hiệp”, “Dân chủ dựa trên sự đồng thuận”.
Khi kết luận về mô hình “Nhà nước phúc lợi ở Bắc Âu” ông cho rằng
đây là mô hình mà nhiều nước trên thế giới quan tâm vì đó là hình thức mà ở
đó Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật, chịu trách nhiệm bảo vệ, thúc đẩy
sự thịnh vượng và phúc lợi căn bản của tất cả các thành viên xã hội.
- Tiến sỹ Irene Norlund
5
tại cuộc hội thảo “XHDS của Việt Nam trong
thời kỳ hội nhập kinh tế và phát triển bền vững” đã thuyết trình công trình
nghiên cứu “các diễn ngôn quốc tế về XHDS”. Trong công trình nghiên cứu
đó, TS. Irene tập trung nêu 3 mô hình tiếp cận XHDS, đó là:
+ Mô hình XHDS 1 - là một mô hình tân tự do.
Ở mô hình này tác giả nêu rõ XHDS là các hiệp hội. Các hiệp hội này
nằm ngoài thị trường nhưng lại có mối quan hệ tương tác với xã hội chính trị
và Nhà nước. Nó là cầu nối làm cân bằng giữa Nhà nước và gia đình.
+ Mô hình XHDS 2 – “Xã hội tốt lành”
Đây là một mô hình mà tổ chức XHDS tốt lành nhất, có mối liên hệ với
thị trường, gia đình và Nhà nước, song tính tự chủ của XHDS rất cao. Mô
hình này nhấn mạnh sự tương tác giữa các khu vực trong việc tạo ra chính


4
Vũ Duy Phú-Đặng Ngọc Dinh, Sđd tr.152
5
Các diễn ngôn quốc tế về XHDS. Hội thảo “XHDS của VN trong thời kỳ hội nhập, HN 4/4/2008

sách. Vì vậy, chính sách được kỳ vọng là đem lại sự đồng thuận, hoà bình và
tốt lành cho tất cả mọi người.
+ Mô hình XHDS 3- Hậu hiện đại – lĩnh vực công.
Đây là mô hình xây dựng được quyền công dân thiết thực. Hoạt động
của XHDS và các tổ chức khác chủ yếu thông qua đối thoại và các cuộc tranh
luận dân chủ được mở rộng, không có mệnh lệnh của Nhà nước.
Đây là mô hình rất mới ở Việt Nam. Vai trò cơ bản của XHDS ở đây là
tạo ra sự chia sẻ chấp nhận nhau, thấu hiểu lẫn nhau và khoan dung giữa các
bên tham gia đối thoại.
2.2. Ở Việt Nam
Xã hội dân sự ở Việt nam xuất hiện từ rất sớm, song để nghiên cứu nó
chỉ trong thời gian gần đây mới xuất hiện một số công trình, đề tài và tham
luận khoa học về XHDS.
- Trước tiên phải kể đến một công trình nghiên cứu do PGS.TS Đặng
Ngọc Dinh và các cộng tác viên Viện Những vấn đề phát triển (VIDS) thực
hiện: “Đánh giá ban đầu về XHDS tại Việt Nam”. Công trình được sự hỗ trợ
của chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), các tổ chức phát triển
của Hà Lan tại Việt Nam và Liên minh thế giới vì sự tham gia của người dân
(CIVICUS). Công trình thực hiện trong 2 năm. Trên cơ sở phân tích bối cảnh
lịch sử của XHDS Việt Nam, các cấu trúc, môi trường, các giá trị và tác động
của XHDS, các tác giả đã đánh giá một số điểm mạnh, yếu của XHDS ở Việt
Nam.
Theo công trình này, điểm mạnh của XHDS ở Việt Nam là đã có cơ sở
pháp lý xây dựng XHDS từ những năm giữa của thế kỷ XX với những mô

hình Hội và các Hiệp Hội (Sắc lệnh số 1025L/L004, ngày 20/5/1957 quy định
quyền lập Hội do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký). XHDS ở Việt Nam có nhiều tổ
chức và ở tất cả các cấp, hoạt động trên khắp đất nước, có nhiều hoạt động từ
thiện như giúp đỡ người nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. XHDS

ở Việt Nam đã có nhiều hoạt động hợp tác tích cực với Nhà nước, thể hiện rõ
vai trò trong bảo vệ quyền lợi chính đáng cho công dân.
Điểm yếu của tổ chức XHDS ở Việt Nam là do môi trường chính trị-xã
hội chưa thuận cho phép các tổ chức XHDS phát triển đầy đủ. Các điều kiện
pháp lý còn ảnh hưởng và hạn chế việc thành lập và phát triển các tổ chức
XHDS. Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong việc xây dựng các chính
sách, các chủ trương. Các tổ chức xã hội chỉ đóng vai trò tác động thực hiện
các chính sách đó.
Cuối cùng công trình “Đánh giá ban đầu về XHDS tại Việt Nam đã đưa
ra một số khuyến nghị nhằm bảo trợ và phát triển các tổ chức XHDS ở Việt
Nam trong thời gian tới.
- Nguyễn Minh Phương-TS Triết học, Viện Khoa học Tổ chức Nhà
nước (Bộ Nội vụ) cũng đã quan tâm đến vấn đề tổ chức XHDS ở Việt Nam
bằng bài viết: “Vai trò của XHDS ở Việt nam hiện nay”.
6
Tác giả đã trình bày
một số vấn đề về nhận thức và vai trò của XHDS, các chức năng cơ bản của
XHDS. Tác giả cho rằng XHDS là một trong ba khu vực cơ bản của xã hội, là
một đỉnh của tam giác phát triển xã hội. Kinh tế thị trường là yếu tố quyết
định trực tiếp đến sự phát triển cân bằng và bền vững của xã hội”. Tác giả cho
rằng XHDS ở Việt Nam hiện nay là cầu nối các cá nhân với Nhà nước; tham
gia hoạch định và phối hợp với Nhà nước thực hiện các chủ trương, chính
sách, tổ chức phản biện xã hội đối với các chính sách, giám sát hoạt động của
đội ngũ công chức, góp phần phát huy các nguồn lực nhằm thúc đẩy sự phát
triển kinh tế-xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Trong đó tác

giả rất quan tâm đến quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
trong việc phát triển các Hội, Hiệp hội. Tác giả nhấn mạnh thời gian tới Việt
nam có xu hướng phát triển tổ chức XHDS với mô hình tổ chức chính trị-xã
hội là phù hợp nhất.

6
Nguyễn Minh Phương-Tạp chí Triết học số 2 (177) tháng 2/2006

- Đinh Văn Ân TS kinh tế, Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế
Trung ương và Thạc sỹ Lương thị Minh Anh có bài viết: “Các tổ chức XHDS
trong hoạch định và thực thi chính sách kinh tế-xã hội tại Việt Nam
7
. Bài viết
đã phân tích, nhận dạng vai trò của các tổ chức XHDS trong quá trình hoạch
định và thực thi chính sách kinh tế-xã hội. Các tác giả đã phân tích 5 nội dung
hoạt động cơ bản của các tổ chức XHDS ở Việt Nam trong thời gian qua là:
+ Tham gia đóng góp, phản biện xã hội đối với các chính sách kinh tế-
xã hội của Nhà nước.
+ Giám sát, góp ý hoạt động của bộ máy Nhà nước và phẩm chất, hành
vi của công chức.
+ Tham gia vào việc thực hiện các chính sách kinh tế-xã hội.
+ Cung cấp dịch vụ công.
+ Cầu nối quan trọng cho quá trình mở cửa hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, các tác giả cũng thấy điểm hạn chế của các tổ chức này là
vai trò trong tham gia hoạch định, phản biện các chính sách còn mang tính
hình thức, còn quan tâm nhiều hơn đến những chính sách nằm trong quyền lợi
và hoạt động của mình.
- Tại cuộc hội thảo “Vai trò của các Hiệp hội trong phát triển XHDS ở
Việt Nam - Một số định hướng nghiên cứu”
8

tác giả Nguyễn Văn Chiến đã
phân tích 4 vai trò cơ bản của XHDS ở nước ta, đó là: Tham gia bảo vệ và
phát triển xã hội; Chăm lo lợi ích cho các thành viên; Tự giáo dục và điều tiết
xã hội”
Tiến sỹ Đinh Văn Ân cho rằng: “Các tổ chức XHDS bao gồm các đoàn
thể và các hội, trong đó đoàn thể được hiểu là các tổ chức quần chúng; còn
các hội là tổ chức của những người cùng nghề nghiệp, cùng sở thích hay cùng

7
Tạp chí quản lý kinh tế-số 72,tr.3
8
Nguyễn Văn Chiến-Hội thảo đã nêu-HN 13/9/2007

chính kiến, tự nguyện tham gia các hoạt động hướng đến bảo vệ lợi ích chung
cho các thành viên”
Khái quát lại, mặc dù XHDS là vấn đề mới được nhắc đến ở Việt Nam,
song thời gian qua đã có không ít các công trình, đề tài, bài viết nghiên cứu,
bàn luận về vấn đề này. Luận văn chỉ khái lược một số công trình nghiên cứu
của các tác giả trong và ngoài nước về XHDS và các tổ chức XHDS. Nhìn
chung, các nghiên cứu hoặc bài tham luận chủ yếu tập trung đưa ra các khái
niệm về XHDS, vai trò, chức năng, tính chất, đặc điểm của các tổ chức XHDS
ở Việt Nam trong thời gian qua và hướng tới sự phát triển các tổ chức XHDS
trong quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam. Đặc biệt các
nghiên cứu cũng đi sâu phân tích những đặc điểm của tổ chức chính trị-xã hội,
những yếu tố nội tại cũng như những điều kiện khách quan làm hạn chế sự
phát triển của tổ chức XHDS. Các tác giả cũng mong muốn và tin rằng trong
xu thế toàn cầu hoá và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, với quan điểm
và tư duy đổi mới của Đảng và Nhà nước, vai trò XHDS và các tổ chức
XHDS ở Việt Nam cần được nghiên cứu, đánh giá và phát triển tốt hơn để
phát huy cao hơn nữa vai trò của thế hệ trẻ trong tham gia hoạch định và thực

thi các chính sách kinh tế-xã hội, trong đó đặc biệt quan tâm đến chính sách
KH&CN. Đây chính là khoảng trống trong nghiên cứu về vai trò của tổ chức
xã hội dân sự của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong tham gia hoạch định và
thực thi chính sách KH&CN mà luận văn cần tập trung khai thác để phát huy
tiềm năng của thanh niên phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Phân tích làm rõ vai trò của Trung ương Đoàn trong tham gia hoạch
định và thực thi chính sách Khoa học và Công nghệ.
3.2. Làm rõ những bất cập và hạn chế trong việc tham gia hoạch định và
thực thi chính sách Khoa học và Công nghệ.

3.3. Đề xuất các giải pháp thúc đẩy vai trò của Trung ương Đoàn trong
tham gia hoạch định và thực thi chính sách Khoa học và Công nghệ.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là một tổ chức chính trị - xã hội
của thế hệ trẻ với hai chức năng cơ bản đó là chức năng Nhà nước thông qua
hoạt động chính trị của thanh niên để thực hiện các nhiệm vụ của Đảng và
Nhà nuớc và chức năng xã hội để phát huy vai trò xã hội trong thanh niên.
Trong phạm vi một luận văn này tác giả chỉ tập trung nghiên cứu vai trò tổ
chức xã hội dân sự của Trung ương Đoàn ở khía cạnh chức năng xã hội dân
sự trong việc tham gia hoạch định và thực thi chính sách Khoa học và Công
nghệ. Cụ thể :
- Nghiên cứu khía cạnh tham gia hoạch định chính sách KH&CN
- Nghiên cứu khía cạnh thực thi và phản biện chính sách KH&CN
- Phạm vi thời gian: Thời gian từ năm 2000 đến nay
5. Mẫu khảo sát
Mẫu khảo sát sẽ được thực hiện trong các đơn vị phòng, ban có tham
gia hoạt động khoa học và công nghệ tại Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh. Cụ thể: Viện Nghiên cứu Thanh niên, Trung tâm phát triển Khoa học -

Công nghệ và Tài năng trẻ; các phòng, ban thuộc Trung ương Đoàn có liên
quan đến hoạt động Khoa học và Công nghệ.
Đề tài tiến hành phỏng vấn sâu 20 cán bộ hoạt động trong lĩnh vực Khoa
học và Công nghệ tại các ban, đơn vị thuộc Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh. Cụ thể: Phỏng vấn sâu một số thành viên Hội đồng khoa học, một số
chuyên gia hoạt động trong lĩnh vực quản lý và một số thanh niên đang hoạt
động trong lĩnh vực KH&CN.



6. Câu hỏi nghiên cứu
Nguyên nhân nào dẫn đến những hạn chế, bất cập trong tham gia hoạch
định và thực thi chính sách Khoa học và Công nghệ của Trung ương Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh với tư cách là một tổ chức xã hội dân sự.
7. Giả thuyết nghiên cúu
Phải chăng đến nay các chính sách Khoa học và Công nghệ chưa thâm
nhập vào giới trẻ, có một nguyên nhân là chưa huy động được sự tham gia của
Trung ương Đoàn với tư cách là một tổ chức xã hội dân sự trong việc bồi
dưỡng, đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trẻ trong lĩnh vực Khoa học và
Công nghệ.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp xã hội học, bao gồm các phương pháp nghiên
cứu (phân tích tài liệu, phỏng vấn sâu, quan sát) cụ thể:
8.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tư liệu:
+ Mục đích
Phân tích tài liệu nhằm khái quát các mô hình, phương thức hoạt động
với vai trò là một tổ chức xã hội dân sự của tuổi trẻ. Đồng thời tìm hiểu những
thuận lợi, khó khăn trong quá trình tham gia hoạch định và thực thi chính sách
khoa học và công nghệ.
Trên cơ sở những tư liệu, số liệu thu thập được đề tài sẽ đánh giá tổng

thể từng khía cạnh. Phân tích các dữ liệu cần thiết để làm rõ vai trò là một tổ
chức xã hội dân sự của Trung ương Đoàn trong việc hoạch định và thực thi
chính sách KH&CN.
+ Loại tài liệu được sử dụng để phân tích:
- Các đề tài khoa học, sách, báo, tạp chí, kỷ yếu, tài liệu tham khảo các
báo cáo hàng năm về hoạt động KH&CN của Trung ương Đoàn.

- Các văn kiện, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước về XHDS và xây
dựng xã hội dân sự ở Việt nam.
+ Phương thức tiến hành:
Tra cứu, đọc và phân tích tài liệu tại Thư viện Quốc gia, Viện Những
vấn đề phát triển, tại Trung tâm phát triển khoa học công nghệ và Tài năng trẻ;
Viện Nghiên cứu Thanh niên, Học viện Thanh Thiếu Niên Việt nam- Trung
ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và tìm kiếm trên mạng Internet.
8.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
+ Phỏng vấn sâu tìm hiểu bản chất vấn đề
Đây là đề tài nghiên cứu về vai trò tổ chức xã hội dân sự của Trung ương
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong việc tham gia hoạch định và thực hiện chính
sách Khoa học và Công nghệ. Chính vì vậy, đề tài sẽ tập trung khai thác sâu các
cuộc trả lời phỏng vấn sâu nhằm tìm hiểu bản chất vấn đề đó là khai thác khía
cạnh XHDS của một tổ chức đại diện cho thế hệ trẻ trong tham gia hoạch định
và thực hiện chính sách KH&CN. Thời gian qua, Trung ương Đoàn đã tiến hành
được những hoạt động nào trong việc hoạch định và thực thi chính sách khoa
học và công nghệ có liên quan đến thanh niên. Lý giải những nguyên nhân dẫn
đến hạn chế trong hoạch định và thực thi chính sách khoa học và công nghệ.
Những thông tin thu được rất có giá trị để sử dụng trong quá trình phân tích và
viết báo cáo.
+ Phương thức tiến hành:
- Thiết kế 2 loại mẫu phỏng vấn sâu dành cho 2 đối tượng: Một dành cho
cán bộ quản lý khoa học và công nghệ, các thành viên Hội đồng khoa học, các

nhà khoa học và một số chuyên gia hoạt động trong lĩnh vực quản lý KH&CN
tại Trung ương đoàn và một số ban ngành có liên quan; mẫu thứ hai dành cho
đoàn viên thanh niên đang hoạt động trong lĩnh vực khoa học & công nghệ và
thanh niên đang làm việc ở khối doanh nghiệp; Thanh niên làm việc ở ban thanh
niên nông thôn, ban thanh niên đô thị.

- Đề tài sẽ tiến hành phỏng vấn sâu 20 cán bộ, thanh niên đang hoạt động
trong lĩnh vực Khoa học và Công nghệ, cán bộ quản lý Khoa học và Công nghệ,
thành viên Hội đồng khoa học, các cán bộ lãnh đạo Trung ương Đoàn phụ trách
lĩnh vực hoạt động Khoa học và Công nghệ và một số chuyên gia hoạt động
trong lĩnh vực quản lý hoạt động khoa học công nghệ tại Trung ương Đoàn và
một số ban ngành có liên quan.
8.3. Phương pháp quan sát
Đề tài sẽ quan sát quá trình tham gia hoạch định và thực thi chính sách
Khoa học và Công nghệ tại Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Phân tích,
đánh giá nhằm làm rõ vai trò xã hội dân sự của Trung ương Đoàn trong việc
tham gia hoạch định và thực thi chính sách Khoa học và Công
9. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
9.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài hệ thống hoá và đưa ra một số lý luận chung về xã hội dân sự,
trong đó đánh giá vai trò XHDS của Trung ương Đoàn với tư cách là một tổ
chức của thế hệ trẻ trong việc tham gia hoạch định và thực thi chính sách
khoa học và công nghệ. Từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát
huy hơn vai nữa tính tích cực, chủ động trong tham gia góp ý xây dựng và
thực thi chính sách về khoa học và công nghệ.
9.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đề tài góp phần nâng cao nhận thức cho cán bộ Đoàn, đoàn viên thanh
niên về XHDS.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài, trực tiếp là những kiến nghị sẽ góp
phần thúc đẩy vai trò của tổ chức XHDS của Trung ương Đoàn trong việc chủ

động, tích cực tham gia hoạch định các chính sách có liên quan đến thanh
niên, đặc biệt là chính sách khoa học và công nghệ.

- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu và công tác chỉ đạo của Trung ương
Đoàn đối với hoạt động khoa học và công nghệ.



Phần II : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

CHƢƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Khái niệm xã hội dân sự và các tổ chức xã hội dân sự
1.1.1. Khái niệm “Xã hội dân sự”
Xã hội dân sự là một khái niệm được xuất hiện rất sớm ở nhiều nước
trên thế giới, nhất là các nước châu Âu vào khoảng 1400. Trong nghĩa ban
đầu, xã hội dân sự (XHDS) cùng nghĩa với xã hội công dân, sự hình thành và
phát triển XHDS đánh dấu một bước tiến trong cách tổ chức xã hội, bao gồm
các thiết chế công quyền, các công dân, các luật lệ và các quy tắc nhà nước
của đời sống xã hội
9
. Sau đó trong một số lý thuyết như lý thuyết của các nhà
triết học Scottish (ở thế kỷ thứ XVIII) thì cho rằng “XHDS có nghĩa là xã hội
văn minh với một nhà nước không độc đoán”. Đến thế kỷ thứ XIX, ở nước
Đức, Hêghen cho rằng: XHDS là những tổ chức phân biệt với nhà nước.
Hêghen mô tả XHDS như là một phần của đời sống đạo đức, bao gồm ba yếu
tố gia đình, xã hội và Nhà nước, trong đó các cá nhân theo đuổi những lợi ích
riêng trong giới hạn đã được pháp luật thừa nhận.
Ở nước ta theo một số nhà nghiên cứu thì vào những năm 90 của thế kỷ XX

một số tổ chức đoàn thể và các hội được thành lập và đã được thừa nhận có tính
pháp lý mang tính chất xã hội dân sự như “Luật 102/L.0 1957 quy định về quyền
lập Hội, Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001, Chỉ thị 202/1990 của Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng, Nghị định 88/2003 của Thủ tướng Chính phủ
10
. Những năm
gần đây vấn đề xã hội dân sự mới thực sự thu hút sự quan tâm chú ý của các nhà
nghiên cứu lý luận, bởi vì xét về bản chất, xã hội dân sự có thể được coi là một
thành quả của sự phát triển xã hội, xã hội càng phát triển thì vai trò dân sự trong
xã hội phát triển càng mạnh. Nước ta trong quá trình phát triển từ một nền kinh


Trần Việt Phương, bài nói tại Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ (22/9/2004)
10
Phạm chi Lan, Vai trò của các Hiệp hội Việt Nam trong vận động chính sách (Sdd.tr.24)

tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa cùng với sự đổi mới nhiều mặt về chính trị-xã hội đã ngày càng xác định
vị thế và vai trò của tổ chức xã hội dân sự. Vai trò của “xã hội dân sự” đang trở
thành những điểm nổi lên trong các cuộc thảo luận của cả giới nghiên cứu khoa
học lẫn các nhà hoạch định chính sách.
Theo PGS Đặng Ngọc Dinh (Viện những vấn đề phát triển-VIDS) thì
“ XHDS bao gồm các tổ chức xã hội nằm ngoài nhà nước, nằm ngoài các hoạt
động doanh nghiệp (thị truờng), nằm ngoài gia đình, để liên kết người dân với
nhau trong những hoạt động vì một mục đích chung”. Thành phần quan trọng
của xã hội dân sự là các Hiệp Hội, các Hội trong dân chúng, trong làng xóm
mang tính chất liên kết cộng đồng.
Mặt khác, PGS. TS. Đặng Ngọc Dinh cũng cho rằng XHDS là diễn đàn,
là nơi mọi người bắt tay nhau để thúc đẩy quyền lợi chung. XHDS là tổ chức
hỗ trợ người dân thực thi pháp luật, đồng thời phản ánh nguyện vọng của

người dân. XHDS là tổ chức của những người tuân theo pháp luật nhà Nước,
tuân theo quy luật thị trường, nhưng thúc đẩy khía cạnh đạo đức, khai thác
tính nhân văn, tính cộng đồng
11

Tiến sĩ kinh tế Đinh Văn Ân và thạc sĩ Lương Thị Minh Anh (Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương) thì cho rằng: “Tổ chức xã hội dân sự
là tổ chức của những người cùng sở thích, cùng nghề nghiệp hay cùng chính
kiến, tự nguyện tập hợp và hoạt động hướng đến bảo vệ lợi ích chung cho các
thành viên”. Cũng có ý kiến cho rằng xã hội dân sự là “Diễn đàn giữa gia đình,
Nhà nước và thị trường, nơi mà mọi người bắt tay nhau thúc đẩy quyền lợi
chung.”
12

Trong bài viết “Xã hội dân sự”: “Khái niệm và các vấn đề”, PGS-TS
Bùi Quang Dũng-Phó viện trưởng Viện Xã hội học đưa ra khái niệm:
“XHDS” được tạo lập bởi các đoàn thể nhằm kết nối giữa những nhóm quyền

11
PGS.TS Đặng Ngọc Dinh-XHDS-bản chất, cấu trúc và xu h ướng phát triển ở nước ta. Bài tham luận t ại
Hội thảo về “ Những vấn đề lý luận và thực tiễn về XHDS”, Viện nghiên cứu khoa học, Bộ Nội vụ, Hà Nội,
2007
12
Tạp chí quản lý kinh tế-Các tổ chức XHDS trong hoạch định và thực thi chính sách kinh tế-xã hội tại
VN,tr/3

lợi hiện đại như công đoàn và các đoàn thể có tính chuyên nghiệp và những tổ
chức truyền thống dựa trên mối quan hệ họ hàng, dân tộc, văn hoá và khu vực
giũa các tổ chức chính thức và phi chính thức, những đoàn thể tự nguyện làm
việc vì quyền lợi chung. Nói một cách đơn giản, các tổ chức xã hội dân sự là

các tổ chức thể hiện nguyện vọng và nhu cầu của người dân. Người dân tự tổ
chức lại căn cứ theo nhu cầu, nguyện vọng hay tín ngưỡng chung và thể hiện
thành các loại hình hoạt động.”
13

Trong nghiên cứu của mình một số nhà khoa học đã bộc lộ quan điểm coi
xã hội dân sự là diễn đàn, là đời sống xã hội diễn ra trong khoảng cách giữa
Nhà nước và thị trường. PGS.TS Đặng Ngọc Dinh viết: “Có thể coi XHDS là
diễn đàn là nơi mọi người bắt tay nhau để thúc đẩy quyền lợi chung. Xã hội
dân sự hỗ trợ người dân thực thi pháp luật, đồng thời phản ánh nguyện vọng
người dân”. PGS- TSKH Bùi Quang Dũng cho rằng: “XHDS là một đời sống
xã hội diễn ra trong khoảng cách giữa nhà nước và thị trường”. TS kinh tế
Đinh Văn Ân và ThS Lương Thị Minh Anh đưa ra ý kiến cho rằng: “XHDS”
là diễn đàn giữa gia đình, Nhà nước và thị trường nơi mà mọi người bắt tay
nhau thúc đẩy quyền lợi chung”. Mội khái niệm khác thì cho rằng “XHDS là
một mảng của đời sống xã hội có tổ chức mang tính tự nguyện, tự tái tạo, tự
tài trợ, độc lập với Nhà nước và gắn bó với nhau bằng một trật tự pháp lý hay
một số nguyên tắc chung”.
Như vậy, khái niệm “XHDS” là vấn đề mới ở nước ta, đang thu hút sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách. Cho dù, hiện nay
“XHDS” chưa có một khái niệm chung, nhất quán, chính xác, song xét về bản
chất thì các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu và các nhà hoạch định chính
sách cũng đã có sự thống nhất trong việc nhận dạng về tổ chức và đặc điểm
của “XHDS”. Theo đó XHDS được xác định là những tổ chức tự nguyện của
dân nằm ngoài Nhà nước, nằm ngoài thị trường, nằm ngoài gia đình. Các tổ
chức này có nhiệm vụ liên kết người dân với nhau để hoạt động vì một mục
đích chung

13
Tạp chí triết học số 2/2007, tr.35,36


Đặc trưng cơ bản của “XHDS” bao gồm:
- Tinh thần cộng đồng
- Tính tự nguyện của các thành viên
- Tính phi lợi nhuận
- Hoạt động vì một mục đích chung
Tuy nhiên, khi nghiên cứu về XHDS ở Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu
quốc tế và cả Việt Nam rất lúng túng khi phân loại các tổ chức XHDS ở Việt
Nam vì có một tiêu chí rất khó áp dụng đó là tiêu chí “độc lập với nhà nước”
để xác định tổ chức XHDS. Điều đó được thể hiện ở không ít các tổ chức xã
hội, kể cả các tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam đều có vấn đề là một số hoặc
một ít thành viên, hội viên của tổ chức đó phụ thuộc vào nguồn lực của Nhà
nước cả về tài chính và nhân lực (ví dụ: Người đứng đầu tổ chức đó được Nhà
nước bổ nhiệm và ăn lương Nhà nước, hoặc nguồn kinh phí hoạt động của tổ
chức đó được Nhà nước cung cấp). Trong đó nổi bật nhất là hệ thống tổ chức
xã hội dân sự theo kiểu chính trị - xã hội (Mặt trận tổ quốc Việt Nam; Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt nam, Tổng liên đoàn Lao
động Việt Nam, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân…)

Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, khái niệm XHDS là tổ chức dân
sự nằm ngoài Nhà nước, ngoài thị trường và ngoài gia đình thì tiêu chí “nằm
ngoài” này cũng chỉ mang tính tương đối mà thôi.
Từ những nội dung của các khái niệm về XHDS phân tích ở trên, tác
giả luận văn cho rằng bản chất cơ bản của XHDS trong bối cảnh hiện nay ở
Việt Nam có thể được khái niệm một cách chung nhất là: XHDS bao gồm tất
cả các tổ chức xã hội được hình thành theo nguyên tắc tự nguyên, tự quản
trong khuôn khổ đạo lý và pháp lý, hoạt động một cách tương đối độc lập với
nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích của mỗi thành viên và của toàn xã hội.
1.1.2.Khái niệm tổ chức xã hội dân sự
Các tổ chức XHDS thường được hình thành trên cơ sở các nhóm lợi ích,

chia sẻ các lĩnh vực cùng quan tâm hoặc theo những mục đích chung về đời

×