Ấn chương Việt Nam - CHƯƠNG II ẤN
CHƯƠNG VIỆT NAM THỜI LÊ TRUNG HƯNG
(1533-1788)
I. Bối cảnh lịch sử
Triều đình Lê Trung hưng có đặc thù riêng khác các
vương triều trước là sự hình hành tổ chức chế độ nhà
Chúa, tính từ Trịnh Tùng với chức Đô nguyên súy
Tổng quốc chính Thượng phụ tước Bình An vương.
Trịnh Tùng thâu tóm quyền hành bên cạnh vua Lê,
bắt đầu cho một thời kỳ mới mà hậu thế gọi là thời
vua Lê - chúa Trịnh. Từ đây trở đi con cái chúa Trịnh
cũng được quyền thế tập, cũng được lập làm Thế tử.
Trịnh Tùng cho lập phủ liêu riêng gồm đủ cả lục
Phiên tương đương với hệ thống lục Bộ v.v… Phủ
chúa toàn quyền đặt quan, thu thuế, bắt lính, kiểm
duyệt, phong thưởng v.v… vua Lê chỉ có mặt trong
các dịp lễ tiết và tiếp sứ giả mà thôi. Chính vì thế mà
những chứng tích ấn chương còn đến ngày nay trên
tư liệu, hiện vật và thư tịch văn bản chủ yếu là những
chứng tích của nhà chúa, ít mang dấu ấn của các vua
Lê, trừ một vài loại hình như sắc phong và văn bản
hành chính địa phương.
Việc tấn phong và phong tước vị, chức vụ cao cấp
cho các chúa Trịnh cùng các tuớng lĩnh đại thần họ
Trịnh đã được chính sử ghi lại và được coi là những
sự kiện trọng đại. Phần nhiều việc tấn phong hoặc
phong trên đều có ban kèm sách vàng ấn vàng hay
sách bạc ấn bạc.
Bắt đầu phải kể đến công lao to lớn của Trịnh Tùng
trong sự nghiệp Trung hưng lập nên nhà Hậu Lê, đã
được lịch sử ghi nhận. Tháng 4 năm Kỷ Hợi (1599)
vua Lê tấn phong Trịnh Tùng làm Đô nguyên súy
Tổng quốc chính Thượng phụ Bình An vương, ban
cho ông sách vàng ấn báu cùng ruộng đất phong ấp.
Tỷ ấn Bình An vương tỷ đã được ra đời trong thời
gian này, dùng đóng trên các bản lệnh chỉ, lệnh dụ
mà Trịnh Tùng ban xuống. Hình thức khắc ấn tỷ này
đã được triều đình Lê - Trịnh coi là mẫu cơ bản cho
việc chế tác, khắc và sử dụng tỷ ấn của các chúa
Trịnh từ năm 1599 đến hết thời Hậu Lê, tuy nội dung
văn khắc của một số tỷ ấn có khác nhau.
Chứng tích về Tỷ ấn Bình An vương tỷ ngày nay còn
lưu lại trong cuốn sách Bình An vương lệnh chỉ, nó
được coi là văn bản cổ nhất trong kho thư tịch ở Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, có niên đại năm Quang Hưng
thứ 22 (1599), với hình dấu son Bình An vương tỷ
còn in rõ ở dòng ghi niên hiệu.
Thời Hậu Lê nhiều sự kiện lịch sử, trong đó có chi
tiết ghi về việc tấn phong, phong, ban, cấp sách ấn
cho các chúa Trịnh được chính sử ghi lại khá rõ:
“Năm 1623 tấn phong vương thế tử Thái phó Hiệp
mưu đồng đức công thần Đô tướng Tiết chế các xứ
thủy bộ chư doanh kiêm quản Bình chương quân
quốc trọng sự Thanh Quận công Trịnh Tráng làm
Thái úy Thanh Quốc công… Mùa đông tháng 11 sách
phong Tiết chế Thái úy Thanh Quốc công Trịnh
Tráng làm Nguyên súy Thống quốc chính Thanh Đô
vương”[74]. Mùa đông tháng 10 năm 1629 vua Lê lại
tấn phong Thanh Đô vương lên tước vị cao hơn ban
kèm sách vàng ấn báu. Lời kinh sách ghi rằng: “Đặc
sai quan mang phù tiết, sách vàng, ấn tước vương tấn
phong [Trịnh Tráng] làm Hiệp mưu công thần Đại
nguyên súy Thống quốc chính sư phụ Thanh
vương…”[75]. Tỷ ấn này cũng giống như mẫu Tỷ ấn
của Trịnh Tùng.
Trịnh Tráng lên nắm quyền bắt đầu cho một thời kỳ
lịch sử nội chiến Trịnh - Nguyễn, chúa Trịnh Đàng
Ngoài và họ Nguyễn Đàng Trong. Giai đoạn này
Trịnh Tráng đã thành công trong ngoại giao với nhà
Minh từ chỗ chỉ phong tước An Nam Đô thống sứ
cho các vua Lê Trung hưng, đến đây họ đã chịu
phong cho Lê Thần Tông làm An Nam Quốc vương.
Sử cũ ghi: “Bính Tuất năm thứ 4 (1646)… vua Minh
sai bọn Hàn Lâm Phan Kỳ mang sắc thư cáo mệnh và
ấn bạc tráng vàng sang nước ta phong cho Thái
Thượng hoàng làm An Nam Quốc vương”[76]. Đến
tháng 10 năm 1651 nhà Minh lại sai quan mang sắc
và ấn sang nước ta phong Thanh Đô vương Trịnh
Tráng làm Phó quốc vương.
Trịnh Tạc người kế tục sự nghiệp của Trịnh Tráng
cũng được tấn phong từ Tây Quốc công lên Tây Định
vương đi liền với việc phong sách vàng ấn vàng mà
sử cũ ghi lại với lời trịnh trọng: “Năm 1652… Đặc
sai Lễ bộ Thượng thư Tri kinh diên sự kiêm Quốc tử
giám Tế tửu Thiếu bảo Dương Quận công Nguyễn
Nghi cầm phù tiết mang sách vàng ấn vàng vinh
phong [Trịnh Tạc] làm Nguyên súy chưởng quốc
chính Tây Định vương…”[77].
Ngay khi Trịnh Tạc đương nhiệm ngôi chúa vẫn
được vua Lê tấn tôn phong thêm nữa. Vào năm 1659
nhà vua sai Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Nguyễn
Hậu Quyến cầm phù tiết mang sách vàng ấn báu tấn
tôn [Trịnh Tạc] làm Dực vận Tán trị Công thần Đại
nguyên súy chưởng quốc chính Thượng sư Tây
vương.
Vua Lê chúa Trịnh rất chú trọng trong việc phong
chức tước cho các vương công họ Trịnh và bao giờ
cũng đi kèm việc phong sách ấn. Như năm 1632 thời
Trịnh Tráng “Sai bọn Lễ bộ Thượng thư Thiếu úy
Lan Quận công Nguyễn Thực cầm phù tiết mang
sách vàng ấn bạc phong Tả tiệp quân dinh Thái phó
Sùng Quận công Trịnh Kiều làm Khâm sai tiết chế
các xứ thủy bộ chư dinh kiêm Tổng nội ngoại Bình
chương quân quốc trọng sự phó chưởng quốc chính
Thái úy Sùng Quốc công, mở phủ gọi là phủ Hùng
Uy. Lại chia sai quan cầm phù tiết mang sách bạc và
ấn phong Hiệp nghĩa dinh Thái úy Trung Quận công
Trịnh Vân làm Trung Nhạc công…, phong Phù
Nghĩa dinh Thái úy Dũng Quận công Trịnh Khải làm
Dũng Lễ công”[78].
Những tướng lĩnh cao cấp là công hầu người họ
Trịnh khi mở Dinh quân đều được ban cấp ấn cho
Dinh đó. Như Tả Đô đốc Ninh Quận công Trịnh
Toàn năm Ất Mùi 1655 có công đánh giặc được
phong chức Thiếu bảo, được mở dinh gọi là “Tả dực
nội quân” và được ban ấn Tả dực nội quân tướng ấn.
Năm Bính Thân 1656 phong Thế tử của Tây Định
vương là Trịnh Căn làm Phó Đô tướng Thái bảo Phú
Quận công, mở dinh gọi là “Tả Quốc dinh” được ban
ấn Tả Quốc tướng quân ấn. Em Trịnh Căn là Trịnh
Đống được phong là Thiếu phó Vũ Quận công, mở
dinh gọi là “Trung Khuông quân dinh” cũng được
ban ấn Trung Khuông tướng quân ấn. Riêng Trịnh
Căn đến năm Canh Tý 1660 được phong làm Khâm
sai tiết chế các xứ thủy bộ chư dinh kiêm Tổng chính
binh Thái úy Nghi Quốc công, được mở phủ gọi là
phủ “Lý Quốc” được ban sách vàng ấn bạc. Đến năm
Giáp Dần 1674 Trịnh Căn được vua Lê Gia Tông sai
Đại thần Phạm Công Trứ mang sách vàng ấn báu tấn
phong làm Nguyên súy điển quốc chính Định Nam
vương. Ấn được khắc 4 chữ Định nam vương tỷ với
quy thức như Tỷ ấn của Bình An vương Trịnh Tùng.
Những tướng lĩnh cao cấp không mang họ Trịnh
nhưng có công lao đánh giặc cũng được vua Lê chúa
Trịnh phong chức, cho mở dinh và ban cấp ấn tín.
Năm Kỷ Hợi 1659 xét công thắng trận phong Đốc
suất Đào Quang Nhiêu làm Phó tướng Thiếu úy, cho
mở dinh gọi là “Tả dinh quân” và ban ấn Tả dinh
tướng quân ấn. Năm Tân Sửu 1661 xét công dẹp giặc
chiếm lại đất cũ của Lê Thì Hiến thăng lên làm Phó
tướng Thiếu úy, cho mở dinh gọi là “Tả trung quân”
ban ấn Tả trung tướng quân ấn.
Việc phong chức tước cho các tướng lĩnh quan lại
khác cũng đi kèm với việc ban ấn chuyển giao nhận
ấn tín. Năm 1661 xét công trạng phong Hoàng Nghĩa
Giao làm Phó tướng Tả Đô đốc, Trần Văn Tuyển làm
Ngự sử đài phó Đô Ngự sử, Phan Kiêm Toàn làm Lại
bộ Hữu Thị lang, Lê Sĩ Triệt làm Hộ bộ Tả Thị lang
v.v… Năm 1663 lấy Nguyễn Công Bích làm Tham
chính xứ Kinh Bắc, Nguyễn Danh Thực làm Đô Cấp
sự trung Hình khoa, Lê Công Triều làm Giám sát
Ngự sử đạo Thanh Hoa, Đô đốc Đồng tri Đinh Văn
Tả làm Đô Tổng binh xứ Yên Quảng v.v…
Việc đặt, chuyển, hoàn thiện tổ chức quan lại cấp
trung ương được chính quyền Lê - Trịnh chú trọng
như việc hoàn thiện từ chức lãnh đạo ở hệ thống lục
Bộ vào năm Giáp Thìn 1664 cho đặt đủ số Thượng
thư ở lục Bộ. Lấy Tham tụng Phạm Công Trứ làm
Thượng thư bộ Lại, Bồi tụng Trần Hợp Tuyển làm
Thượng thư bộ Hộ, Nguyễn Năng Thiện làm Thượng
thư bộ Lễ, Vũ Duy Chí làm Thượng thư bộ Binh,
Phan Kiên Toàn làm Thượng thư bộ Hình, lấy Hữu
Thị lang Lễ bộ Lê Hiệu làm Thượng thư bộ Công.
Các chức Thượng thư trên đều được ban cấp ấn bộ,
văn khắc trên ấn là (Mỗ) bộ đường chi ấn. Ấn này
vẫn theo mẫu cũ v.v… Dưới chức Thượng thư là
chức Tả, Hữu Thị lang, Lang trung, Viên ngoại lang
v.v… cũng được đặt theo quy định.
Các cơ quan trung ương khác như hệ thống Giám sát
(các chức Đô ngự sử, Phó Đô ngự sử, Thiêm Đô ngự
sử, Giám sát Ngự sử các Đạo, Đô cấp sự trung ở các
Khoa), lục Tự, Điện các, Quốc tử giám, Hàn lâm
viện, Thái y viện và các Nha môn sở thuộc về tổ chức
và hoạt động cũng được thực hiện theo quy chế cũ Lê
sơ có chỉnh lý đôi chút. Mỗi một cơ quan trên đều sử
dụng ấn tín trong hoạt động công vụ.
Đầu thời Trung hưng việc phong chức đặt quan được
coi là không kỹ, cho đến năm 1726 chế độ Văn quan
mới được quy định lại chặt chẽ hơn, điều này chính
sử chỉ nhắc đến nhưng không ghi chi tiết cụ thể.
Tổ chức quân đội thời Lê Trung hưng vẫn mô phỏng
theo binh chế quân đội thời Lê sơ. Cấp Quân là cấp
cao nhất gồm năm Quân (Đông quân, Tây quân, Nam
quan, Bắc quân và Trung quân). Mỗi Quân đều do
một tướng lĩnh cao cấp đứng đầu và thường là người
họ Trịnh. Dưới nữa thì có các cấp Doanh, Vệ, Sở rồi
đến Cơ, Đội v.v… Việc phong chức đặt tướng cũng
được sử sách ghi lại, như năm Giáp Thìn 1664 đặt
quan chưởng và Thự Ngũ phủ, cho Thái phó Trịnh
Trượng làm Trung quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc
Chưởng phủ sự. Thái phó Trịnh Đống làm Đông
quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc Chưởng phủ sự. Thiếu
úy Trịnh Kiều làm Nam quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc
Thự phủ sự. Thiếu úy Lê Thì Hiến làm Tây quân Đô
đốc phủ Tả Đô đốc Thự phủ sự. Thiếu phó Trịnh Ác
làm Bắc quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc Thự phủ sự.
Các chức này đều được ban cấp ấn tín dùng trong
việc quân.
Cấp Doanh dưới Quân cũng là những đơn vị lớn và
quan trọng với tên gọi khá hùng tráng như đời Trịnh
Cương ở Trung quân đặt sáu Doanh là doanh Trung
Dực, Trung Uy, Trung Thắng, Trung Khuông, Trung
Nhuệ và Trung Tiệp. Mỗi Doanh gồm 800 quân do
chức Đô đốc đứng đầu. Các Đô đốc đều được nhận
lĩnh ấn tín tên Doanh của mình.
Việc kiêm nhiệm chức vụ thời Lê Trung hưng cũng
có như Dương Quận công Đào Quang Nhiêu trải thờ
mấy đời vua giữ các chức Trấn thủ xứ Nghệ An,
kiêm trấn châu Bố Chính, Thống suất quan Tả
Khuông quân doanh phó tướng, Thiếu úy - một lúc
giữ mấy loại ấn tín khác nhau v.v…