Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

SIÊU ÂM CHẨN ĐÓAN TRONG VIÊM GAN pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.31 KB, 12 trang )

SIÊU ÂM CHẨN ĐÓAN TRONG VIÊM GAN

I. Mở đầu :
Siêu âm trong viêm gan là một vấn đề chưa được tổng kết trong hoàn cảnh bệnh lý
nhiệt đới nước ta, nếu làm tốt hẳn sẽ tạo được tiền đề quan trọng trong chăm sóc
sức khỏe ban đầu, khu trú nguồn lây đối với viêm gan siêu vi nhất là siêu vi gan B,
C, hạ thấp tỉ suất ung thư tế bào gan nguyên phát (hepatocell carcinoma, HCC),
vốn là nguy cơ của khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
Báo cáo này trình bày các thăm dò về viêm gan trong 2 năm 1994 và 1995 tại
Trung tâm Chẩn đoán Y khoa thành phố Hồ Chí Minh (MEDIC).
II. Đối tượng – phương pháp
Gồm 2 nhóm bệnh nhân :
o Nhóm I gồm 817 ca được khám siêu âm theo tiêu chuẩn chẩn đoán
viêm gan do chúng tôi đề suất (xem bảng 1). Nếu hội đủ 3 tiêu chuẩn
hoặc nhiều hơn sẽ được xét nghiệm dấu hiệu huyết thanh học HBV,
HCV (HBV, HCV serological markers) ít nhất là HB sAg, HBsAb,
HBeAb và AntiHCV. Các trường hợp xét nghiệm HBV âm tính sẽ
được thử lại lần 2 sau 15 ngày (5).




BẢNG 1: TIÊU CHUẨN SIÊU ÂM ĐỀ NGHỊ CHẨN ĐOÁN VIÊM GAN

Tiêu chuẩn đề nghị Viêm gan cấp Viêm gan mạn
1. Kích thước Lớn / Bình Thường Bình thường /Teo
2. Bờ
Nh
ẵn Không đều/Nhẵn
3. Mặt sau Lõm Lồi
4. Chủ mô (so sánh với lách) Đồng dạng Không đ


ồng dạng với
o Kém
o Dày
các hạt nhỏ tái tạo
Thô
5. Khoảng quanh cửa Echo dày và dày ³ 5 ly
Echo dày và dày ³ 5 ly
6. Túi mật Vách phù nề hoặc không.
Không có mật
Méo d
ạng, vách
không dày.

o Nhóm II gồm 1367 ca đã có xét nghiệm dấu hiệu huyết thanh học
HBV và HCV dương tính (+), trong đó có 2 phụ nhóm : nhóm 403
ca có sero markers (+) với men gan GOT, GPT, GGT tăng gấp 1.5
lần bình thường (GOT và GPT > 60UI/L, GGT>65 UI/L) và nhóm
165 ca khác có sero markers (+) với men gan GOT, GPT, GGT tăng
gấp 3 lần bình thường (GOT và GPT > 120UI/L, GGT>129 UI/L).
Chúng tôi đã ghi nhận sự thay đổi hình thái và cấu trúc gan trên siêu
âm và túi mật và thống kê lại bằng các phương pháp thống kê y học
thông thường (6).
o Chúng tôi đích thân khám siêu âm cho từng bệnh nhân bằng máy
KONTRON SIGMA 1, đầu dò sector 5MHz. Chúng tôi gặp khó
khăn khi thuyết phục bệnh nhân cho sinh thiết gan ngay cả chọc hút
bằng kim nhỏ nen đã không thực hiện được tiêu chuẩn này.

III . Kết quả :

1. Nhóm 1 :

Gồm 817 ca
Siêu âm viêm gan (+) = 759 ca, tỉ lệ 759/817 = 92,90%
- Nhiễm HBV = 679 ca
- Nhiễm HCV = 27 ca
- Xét nghiệm HBV lần 2 (+) sau 15 ngày = 23 ca
Tổng cộng: 729 ca
Siêu âm viêm gan (-) = 58 ca, tỉ lệ 58/817 = 7.09%
Trong số này xét nghiệm HBV (+) = 24 ca.
Do đó độ phù hợp của siêu âm chẩn đoán viêm gan với xét nghiệm HBV, HCV
được thể hiện trong bảng 2 sau đây :
BẢNG 2 : Đối chiếu kết quả siêu âm chẩn đóan viêm gan và xét nghiệm HBV,
HCV.
Xét nghiệm HBV – HCV
Siêu âm chẩn đoán
Dương tính Am tính
Dương tính 729 ca (a) 30 ca(b)
Am tính 24 ca (c) 34 ca (d)
.a: Dương tính thật .c: Am tính giả .b: Dương tính giả .d: Am tính thật
- Độ nhạy = a/a+c = 729/729+24 = 729/753 = 96,81%
- Độ chuyên biệt = d/b + d = 34/30 + 34 = 34/64 = 53,12%
- Giá trị phỏng đoán dương tính = a/a+b = 729/759 = 96%
- Giá trị phỏng đoán âm tính = d/c+d = 34/58 = 58,6%
- Độ chính xác = a+d/tổng số ca = 729 + 34/817 = 763/817 = 93,39%

2. Nhóm II :
Gồm 1367 ca với 2 phụ nhóm, xem bảng 3.

Viêm gan (US+,
Markers+) k
hông

tính men gan N =
1367 ca
Viêm gan (US+,
Markers+, Men gan
tăng 1,5 l
ần : GOT
và GPT ³ 60UI/L;
GGT ³ 65UI/L) N =
403 ca
Viêm gan (US+,
Markers+, Men gan
tăng 3 lần : GOT v
à
GPT ³ 120UI/L; GGT
³ 129UI/L) N = 165 ca

Đ
ặc điểm cấu
trúc và hình
thái siêu âm
gan mật
Số ca Tỉ lệ Số ca Tỉ lệ Số ca Tỉ lệ
Cấutrúc Thô 211 15,4% 70 17,4% 28 17%
Dày 196 14,3% 73 18,1% 37 22,4%
Kém 149 10,9% 43 10,7% 20 12,1%
Hạt 132 9,7% 51 12,7% 22 13,3%
Đồng dạng 489 56,5% 209 51,9% 80 48,4%
Gan to 330 24,1% 108 26,8% 151 30,1%
Kho
ảng quanh

cửa dày
96 7% 32 7,9% 23 13,9%
Mặt sau lồi 276 20,2% 86 21,3% 32 19,4%
B
ờ gan không
đều
56 3,7% 29 7,2% 14 9,5%
Ghồ ghề 5 0,4% 2 0,5% 1 0,6%
Đều 1032 75,5% 296 73,4% 124 75,2%
Góc gan bầu 18 1,3% 9 2,2% 7 4,2%
Túi mật nhỏ 4 0,29% 3 0,74% 3 1,8%
Không ghi
nhận
964 70,51% 265 65,75% 102 61,81%
Xẹp 4 0,29% 3 0,74% 3 1,8%
Méo dạng 45 3,29% 24 5,95% 8 4,84%
Vách dày 12 0,87% 9 2,23% 4 2,42%
Không thấy 2 0,14%
Bình thường 331 24,21% 96 23,82% 43 26,06%
Xem bảng 3 chúng ta thấy cho thay đổi cấu trúc gan và túi mật trong viêm gan
siêu vi B, C nhưng ít và không đặc hiệu qua siêu âm chẩn đoán.

IV : Bàn luận :

Sự thay đổi cấu trúc echo ở viêm gan cấp và mạn cũng như xơ gan được nhiều tác
giả đề cập nhưng chưa hệ thống đầy đủ. Trước hết về kích thước, gan thường to
trong viêm cấp, bình thường trong viêm mạn (2,3,4). Số liệu của chúng tôi cho
thấy gan tothay đổi từ 24,1% đến 30,1%. Trong giai đoạn viêm gan cấp gan có
echo kém (dark liver) nhưng ở bệnh bạch cầu, hội chứng choáng độc tố (toxic
shock syndrome), gan sung huyết, AIDS và sau xạ trị cũng như ở người bình

thường gan cũng có echo kém (3). Số liệu của chúng tôi cho thấy gan có echo
kémthay đổi từ 10,7% đến 12,1%. Có tác giả cho rằng gan có echo kém trong
viêm gan cấp thể nặng (decreased echogenecity if severe) (4). Vách tĩnh mạch cửa
sáng hơn bình thường(3,4), có tác giả gọi là centrilobular pattern (3) có ở 32%
trong 791 ca viêm gan cấp nhưng cũng gặp ở nhóm chứng (31%). Số liệu của
chúng tôi cho thấy khoảng cửa dày và sángtừ 7% đến 13.9%. Trong viêm gan
cấp do rượu, gan thường to và sáng (bright liver) và có giảm âm như gan thấm mỡ
(3), nhưng chúng tôi thấy không có giảm âm và cũng không có giảm cấu trúc
mạch máu. Số liệu của chúng tôi thấy không có giảm âm và cũng không có giảm
cấu trúc mạch máu. Số liệu của chúng tôi cho thấy có gan có echo dàythay đổi từ
14,3% đến 22,4%.
Viêm gan mạn thể hoạt động thay đổi cấu trúc nhiều hơn thể tồn tại (4), chủ mô
gan thô (coarse) và cuống mạch mật giảm sáng, nhưng không giảm âm phần thấp
nhiều như gan thấm mỡ. Số liệu của chúng tôi cho thấy echo gan thôthay đổi từ
15,4% đến 17%. Khi gan có rối loạn chức năng trầm trọng, bề mặt gan không đều
do sự tạo lập các hạt tái tạo, bờ dưới gan cùn (blunted) và mặt sau gan trở nên lồi
(convex) (2). Số liệu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ gan có cấu trúc hạtthay đổi từ
09,7% đến 13,3% và mặt sau gan lồithay đổi từ 19,4% đến 21,3%.
Vách túi mật thường dày trong viêm gan cấp (4) và trong xơ gan (2). Số liệu của
chúng tôi cho thấy vách túi mật dàythay đổi từ 0,87% đến 02,42%.Thay đổi
dạng túi mật thường là thứ phát sau sự biến dạng (deformity) của gan (2). Số liệu
của chúng tôi cho thấy túi mật méo dạngthay đổi từ 03,29% đến 05,95%.
Chúng tôi không có số liệu của các tác giả khác để đối chiếu, nhìn chung, thay đổi
cấu trúc gan trong viêm gan tuy đa dạng nhưng tỉ lệ thay đổi không nhiều và
không đặc hiệu. Đó cũng là lý do vì sao khó chẩn đoán chính xác viêm gan bằng
siêu âm mặc dù nhiều người đồng ý rằng siêu âm là một kỹ thuật có độ nhạy trong
phân biệt gan bình thường và bất thường (3).

V. Kết luận :


Siêu âm là một phương tiện chẩn đoán hình ảnh có độ nhạy cao trong bệnh lý gan
mật, không can thiệp và có thể làm đi làm lại nhiều lần. Trong lô nghiên cứu của
chúng tôi độ chính xác ở viêm gan là 93,39%. Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi
nhận thấy việc hệ thống hóa tiêu chuẩn chẩn đoán viêm gan như đã đề nghị, dù
không có tính đặc hiệu, song có tác dụng định hướng chẩn đoán và đơn giản hóa
khi áp dụng trong công tác chẩn đoán thường ngày.
Lời cảm ơn : Chúng tôi xin cảm ơn các bác sĩ của khu bện lý gan MEDIC 2, bác sĩ
Phạm Công Chánh đã cộng tác và hỗ trợ nhiệt tình trong việc thu thập dữ liệu lâm
sàng.

Tài liệu tham khảo chính :

 DAFIRI, R.et al : Apport de I’échographie dans la tuberculose des viscères
pleines de I’abdomen. J. Radio., N o 2, 1990.
 HIGASHI, T .et al : Introduction to Abdominal Ultrasonography, 1991
 IRVING, H.C. : Diffuse Liver Disease, pp. 295-307, Clinical Ultrasound,
Vol.I, Churchill Livingstone, 1 st ed., 1994.
 HAGEN-ANSERT, SL: The Liver, pp.99-158, Textbook of Diagnostic
Ultrasonography (Volume 1), 4 th ed. Mosby – Yearbook, 1995.
 NGUYỄN THIỆN HÙNG et al : Siêu âm chẩn đoán trong viêm gan siêu vi
B và C (sơ kết từ tháng 8/1993 đến tháng 6/1994), MEDIC 1994.
 NGUYỄN THIỆN HÙNG et al : Thay đổi cấu trúc siêu âm gan mật trong
viêm gan siêu vi B và C, MEDIC 1996.
 NGUYỄN TRÙNG KHÁNH et al : Abdominal Sonography, 1992.

×