Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Nhận xét lâm sàng và các bất thường trên điện sinh lý thần kinh ở bệnh nhân mắc hội chứng ống cổ tay tại bệnh viện lão khoa trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 51 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng ống cổ tay (còn gọi là hội chứng đường hầm cổ tay - Carpal
Tunnel Syndrome) là một trong những hội chứng chèn ép dây thần kinh ngoại
vi hay gặp nhất. Trong hội chứng này, dây thần kinh giữa bị chèn ép trong
đường hầm (ống) cổ tay. Có nhiều nguyên nhân gây bệnh, trong đó có thể kể:
do công việc (cử động cổ tay nhiều, chấn động rung do dụng cụ cầm tay gây
nên), do bệnh lý viêm - thấp khớp của khớp cổ tay, do thoát vị bao hoạt dịch
khớp cổ tay, viêm - xơ húa cỏc dây chằng vùng cổ tay. Hội chứng này cũng
hay gặp trong các chứng viêm đa dây thần kinh do tiểu đường, nhiễm độc rượu
mạn tính, bệnh thận… Đây là một hội chứng đơn giản, dễ chẩn đoán và dễ điều
trị. Ở nước ta, hội chứng này còn rất ít được các bác sĩ phát hiện và chẩn đoán
đúng. Thời gian gần đây, với việc triển khai hoạt động thường qui của phương
pháp điện sinh lý thần kinh trong thực hành lâm sàng, nhiều bệnh nhân được
chẩn đoán đúng và điều trị có hiệu quả. Điều đó cũng phù hợp với y văn, vì
theo các nghiên cứu lớn trên thế giới, cho đến nay điện sinh lý thần kinh vẫn là
phương pháp cận lâm sàng duy nhất cho phép ta chẩn đoán sớm và lượng hóa
những tổn thương của dây thần kinh giữa trong loại bệnh lý này. Tôi xin trình
bày những nghiên cứu của mình về các thông số của điện sinh lý thần kinh
trong hội chứng ống cổ tay, từ đó mô tả mối liên quan giữa điện sinh lý thần
kinh với chẩn đoán lâm sàng.
Xuất phát từ thực tế trên và với mong muốn góp phần vào nghiên cứu
bệnh lý hội chứng ống cổ tay ở nước ta, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“ Nhận xét lâm sàng và các bất thường trên điện sinh lý thần kinh ở bệnh
nhân mắc hội chứng ống cổ tay tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương”.
1
Mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và điện sinh lý thần kinh ở bệnh nhân mắc
hội chứng ống cổ tay.
2. Mô tả mối liên quan giữa biểu hiện lâm sàng và điện sinh lý thần
kinh ở các bệnh nhân nói trên.
2


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. LƯỢC SỬ NGHIÊN CỨU VỀ HỘI CHỨNG ỐNG CỔ TAY:
- Hội chứng ống cổ tay được Sir James Paget mô tả từ giữa thế kỷ 18.
Đây là một rối loạn thần kinh ngoại vi thường gặp nhất, khoảng 3% người
trưởng thành ở Mỹ có biểu hiện hội chứng này. Đa số bệnh nhân hay than
phiền về việc các ngón tay bị đau, tê rần xuất hiện sau một chấn thương vùng
cổ tay hay cơn đau thấp khớp. Đặc biệt người ta thấy hội chứng này xuất hiện
vào giữa hay cuối thai kỳ của nhiều sản phụ. Nhiều tác nhân tại chỗ và toàn
thân có liên quan đến sự phát triển hội chứng ống cổ tay. Những tác nhân này
có thể gây chèn ép thần kinh giữa từ bên ngoài như chấn thương, hoặc từ bên
trong như viêm bao hoạt dịch thứ phát từ các bệnh hệ thống như thấp khớp.
- Hội chứng ống cổ tay là một trong các nguyên nhân gây tê tay, làm cho
người bệnh rất khó chịu, có thể gây teo bàn tay. Tay phải hay bị bệnh hơn có
thể do thường là tay thuận, thường chịu đựng sức nặng và vi chấn động nhiều
hơn. Bệnh thường gặp ở độ tuổi trên 35, phụ nữ mắc nhiều hơn nam giới.
- Những công việc đòi hỏi sự vận động bàn tay lặp đi lặp lại nhiều lần có
thể dẫn đến hội chứng ống cổ tay. Thường gặp nhất ở những người làm công
việc đòi hỏi phải cầm nắm chặt trong khi gập cổ tay. Những người có nguy cơ
bao gồm: những người sử dụng máy tính, thợ mộc, thợ may (là quần áo),
người tính tiền ở quầy tạp hóa, các công nhân ở dõy truyờ̀n lắp ráp, người
đóng thịt hộp, nhạc công và kỹ sư cơ khí. Ngoài ra, những sở thích như: làm
vườn, may vá, chơi golf - tennis và chèo thuyền đôi khi có thể gây ra hội
chứng này.
3
- Hụ̣i chứng ống cổ tay cũng được liên kết với các bệnh khác. Nó có thể
được gây ra do chấn thương ở cổ tay như gãy xương, hay nó có thể được gây
ra do bệnh tiểu đường, viêm khớp dạng thṍp, bợ̀nh tuyến giáp.
- Hụ̣i chứng ống cổ tay thường không nặng. Nếu được điều trị, thường sẽ
khỏi đau và thường không có những tổn thương kéo dài ở cổ tay hay bàn tay.

1.2. ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU
Đường hầm cổ tay hay ống cổ tay được giới hạn phía trước bởi dây
chằng ngang trước cổ tay là một dải sợi thớ dày và chắc đi từ củ xương
thuyền và xương thang đến xương đậu và xương móc, giới hạn phía sau là các
xương tụ cốt bàn tay. (Hình 3.23). Đường hầm cổ tay là một không gian chật
hẹp trong đó chứa cỏc gõn gấp cổ tay, ngón tay và bó mạch thần kinh giữa.
Khi các tổ chức gân trong đường hầm bị viêm sẽ gây nên hội chứng chèn ép
thần kinh giữa.
1.3. CƠ CHẾ SINH Bậ́NH:
Về giải phẫu học, thần kinh giữa đi chung với cỏc gõn cơ gấp của các
ngón tay trong ống cổ tay. Ống cổ tay được tạo bởi mạc giữ gân gấp và cỏc
vỏch xung quanh là bờ của các xương cổ tay. Chớnh vỡ nằm trong một cấu
4
trúc không co giãn được nên khi có sự tăng thể tích của cỏc gõn gấp bị viêm
(hay các tư thế gấp duỗi cổ tay quá mức và thường xuyên) thì sẽ tạo ra một
lực chèn ép lờn cỏc mạch máu nuôi nhỏ đi sỏt bờn dây thần kinh, gây ra tình
trạng thiểu dưỡng. Lúc này sẽ xuất hiện triệu chứng tê bàn tay vỡ cỏc sợi thần
kinh cảm giác bị ảnh hưởng trước. Sau đó cỏc nhỏnh vận động sẽ bị tác động
tạo ra sự yếu hay liệt cơ mà nó chi phối. Với thần kinh giữa thỡ gõy teo cơ mụ
cỏi do yếu liệt cơ đối ngón, cơ gấp ngón cái ngắn. Người bệnh cầm nắm đồ
vật trong lòng bàn tay bị yếu, dễ rớt là vì thế. Nếu tình trạng chèn ép kéo dài
sẽ làm tổn thương thần kinh không hồi phục.
Với hội chứng ống cổ tay sau chấn thương, nguyên nhân có thể là sự hẹp
lòng ống cổ tay do gãy lệch xương, như gãy đầu dưới xương quay, trật khớp
như trật xương bán nguyệt ra trước. Thể tích và chu vi ống cổ tay nhỏ lại
khiến thần kinh giữa bị chèn ép.
1.4. NGUYÊN NHÂN VÀ CÁC YẾU TỐ THÚC ĐẨY GÂY HỘI
CHỨNG ỐNG CỔ TAY:
- Bất thường giải phẫu: cỏc gân gấp bất thường, ống cổ tay nhỏ bẩm
sinh, những nang hạch, bướu mỡ, nơi bám tận của các cơ giun, huyết khối

động mạch.
- Nhiễm trùng: bệnh Lyme, nhiễm Mycobacterium, nhiễm trùng khớp.
- Các bệnh viêm: bệnh mô liên kết, Gout hoặc giả gout, viêm bao gân
gấp không đặc hiệu (nguyên nhân thường gặp nhất của hội chứng ống cổ tay),
viêm khớp dạng thấp.
- Bệnh chuyển hóa: Acromegaly, Amyloidosis, tiểu đường, nhược
giáp.
- Tăng thể tích: suy tim xung huyết, phù, béo phì, mang thai.
5
1.5. LÂM SÀNG CỦA HỘI CHỨNG ỐNG CỔ TAY:
* Triệu chứng cơ năng:
Bệnh nhân thường đau, dị cảm, tê cứng ở ba ngón rưỡi do thần kinh giữa
chi phối, nhưng cũng cú lỳc tờ cả bàn tay. Chứng tê này thường xuất hiện về
đêm, có thể đánh thức bệnh nhân dậy và giảm đi khi nâng cao hoặc vẫy cổ tay
như vẫy nhiệt kế. Đau và tê tay có thể lan lên cẳng tay, khuỷu hoặc vai. Trong
ngày, khi phải vận động cổ tay, ngón tay nhiều như lái xe mỏy, xỏch giỏ đi
chợ, làm việc bàn giấy… thỡ tờ xuất hiện lại. Lúc đầu tờ cú cơn và tự hết mà
không cần điều trị. Sau đó cơn tê ngày càng kéo dài. Có những bệnh nhân bị
tê rần suốt cả ngày. Sau một thời gian tê, người bệnh có thể đột nhiên bớt tê
nhưng bắt đầu thấy việc cầm nắm yếu dần hoặc bị run tay, viết khó, dễ làm
rớt đồ vật. Những triệu chứng kể trên là điển hình cho tình trạng dây thần
kinh giữa bị chèn ép trong ống cổ tay. Thường thì triệu chứng điển hình gặp ở
một tay nhưng cũng có thể gặp ở cả hai tay.
* Triệu chứng thực thể:
Dấu hiệu lâm sàng cổ điển của hội chứng ống cổ tay là: dấu hiệu Tinel
và nghiệm pháp Phalen.
Dấu hiệu Tinel dương tính: gừ trờn ống cổ tay ở tư thế duỗi cổ tay tối đa
gây cảm giác đau hay tê giật lên các ngón tay.
Nghiệm pháp Phalen dương tính: khi gấp cổ tay tối đa (đến 90
0

) trong
thời gian ít nhất là một phỳt gõy cảm giác tê tới các đầu ngón tay.
Giảm hoặc mất cảm giác châm chích vùng da do thần kinh giữa chi phối.
Những triệu chứng như teo cơ mụ cỏi, cử động đối ngón yếu, cầm nắm
yếu là những dấu hiệu muộn đó cú tổn thương thần kinh.
6
1.6. CẬN LÂM SÀNG
- Phần lớn hội chứng ống cổ tay đều được chẩn đoán dựa vào lâm sàng,
nhất là khi có cả 2 triệu chứng cơ năng và thực thể. Nhưng để chẩn đoán
chính xác, và biết được bệnh đang ở giai đoạn nào, thì theo y văn, điện sinh lý
thần kinh là phương pháp cận lâm sàng có giá trị. Điện sinh lý thần kinh là
phương pháp khám nghiệm chức năng dẫn truyền dây thần kinh về cảm giác
và vận động ở vùng da và cơ mà nó chi phối. Người ta dùng dòng điện cường
độ nhỏ kích thích và đo thời gian đáp ứng về cảm giác hoặc vận động ở vùng
thần kinh giữa chi phối. Phương pháp này cũn giỳp ta biết được khả năng
phục hồi diễn tiến như thế nào sau thời gian phẫu thuật, và tiên lượng trước
được tổn thương có thể xảy ra ở chi khác khi chưa có biểu hiện lâm sàng.
Ở Việt nam, từ những năm cuối của thập niên 90, chúng ta đã áp dụng
chẩn đoán hội chứng ống cổ tay bằng phương pháp điện sinh lý thần kinh và
cho kết quả khá tốt.
Ngoài ra, hiện nay người ta đã và đang nghiên cứu siêu âm với đầu dò
phẳng tần số cao 7-13-MHz có khả năng chẩn đoán khá chính xác hội chứng
ống cổ tay . Siêu âm là một kỹ thuật đơn giản có thể giúp đánh giá thần kinh
giữa và các thành phần trong ống cổ tay. Giải phẫu thần kinh giữa và đường
kính của nó được thấy khỏ rừ trờn siêu âm. Những bất thường của thần kinh
giữa, như phù nề, biến dạng, to ra của thần kinh giữa ở ngang ống cổ tay đều
có thể đo được.
7
1.7. CHẨN ĐOÁN HỘI CHỨNG ỐNG CỔ TAY:
* Tiêu chuẩn chẩn đoán: theo đề nghị của Viện quốc gia Hoa Kỳ về

sức khỏe và an toàn nghề nghiệp (National Institute of Occupational Safety
and Health) để chẩn đoán hội chứng ống cổ tay phải có hai hoặc nhiều hơn
những tiêu chuẩn sau đây (một hoặc nhiều hơn một triệu chứng cơ năng và
một hoặc nhiều hơn một triệu chứng thực thể):
- Triệu chứng cơ năng gồm: những triệu chứng về cảm giác vùng da do
thần kinh giữa chi phối ở bàn tay: dị cảm, giảm cảm giác, đau, tê cứng.
- Triệu chứng thực thể gồm: dấu hiệu Tinel dương tính, nghiệm pháp
Phalen dương tính, giảm hoặc mất cảm giác châm chích vùng da thần kinh
giữa chi phối, hoặc test dẫn truyền thần kinh cho thấy có sự rối loạn chức
năng thần kinh giữa vùng ống cổ tay.
8
* Chẩn đoán phân biệt:
- Các bệnh của cột sống cổ như bệnh thoái hóa, thoát vị đĩa đệm gây
chèn ép thần kinh: Xquang, cộng hưởng từ cột sống cụ̉ đờ̉ chẩn đoán.
- Bệnh của dây thần kinh như viêm dây thần kinh trong bệnh lý tiểu
đường, bệnh tuyến giáp: xét nghiệm đường huyết, hormon tuyến giáp + siêu
âm tuyến giáp.
- Chèn ép sau chấn thương: có tiền sử chấn thương vùng ống cổ tay, tổn
thương xương vùng cổ tay.
- Khụ́i u thần kinh: Siêu âm, cộng hường từ chẩn đoán.
- Hội chứng ống cổ tay cũng có thể xuất hiện song song với bệnh thoái
hóa cột sống cổ (khi đó được gọi là hội chứng Upton-McComas), do vậy nờ́u
thṍy bệnh nhân bị hội chứng ống cổ tay thì chưa loại trừ thoái hóa cột sống cổ
và ngược lại.
1.8. ĐIỀU TRỊ VÀ PHÒNG NGỪA HỘI CHỨNG ỐNG CỔ TAY:
1.8.1 Điều trị hội chứng ống cổ tay:
a. Điều trị nội khoa: cần dùng nhiều biện pháp:
- Nẹp cổ tay để giữ bàn tay ở vị trí trung gian, giảm các hoạt động gập
và xoay cổ tay liên tiếp do dó giảm sưng phù của các đầu gân cơ (tùy vào tình
trạng nặng nhẹ có thể nẹp ngày hay đêm, sử dụng nẹp trong vòng 4-6 tuần).

- Thuốc uống gồm thuốc giảm đau chống viêm không steroid và thuốc
steroid; thuốc steroid có hiệu quả hơn là thuốc chống viêm không steroid.
- Thay đổi chế độ làm việc.
- Tiêm steroid một cách thận trọng vào trong ống cổ tay có hiệu quả
hơn thuốc uống, bệnh có thể khỏi từ vài tháng đờ́n nhiờ̀u năm tùy từng người,
càng phát hiện sớm thì bệnh càng có cơ hụ̣i đờ̉ điều trị tốt.
9

- Điều trị bằng siêu âm có thể có hiệu quả trong dài hạn.
b. Điều trị ngoại khoa:
- Chỉ định: trong trường hợp khi phương pháp trị liệu cổ điển không đạt
kết quả mong muốn, hay tình trạng quá nặng như teo ụ mụ cái cộng với tê và
yếu bệnh nhân sẽ có chỉ định phõ̃u thuật.
- Nguyên lý chung của phẫu thuật: là cắt mở dây chằng vòng cổ tay để
giải phóng chèn ép thần kinh giữa nhằm giảm áp lực trong ống cổ tay.
- Phương pháp: có nhiều phương pháp để thực hiện phẫu thuật này: mổ
mở, mổ với đường mổ nhỏ và mổ nội soi.
+ Với mổ mở bệnh nhân sẽ phải nằm viện vài ngày, đường rạch cổ tay
dài - rộng và nguy cơ nhiễm khuẩn là rất lớn, mặt khác để lại vết sẹo dài có
thể làm mất đi thẩm mỹ của cổ tay.
10
Phẫu thuật mở điều trị hội chứng ống cổ tay
+ Hiện nay phẫu thuật hội chứng ống cổ tay bằng phương pháp nội soi
là phương pháp điều trị mới tại Việt Nam, bệnh nhân chỉ phải chịu 2 đường
rạch da nhỏ khoảng 0,5 - 1cm, bác sĩ sẽ kiểm tra tình trạng ống cổ tay, thần
kinh giữa qua camera và thực hiện việc cắt mở dây chằng vòng cổ tay qua nội
soi dưới hướng dẫn của camera bảo đảm chính xác và an toàn. Kỹ thuật này
đã được thực hiện nhiều nơi trên thế giới và đem lại những kết quả rất tốt, mặt
khác còn mang lại nhiều ưu điểm cho người bệnh như ít đau đớn, thẩm mỹ, có
thể xuất viện trong ngày.

11
Phẫu thuật nội soi điờ̀u trị hội chứng ống cổ tay
c. Ngoài ra cần điều trị các bệnh tổng quát nếu có như: tê thấp, nhược
giáp, mập phì, tiểu đường…
1.8.2 Phòng ngừa: cần lưu ý đến tư thế khi làm việc:
- Làm động tác khởi động cổ tay (và toàn thân) trước khi lao động đối
với các công việc phải thường xuyên sử dụng động tác lắc cổ tay như: băm,
chặt, quay cổ tay đờ̉ guụ̀ng dây câu cá, lái xe máy đi xa… Có khởi động như
vậy, các cơ và khớp ở cổ tay mới được hoạt động nhịp nhàng, tránh các chứng
bong gân, phù nề ở vùng cổ tay.
- Giữ cho bàn tay trên cùng mặt phẳng với cẳng tay.
- Tránh sử dụng tay quá nhiều lặp đi lặp lại.
- Tránh bẻ cổ tay xuống dưới trong một thời gian dài.
- Không nắm dụng cụ quá mạnh.
- Khụng gõ bàn phím quá mạnh.
- Đổi tay nếu có thể được.
- Giữ tay ấm.
- Khụng gối đầu trên tay khi ngủ.
- Kê tay trên gối khi nằm.
12
- Khi thấy bị tê tay, tê tăng lên khi lao động, lái xe máy hoặc bị tê khi
đang ngủ, tờ nhiờ̀u ở ngón trỏ và ngón giữa nên đi khám ngay để làm điện
sinh lý thần kinh xác định bệnh. Phát hiện và khám sớm rất có lợi, vì khi đã
chẩn đoán chính xác là hội chứng ống cổ tay thì việc điều trị tê tay sớm có kết
quả tốt.
1.9. ĐIậ́N SINH LÝ THẦN KINH TRONG CHẨN ĐOÁN BỆNH THẦN
KINH NGOẠI VI:
1.9.1. Khái niệm về điện thế màng tế bào thần kinh và dẫn truyền xung
thần kinh tại sợi trục.
1.9.1.1. Điện thế nghỉ

- Định nghĩa: Điện thế nghỉ là điện thế của màng khi tế bào nghỉ ngơi
(khụng phỏt xung). Ở trạng thái này, điện thế trong màng tế bào nói chung và
màng tế bào thần kinh nói riêng thấp hơn ở mặt ngoài, tạo nên điện thế nghỉ
của màng. Như vậy khi tế bào không hoạt động, điện thế mặt trong âm hơn so
với mặt ngoài màng (hiện tượng phân cực). Trị số của điện thế nghỉ khoảng
-90mV ở màng sợi cơ tim, sợi cơ vân, sợi thần kinh có kích thước lớn; ở cơ
trơn hoặc ở các sợi thần kinh có đường kính nhỏ và ở nhiều thân tế bào thần
kinh trong hệ thần kinh trung ương có điện thế màng chỉ từ -40 đến -70mV.
Nếu điện thế màng bớt âm hơn thì màng dễ bị kích thích hơn, ngược lại nếu
làm cho điện thế màng õm thờm thỡ màng khó bị kích thích hơn.
- Các nguyên nhân gây ra điện thế nghỉ: Khi tế bào thần kinh ở trạng
thái nghỉ, điện thế ở mặt trong màng tế bào âm hơn ở ngoài, chủ yếu do có sự
chênh lệch nồng độ ion âm và ion dương giữa trong và ngoài màng. Các yếu
tố tham gia tạo ra chênh lệch điện thế màng bao gồm:
+ Bơm Na
+
- K
+
: Đây là lý do chính để tạo ra sự chênh lệch nồng độ
ion giữa trong và ngoài màng tế bào. Bơm này hoạt động liên tục (trừ khi tế
13
bào chết). Cứ mỗi lần bơm hoạt động, có 3 ion Na
+
được bơm ra ngoài và chỉ
có 2 ion K
+
được bơm từ ngoài vào trong. Sau mỗi lần bơm, ở ngoài màng
tăng thêm 1 ion dương gây ra sự thiếu hụt ion dương ở bên trong màng, làm
sự chênh lệch nồng độ ion dương trong và ngoài màng càng tăng lên.
+ Trong tế bào, còn nhiều ion mang điện tích âm (phosphate, sunlfat…)

và nhiều phân tử protein tích điện õm khụng qua được màng để ra ngoài nờn
chỳng ở lại bên trong góp phần làm cho điện tích phía trong màng âm hơn so
với ngoài màng.
+ Sự khuyếch tỏn cỏc ion Na
+
và K
+
: Ở điều kiện bình thường các ion
này có khả năng thấm qua màng tế bào với số lượng rất ít (gọi là sự “rũ rỉ”
ion qua màng). Khi nghỉ tính thấm của màng với ion K
+
cao gấp 100 lần so
với ion Na
+
đi từ ngoài vào trong màng. Lý do này gây ra sự thiếu hụt ion
dương ở trong màng so với ở ngoài màng.
1.9.1.2. Điện thế hoạt động
- Định nghĩa: Điện thế hoạt động là những thay đổi điện thế nhanh, đột
ngột từ điện thế âm lúc nghỉ sang điện thế dương rồi cũng rất nhanh quay trở
về điện thế âm mỗi khi màng bị kích thích và các xung động thần kinh được
dẫn truyền bằng điện thế hoạt động này.
- Các giai đoạn của điện thế hoạt động:
+ Giai đoạn khử cực:
Khi các thụ thể của màng tế bào tiếp nhận chất dẫn truyền thần kinh
đặc hiệu có tác dụng kích thích, kênh Na
+
mở ra, Na
+
đi vào tronmg tế bào
làm điện thế màng tăng dần từ -90mV lên đến -70mV ở tế bào cơ tim, cơ vân,

ở sợi trục thần kinh lớn hoặc từ -65mV đến -45mV ở thân tế bào thần kinh
tức là đạt trị số ngưỡng (tương ứng với điện thế kích thích là +20mV) thỡ cỏc
ion Na
+
ồ ạt đi vào trong tế bào làm điện thế bên trong màng tăng cao hơn nữa
(thường cao hơn từ 5 đến 10mV) sẽ xuất hiện điện thế hoạt động. Lúc này
14
tính thấm của màng với Na
+
tăng gấp 500 đến 5000 lần, mặt trong màng trở
nên dương so với mặt ngoài và nhanh chóng đạt tới điện thế đỉnh. Trạng thái
này kéo dài vài phần vạn giây.
Tại các sợi thần kinh có đường kính nhỏ hoặc tại các tế bào thần kinh
trung ương, điện thế âm chỉ lên gần trị số 0; ở các sợi thần kinh có đường
kính lớn, các tế bào cơ vân, cơ tim điện thế bên trong màng không những từ
-90mV lên đến 0mV mà còn vượt trên trị số dương ít nhiều (được gọi là hiện
tượng quá đà: overshoot).
+ Giai đoạn tái cực:
Ngay sau khi mở vài phần vạn giõy, kờnh Na
+
bắt đầu đúng, kờnh K
+
mở làm ion K
+
khuyếch tán từ trong ra ngoài. Điều này làm mặt trong màng
bớt dương hơn, rồi lại trở nên âm so với mặt ngoài, tái tạo lại trạng thái phân
cực màng lúc nghỉ. Giai đoạn này kéo dài vài miligiõy.
Do sự mở kênh K
+
chậm và kéo dài vài miligiõy nờn vào cuối giai đoạn

tái cực cú lỳc mặt trong màng cũn õm nhiều hơn lúc bình thường (điện thế
màng lúc này khoảng -100mV). Đó là hiện tượng ưu phân cực dài từ 50
miligiõy đến vài giây. Nếu điện thế màng tăng rất từ từ trong nhiều miligiõy,
khi cổng hoạt hoá bắt đầu mở thì cổng khử hoạt cũng bắt đầu đóng, do đó
không có dòng Na
+
tạo điện thế hoạt động (sự thích nghi của màng tế bào thần
kinh). Lúc này điện thế màng cần có một ngưỡng kích thích cao hơn, thậm chí
lên đến trị số dương mới tạo được điện thế hoạt động.
1.9.1.3. Dẫn truyền xung trên sợi trục
Sự lan truyền điện thế hoạt động thực chất là tạo nên một mạch điện tại
chỗ, giữa vùng đang khử cực và phần màng ở vùng tiếp giáp: Điện tích dương
của ion Na
+
trong sợi trục sẽ đi dọc theo sợi trục làm phát sinh điện thế hoạt
động ở vùng tiếp giáp. Làn sóng lan truyền đó gọi là xung thần kinh.
15
Một khi điện thế hoạt động được tạo ra ở một điểm trên màng tế bào
thần kinh, quá trình khử cực sẽ lan toả toàn bộ màng theo quy luật “tất cả
hoặc khụng”. Điện thế hoạt động xuất hiện tại một điểm của sợi trục sẽ lan
toả theo hai phía. Dòng điện trong tế bào chạy từ vùng hoạt động (nơi tích
điện dương) đến vùng không hoạt động bên cạnh (nơi tích điện âm). Phía bên
ngoài tế bào, xuất hiện một dòng điện chạy ngược chiều từ vùng không hoạt
động đến vùng hoạt động. Hiện tượng này làm những vùng không hoạt động
ở hai phía của vùng hoạt động bị khử cực làm xuất hiện dòng điện chạy theo
hai hướng. Tuy nhiên về mặt sinh lý, thực tế xung chỉ dẫn truyền theo chiều
thuận.
Hình 5.2. Dẫn truyền nhảy ở các sợi thần kinh có myêlin (A) và lan dần ở các sợi không
có myêlin (B).
Đối với những sợi không có myelin điện thế hoạt động được lan truyền

theo từng điểm một trên suốt chiều dài sợi trục nên tốc độ dẫn truyền chậm.
Đối với các sợi thần kinh có myelin, các xung được dẫn truyền “nhảy” theo
các eo Ranvier (do myờlin là một chất cách điện, mặt khác tính thấm đối với
ion của màng tại eo Ranvier cao hơn tính thấm của các sợi khụng myờlin tới
16
gần 500 lần), vì vậy tốc độ dẫn truyền tăng lên rất nhiều lần so với những sợi
không có myờlin.
Dây thần kinh ngoại vi có bản chất là một bú cỏc sợi trục. Dẫn truyền
của xung thần kinh chỉ xáy ra theo chiều dọc của sợi có xung chứ không lan
toả theo các sợi lân cận, do vậy thông tin thần kinh được truyền chính xác tới
nơi cần phải đến.
Ngoài các yếu tố sợi trục cú myờlin hay không cú myờlin, cũn có
nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến tốc độ dẫn truyền thần kinh như hoạt hoá
nhanh điện thế hoạt động sẽ làm khử cực nhanh vùng bên cạnh, ở các sợi có
đường kính lớn sẽ làm giảm sức cản bào tương của sợi trục, làm tăng sự dẫn
điện dọc theo sợi trục và giảm thời gian kích thích vùng bên cạnh (tốc độ dẫn
truyền có thể đạt tới 130m/giõy). Cỏc yếu tố như nhiệt độ da, tuổi và chiều
cao cũng làm ảnh hưởng đến tốc độ dẫn truyền.
- Nhiệt độ da: Khi nhiệt độ da giảm làm giảm tốc độ dẫn truyền, kéo
dài thời kỳ tiềm tàng, tăng biên độ và tăng thời gian dẫn truyền thần kinh-cơ,
cụ thể tốc độ sẽ giảm đi khoảng 1m/s khi nhiệt độ da giảm đi 1
0
C.
- Tuổi: Tuổi càng cao tốc độ dẫn truyền thần kinh càng giảm. Trẻ em
khoảng từ 3-6 tuổi tốc độ dẫn truyền bắt đầu giống người lớn. Trị số này ổn
định từ 20 đến 40 tuổi, sau đó cứ 10 tuổi giảm đi khoảng 10%. Ở ngưòi trên
60 tuổi, điện thế của một số dây thần kinh cảm giác có thể không ghi được (ví
dụ dây hiển ngoài, dây mác nông). Nhìn chung, sau tuổi 20, cứ mười năm thì
tốc độ dẫn truyền vận động giảm từ 0,4 đến 0,7 m/s và tốc độ dẫn truyền cảm
giác giảm từ 2 đến 4 m/s.

- Chiều cao: Có mối tương quan tỉ lệ nghịch giữa chiều cao, độ dài của
dây thần kinh với tốc độ dẫn truyền. Chi dưới dẫn truyền chậm hơn chi trên
khoảng 10m/s, phần gốc dây thần kinh dẫn truyền nhanh hơn phần ngọn, do
17
càng ở ngọn chi đường kính sợi trục càng nhỏ (ít myêlin) và các eo Ranvier
càng sát nhau hơn nên làm tốc độ dẫn truyền chậm lại.
1.9.2. Điện sinh lý thần kinh:
1.9.2.1. Cơ sở sinh lý của phương pháp điện sinh lý thần kinh
a. Hiện tượng co cơ:
Quá trình co cơ được diễn ra qua các bước sau:
- Điện thế hoạt động chạy dọc theo tế bào thần kinh vận động đến tận
cùng sợi trục nơi tiếp giáp với cơ.
- Cúc tận cùng giải phóng ra acetylcholin là chất trung gian hóa học
dẫn truyền thần kinh.
- Chất acetylcholin sẽ gắn vào các cảm thụ quan đặc hiệu của chất này
ở trên màng sợi cơ làm mở các kênh dẫn natri và ion Na
+
tràn vào trong màng
tế bào cơ tại điểm tận cùng thần kinh tạo nên điện thế hoạt động trên sợi cơ
- Điện thế hoạt động lan ra toàn bộ sợi cơ giống như trên sợi thần kinh,
gây khử cực màng sợi cơ và đồng thời lan sâu vào trong sợi cơ. Khi này hệ
thống lưới nội cơ tương sẽ giải phóng một lượng lớn ion Ca
++
vào trong các tơ
cơ.
- Ion Ca
++
khởi đầu lực co rút giữa các sợi actin và myosin làm chúng
trượt lên nhau và gây co cơ.
- Sau thời gian một phần giây, ion Ca

++
được bơm ngược trở lại hệ nội
cơ tương và tích trữ lại đó cho đến quá trình co cơ mới, lúc này cơ dãn ra.
b. Đơn vị vận động và điện thế đơn vị vận động:
Từ sừng trước tuỷ sống có nhiều tế bào thần kinh vận động (neuron
alpha) đi ra chi phối cho các cơ gây co cơ. Toàn bé một tế bào thần kinh vận
18
động alpha ở tuỷ sống và các sợi cơ do chính tế bào này chi phối tạo nên một
đơn vị vận động.
Ở người bình thường, đơn vị vận động hoạt động theo qui luật tất cả
hoặc không, tức là khi đã hoạt động thì tất cả các sợi cơ cùng co một lúc. Kích
thước của đơn vị vận động phụ thuộc vào chức năng và số lượng sợi cơ do
mét tế bào thần kinh chi phối. Ở các nhóm cơ hoạt động thô sơ thì một tế bào
thần kinh có thể chi phối hàng trăm sợi cơ, tốc độ dẫn truyền càng lớn, lực co
càng mạnh và nhanh nhưng chóng mỏi; ngược lại các cơ hoạt động tinh tế
một tế bào thần kinh chỉ chi phối vài sợi cơ, lâu mỏi hơn. Hoạt động phóng
lực của các đơn vị vận động lớn cần co cơ mạnh hơn, còn các đơn vị vận động
nhỏ (do tế bào thần kinh nhá chi phối) chỉ cần co cơ tối thiểu.
Các yếu tố đóng vai trò quyết định chức năng của đơn vị vận động
gồm:
- Số lượng sợi cơ do mét tế bào thần kinh vận động chi phối (chỉ số chi
phối thần kinh).
- Số lượng sợi cơ đi qua một diện cắt (mật độ sợi cơ).
- Tốc độ dẫn truyền thần kinh của tế bào thần kinh.
- Sự toàn vẹn của dẫn truyền thần kinh - cơ.
Trên lâm sàng, các hoạt động điện của cơ thường được ghi thông qua
điện cực kim đồng tâm được cắm vào cơ, bản chất là ghi điện thế ngoài tế bào
(hình 2.3). Các phóng lực của đơn vị vận động ở gần điện cực (thường trong
vòng bán kính khoảng 1mm) sẽ thể hiện trên màn hình của máy ghi điện cơ
dưới dạng một sóng (thường từ 2 đến 3 pha do xung đến gần, tiếp xúc và rời

đi) đồng thời phát ra âm thanh được khuyếch đại qua hệ thống loa của máy
19
gọi là điện thế đơn vị vận động, bản chất là tổng của điện thế hoạt động của
các sợi cơ riêng rẽ (hình 2.3).
Điện thế hoạt động của các sợi cơ Điện thế hoạt động của đơn vị vận động
Hình 2.3: Giải phẫu và sinh lý điện thế hoạt động của đơn vị vận động
Các thông số của điện thế đơn vị vận động được mô tả là biên độ (chiều
cao của sóng từ vài microvolt đến vài milivolt), thời gian (khoảng cách giữa
lúc khởi đầu và kết thúc song khoảng 3 – 10 miligiõy), số pha (tối đa là ba
pha nhưng không quá 5%). Các điện thế đơn vị vận động thường ổn định biên
độ, tần số, thời khoảng và hình dạng song. Dựa trên sự thay đổi về biên độ,
thời khoảng, tần số và hình dạng nói trên của các sóng này mà người ta có thể
chẩn đoán các tổn thương khác nhau.
20
Hình 2.4. Điện thế đơn vị vận động bình thường (sóng ba pha)
1.9.2.2. Nguyên lý của máy điện sinh lý thần kinh và điện cực
* Nguyên lý:
Máy điện sinh lý thần kinh thường dùng trong lâm sàng gồm các điện
cực, bộ phận khuyếch đại, dao động kế (màn hình), loa và bộ phận ghi. Khi co
cơ, các hoạt động điện xuất hiện có thể ghi được nhờ điện cực bề mặt và điện
cực kim.
Các tín hiệu điện sinh lý sẽ được khuyếch đại hàng triệu lần và chuyển
thành hỡnh cỏc dạng súng điện thế xuất hiện trên màn hình dao động kế,
đồng thời chuyển thành các tín hiệu âm thanh nghe qua loa giúp cho phân tích
kết quả bằng cả hình ảnh và âm thanh. Gần đây, nhờ sự phát triển của công
nghệ kỹ thuật số, các máy ghi âm điện cơ cũng hiện đại hơn giúp cho việc
phân tích kết quả cũng nhanh chóng và có độ chính xác cao hơn.
* Điện cực:
- Điện cực ghi bề mặt: Thường bằng kim loại (bạc hay bạch kim) kích
thước khoảng 1cm

2
, khi ghi chúng được ỏp trờn da và cố định bằng băng
dính. Để giảm bớt điện trở ngoài da, người ta thường dung cồn hay ờte lau
21
sạch chỗ đặt điện cực và bôi vào đó chất keo dẫn điện. Điện cực bề mặt được
dùng để đo tốc độ dẫn truyền thần kinh hoặc thăm dò chức năng thần kinh cơ.
- Điệc cực kim: Được làm bằng thép, kích thước bằng kim châm cứu và
có độ dài khác nhau. Điện cực kim được cắm sâu vào trong cơ nên được ghi
các hoạt động điện ở phạm vi nhỏ hơn và sâu hơn, có thể giúp thăm dò được
hoạt động của các đơn vị vận động riêng lẻ.
- Điện cực kích thích thường hay dựng trờn lõm sàng là điện cực bề
mặt gồm hai cực dương và âm. Sử dụng dòng điện một chiều với các xung
vuông để kích thích các dây thần kinh ngoại vi. Vùng da kích thích được lau
sạch bằng cồn hay ờte để giảm điện trở da tăng khả năng dẫn điện. Trong một
số trường hợp cần kích thích sâu trong da người ta có thể dùng điện cực kim.
1.9.2.3 Chỉ định, chống chỉ định và các bước ghi điện sinh lý thần kinh
* Chỉ định:
- Nghiên cứu chức năng các đơn vị vận động, phân biệt giữa teo cơ do
tổn thương nguồn gốc cơ với nguồn gốc thần kinh.
- Góp phần chẩn đoán định khu tổn thương các rễ thần kinh ngoại vi.
- Tiên lượng tổn thương thần kinh ngoại vi.
* Chống chỉ định:
- Các bệnh rối loạn đụng mỏu có khuynh hướng chảy máu hoặc đang
dùng thuốc chống đông.
- Bệnh nhân mắc bệnh nhiễm khuẩn máu.
- Bệnh nhân bị các bệnh lây truyền theo đường máu (viêm gan, HIV…)
* Các bước ghi điện cơ:
Trên lâm sàng, các bước tiến hành ghi điện cơ thường qui được tiến
hành như sau:
- Sát khuẩn tại chỗ và cắm điện cực kim vào cơ định thăm dò và đánh

giá hoạt động khi cắm kim.
22
- Cố định điện cực, đánh giá hoạt động điện khi cơ nghỉ.
- Co cơ nhẹ, đánh giá các phóng lực riêng rẽ của các đơn vị vận động
- Co cơ tăng dần và tối đa để đánh giá những thay đổi về điện thế và
mật độ của các đơn vị vận động (hình ảnh tuyển nạp là hình ảnh giao thoa).
1.9.2.4 Đo tốc độ dẫn truyền vận động
* Nguyên tắc
Khi kích thích một dây thần kinh vận động bằng một xung điện, sẽ xuất
hiện khử cực tại chỗ đó và tạo nên một xung thần kinh. Xung này được di
chuyển dọc theo dây thần kinh vận động và gây co cơ. Dùng điện cực ghi đặt
trên khối cơ (điện cực bề mặt) ghi được hoạt động điện do cơ sinh ra gọi là
điện thế hoạt động cơ phối hợp (compound muscle action potential).
Nếu gọi L
1
là thời gian tiềm tàng (tính từ lúc kích thích đến khi xuất
hiện đáp ứng co cơ ở phần ngọn dây thần kinh), gọi L
2
là thời gian tiềm tàng
khi kích thích phần gốc dây thần kinh, D là khoảng cách giữa hai điểm kích
thích, tốc độ dẫn truyền thần kinh V giữa hai điểm kích thÝch sẽ được tính
theo công thức (hình 5.1) [13]:
(ms)L(ms)L
D(mm)
V(m/s)
12

=
23
Hình 5.1. Sơ đồ đo tốc độ dẫn truyền vận động dây thần kinh giữa

Ngoài tốc độ dẫn truyền, biên độ và hình dạng của điện thế hoạt động là các
chỉ số cũng cần được đánh giá. Biên độ là chiều cao của điện thế tính từ
đường đẳng điện đến đỉnh của sóng tính bằng millivolt, hoặc cũng có thể tính
bằng diện tích của vùng điện thế với đường đẳng điện .
1.9.2.5 Đo tốc độ dẫn truyền cảm giác
* Nguyên tắc
Đo tốc độ dẫn truyền cảm giác cũng được thực hiện tại các dây thần
kinh trụ và giữa ở chi trên; các dây hông khoeo trong, hông khoeo ngoài, dây
hiển ngoài ở chi dưới. Thời gian tiềm tàng cảm giác được tính từ khi kích
thích cho tới khi thu được điện thế đáp ứng. Có hai phương pháp đo dẫn
truyền cảm giác: (1)Phương pháp thuận chiều (hình 5.3), kích thích điện vào
thụ thể cảm giác ngoài da và ghi đáp ứng trên thân dây thần kinh, xung động
sẽ đi xuôi chiều sinh lý của dẫn truyền cảm giác và (2)phương pháp ngược
chiều, kích thích điện vào thân dây thần kinh và ghi đáp ứng tại vùng chi phối
cảm giác da của nó, xung động sẽ đi ngược chiều sinh lý của dẫn truyền cảm
giác.
Khác với các sợi vận động, không có các khớp thần kinh ngăn cách giữa
các cơ quan thụ cảm và sợi cảm giác nên thời gian tiềm tàng cảm giác chính là
thời gian dẫn truyền cảm giác của chính dây thần kinh đó. Khi đo tốc độ dẫn
truyền cảm giác chỉ cần kích thích tại một vị trí mà không cần phải kích thích
hai vị trí. Gọi thời gian tiềm tàng cảm giác là t, khoảng cách từ điện cực ghi tới
điện cực kích thích là d, tốc độ dẫn truyền cảm giác v được tính theo công
thức:
v = d/t
24
Biên độ được tính từ điểm thấp nhất cho đến điểm cao nhất của điện thế
cảm giác (hình 5.3). Các dây thần kinh giữa, trụ, quay ở chi trên và dây hiển
ngoài, dây hông khoeo trong sau ở chi dưới hay được áp dụng để đo tốc độ
dẫn truyền cảm giác trên lâm sàng.
Hình 5.3. Sơ đồ ghi điện thế cảm giác dây thần kinh giữa

1.9.2.6. Ghi điện sinh lý thần kinh bằng điện cực kim:
- Ghi: Điện cực kim đồng trục lưỡng cực cắm vào cơ ụ mụ cỏi (do dây
thần kinh giữa chi phối).
- Đánh giá điện thế khi cắm kim và các đơn vị vận động ở ba trạng thái
khác nhau (khi cắm kim, khi nghỉ, co cơ nhẹ, co cơ gắng sức)
- Cố định điện cực, đánh giá hoạt động điện khi cơ nghỉ.
- Co cơ nhẹ, đánh giá cỏc phúng lực riêng rẽ của các đơn vị vận động.
- Co cơ tăng dần và tối đa để đánh giá những thay đổi về điện thế và mật
độ của các đơn vị vận động (tuyển nạp và hình ảnh giao thoa).
- Tần số lọc 10 Hz đến 3 KHz.
- Khuếch đại biên độ 200 đến 500 mV/ụ.
- Tốc độ quét 100 miligiõy.
25

×