Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

HỘI CHỨNG TIỀN ĐÌNH ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.05 KB, 21 trang )

HỘI CHỨNG TIỀN ĐÌNH



I. NHẮC LẠI GIẢI PHẪU
Cơ quan tiền đình gồm có:
Mê đạo màng: nằm trong mê đạo xương ở tai trong, chúa nội dịch. Bao gồm: ốc
tai, soan nang, cầu nang và các ống bán khuyên.
Ống bán khuyên: mỗi tai có 3 ống bán khuyên : bên, trước và sau, nằm thẳng góc
với nhau, phần phình ra mỗi ống đổ vào soan nang gọi là bóng (ampulla) chứa các
thụ thể kích thích khi xoay đầu. Ví dụ khi xoay đầu sang trái thì ống bán khuyên
báo cho biết đầu quay theo hướng nào và nhanh như thế nào.
Soan nang, cầu nang : có các thụ thể cho các cảm giác về trọng lực và gia tốc
thẳng. Ví dụ : nếu đầu nghiêng về một bên, các thụ thể sẽ báo góc nghiêng, đầu có
nghiêng ra trước hoặc ra sau klhông; Khi chạy xe gia tăng tốc độ, ngừng lại đen đỏ
các thụ thể sẽ cho cảm tưởng gia tăng tốc độ.
Cơ quan nhận cảm:
Mào: nằm trong bóng, được cấu tạo bởi các tế bào lông, phía trên các tế bào phủ
một lớp gelatin gọi là đài (cupula), lông của tế bào nằm trong đài gồm có lông
rung (kinocilium) và lông lập thể (stereocilia), còn đáy tế bào tiếp xúc với nơ-rôn
của nhánh tiền đình.
Vết: ở trên soang nang và cầu nang được cấu tạo bởi các tế bào lông, phủ lên trên
tế bào lông là sỏi tai (otoliths).
Nhân tiền đình :
Các bộ phận nhận cảm của tiền đình ngoại biên nằm ở mê đạo màng, thân tế bào ở
hạch tiền đình, nhánh tiền đình của dây tiền đình ốc tai (dây VIII) đi đến nhân tiền
đình nẵm giữa cầu não và hành não.
Chức năng nhân tiền đình : (1) đồng nhất các thông tin đến từ mỗi bên của đầu (2)
nhận các tín hiệu và tiếp tục truyền tới tiểu não (3) nhận các tín hiệu và tiếp tục
truyền tới vỏ não cho nhận thức về giác quan vị trí và vận động (4) gởi mệnh lệnh
đến các nhân vận động nằm ở thân não và tủy sống, các lệnh được đưa đến dây sọ


(III, IV, VI, XI), bó tiền đình tủy sống chi phối trương lực cơ ngoại biên và bổ
sung vận động đầu và cổ.
Đường dẫn truyền: thân tế bào của khoảng 19.000 neuron tiền đình ngoại biên
xuất phát từ mào và vết mỗi bên tập trung ở hạch tiền đình và chấm dứt ở nhân
tiền đình (ranh giới hành-cầu não) và thùy nhung nút của tiểu não. Các neuron tiền
đình trung ương (từ nhân tiền đình) đi xuống tủy sống theo bó tiền đình sống và đi
lên thân não theo bó dọc giữa đến các nhân dây thần kinh sọ điều khiển cử động
mắt.
II. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG VÀ CÁC KHẢO SÁT
1/ Triệu chứng chủ quan:
Chóng mặt là triệu chứng chủ yếu. BN có cảm giác bị dịch chuyển, mọi vật xung
quanh xoay tròn, hoặc chính bản thân BN xoay tròn so với những vật xung quanh.
Trong những trường hợp rõ ràng, cảm giác bị dịch chuyển rất rõ, có thể xảy ra trên
mặt phẳng đứng dọc hoặc mặt phẳng đứng ngang. Tuy nhiên trong một vài trường
hợp chóng mặt không rõ ràng, BN chỉ có cảm giác dịch chuyển hoặc lắc lư thân
mình, hoặc cảm giác bay lên, rớt xuống hoặc cảm giác mất thăng bằng.
Các dấu hiệu đi kèm thường hằng định : BN thường có cảm giác khó chịu, thường
là sợ hãi, mất thăng bằng. Té ngã có thể xảy ra lúc chóng mặt, lúc này BN không
thể đứng được. Ngoài ra BN có thể có rối loạn dáng đi. Buồn nôn, ói mửa xuất
hiện khi làm những cử động nhẹ nhàng và thường đi kèm các rối loạn vận mạch
như da tái xanh, vã mồ hôi, giảm nhịp tim.
Chúng ta cần lưu ý tất cả những đặc điểm của chóng mặt:
· Kiểu xuất hiện của chóng mặt: có thể xuất hiện đột ngột và có tính chất xoay
tròn, hoặc có thể xuất hiện từ từ với những cơn chóng mặt nhỏ nối tiếp nhau hoặc
chỉ mất thăng bằng nhẹ lúc đi lại và sau đó triệu chứng này trở thành mãn tính.
· Chóng mặt xảy ra lúc thay đổi tư thế từ nằm sang ngồi không, chóng mặt có lệch
về một bên nào không?
· Các dấu hiệu đi kèm: quan trọng nhất là các dấu hiệu về thính lực (giảm thính
lực, ù tai, cảm giác tai bị đầy, điếc đặc), kế đến là các dấu hiệu về thần kinh thực
vật (buồn nôn, nôn ói, lo lắng). Lưu ý là bệnh nhân hoàn toàn không mất ý thức.

· Tiền sử của bệnh nhân về tai mũi họng (viêm tai kéo dài), về thần kinh, chấn
thương (chấn thương sọ não), về ngộ độc (ngộ độc thuốc, đặc biệt là các khgáng
sinh độc với tai), về mạch máu, về dị ứng.
· Đặc điểm diễn tiến và tần số cơn chóng mặt
Chóng mặt sinh lý :
Xảy ra khi
1. não có sự mất cân đối trong ba hệ thống giữ thăng bằng (hệ tiền đình, hệ thị
giác, hệ thống cảm giác bản thể hay còn gọi là hệ cảm giác sâu). Ví dụ như
chóng mặt do đi xe, chóng mặt do độ cao, chóng mặt thị giác khi nhìn một
loạt cảnh chuyển động nối tiếp nhau (do cảm giác thị giác ghi nhận những
cử động của môi trường bên ngoài không được đi cùng với những biến đổi
kế tiếp của hệ tiền đình và hệ cảm giác bản thể)
2. hệ tiền đình gặp những vận động đầu mà nó chưa thích nghi cả, ví dụ như
say sóng
1. tư thế bất thường của đầu và cổ, ví dụ như ngửa đầu ra quá mức khi sơn
trần nhà.
Chóng mặt không gian (space sickness) là chóng mặt thoáng qua thường gặp, do
vận động chủ động của đầu trong môi trường không có trọng lực là một ví dụ của
chóng mặt sinh lý.
Chóng mặt bệnh lý : do tổn thương hệ thị giác, hệ cảm giác bản thể hoặc hệ tiền
đình.
- Chóng mặt thị giác là do thấy những hình ảnh mới hoặc hình ảnh không thích
hợp, hoặc do xuất hiện liệt đột ngột cơ vận nhãn kèm theo song thị; trong trường
hợp này hệ thần kinh trung ương sẽ nhanh chóng bù trừ tình trạng chóng mặt này.
- Chóng mặt do rối loạn cảm giác sâu hiếm khi là triệu chứng đơn độc. Chóng mặt
lúc này thường do bệnh lý thần kinh ngoại biên (có rối loạn cảm giác sâu) làm
giảm những xung động cảm giác cần thiếtđến hệ thống bù trừ trung ương kèm với
rối loạn chức năng của hệ tiền đình hoặc hệ thị giác.
- Chóng mặt do rối loạn chức năng hệ tiền đình là nguyên nhân thường gặp nhất,
chóng mặt thường kèm theo buồn nôn, rung giật nhãn cầu, thất điều dáng đi. Do

chóng mặt tăng lên khi cử động đầu nhanh, bệnh nhân thường có khuynh hướng
giữ đầu nằm yên không nhúc nhích.
2/ Triệu chứng khách quan
a) Rung giật nhãn cầu (nystagmus): là triệu chứng chủ yếu
Rung giật nhãn cầu nhãn cầu do nguyên nhân tiền đình thường đánh theo nhịp. Đó
là cử động của nhãn cầu theo nhịp gồm sự nối tiếp nhau giữa hai pha: pha chậm
đưa nhãn cầu sang một phía (do tác động của hệ tiền đình), kế đến là pha nhanh
đưa nhãn cầu theo chiều ngược lại, đưa mắt về vị trí nghỉ ngơi (do tác động của
chất lưới cầu não).
Khi có triệu chứng rung giật nhãn cầu, chúng ta cần xác định hướng, chiều và mức
độ của nó.
· Hướng (direstion): Rung giật nhãn cầu tiền đình được gọi tên theo hướng đánh
nhanh vì chiều này được thấy rõ nhất khi khám lâm sàng. Có thể là rung giật nhãn
cầu ngang, dọc hoặc xoay tròn (cùng chiều kim đồng hồ hoặc ngược chiều kim
đồng hồ), hoặc rung giật nhãn cầu hỗn hợp (ngang –xoay tròn).
Hướng của rung giật nhãn cầu phụ thuộc vào vòng bán khuyên bị kích thích, tức là
phụ thuộc vào vị trí của đầu trong lúc khám bệnh. Rung giật nhãn cầu được tạo ra
lúc đầu là do sự di chuyển của nội dịch: pha chậm của rung giật nhãn cầu đánh
theo hướng của dòng nội dịch.
Chóng mặt là hiện tượng bù trừà theo hướng ngược lại: hướng pha nhanh của rung
giật nhãn cầu
· Chiều (sens): sang (P), sang (T) đối với nystagmus ngang, lên trên, xuống dưới
đối với nystagmus dọc, cùng chiều kim đồng hồ hoặc ngược chiều kim đồng hồ
đối với nystagmus xoay tròn.
· Mức độ:
Độ I: xuất hiện nystagmus có chiều đánh cùng chiều với phía mà mắt liêc sang bên
đó. Ví dụ nystagmus đánh sang (P) khi mắt liếc sang (P).
Độ II: nystagmus xuất hiện cả khi mắt ở đường giữa.
Độ III: nystagmus đánh sang chiều ngược lại với phía mà mắt liếc sang. Ví dụ
nystagmus đánh sang (T) khi mắt liếc sang (P).

b) Rối loạn thăng bằng
* Các rối loạn tĩnh trạng: chú ý đến sự di lệch của thân, trục cơ thể: sự di lệch
này đi theo hướng của dòng nội dịch.
Dấu Romberg: khi BN đứng, hai chân khép lại, ta sẽ thấy thân mình BN nghiêng
về một bên, hiếm hơn là nghiêng ra phía trước hoặc phía sau nhưng thuờng là
cùng một phía đối với một BN. Rối loạn này tăng lên khi BN nhắm mắt (dấu
Romberg tiền đình). Nếu nặng hơn, BN có thể bị té ngã, đôi khi xảy ra đột ngột,
lúc này đứng và đi không thể thực hiện được.
Nghiệm pháp đi bộ (Unterberger test): bệnh nhân đi bộ trên một điểm trong một
phút, hai tay đưa thẳng ra trước mặt, đầu gối chân co lên phải đưa lên cao, nếu cần
thiết cho bệnh nhân đếm cùng lúc để tránh tập trung, nếu có tổn thương tiền đình
bệnh nhân sẽ khởi đầu quay trục của mình theo một hướng đặc biệt, quay hơn 45
0

trong 50 bước là bệnh lý.
Nghiệm pháp giơ thẳng hai tay: Bệnh nhân ở tư thế đứng thẳng, hai mắt nhắm, hai
tay đua thẳng ra trước, hai ngón trỏ nhắm vào hai ngón trỏ tương ứng của người
khám, ta ghi nhận có sự di lệch chậm trên mặt p[hẳng ngang theo hướpng bên tiền
đình bị bệnh đối với bênh lý tiền đình ngoại biên.
*Rối loạn động trạng: sự di lệch của các chi theo hướng của dòng nội dịch
Nghiệm pháp bước đi hình sao (Test Babinski-Weil): yêu cầu bệnh nhân nhắm
mắt, bước tới 5 bước sau đó lùi lại 5 bước lập lại nhiều lần khoảng 30 giây. Nêu
giảm chức năng tiền đình một bên bệnh nhân có khuynh hướng lệch về một bên
(bên bệnh) khi tiến lên và lệch theo hướng ngược lại khi lùi ra sau vẽ nên hình
ngôi sao.
Nghiệm pháp past pointing: Bệnh nhân giơ thẳng hai tay ra trước, ngón trỏ chạm
vào ngón trỏ của người khám, sau đó yêu cầu bệnh nhân nhắm mắt, đưa tay lên và
hạ xuống chạm vào tay người khám lần nữa. Đối với người có rối loạn tiền đình
hai ngón trỏ không chạm tay người khám mà bị di lệch sang một bên, chúng ta ghi
nhận độ di lệch đó. Càng làm nhiều lần, góc độ di lệch có thể càng tăng.

Trong khi khám luôn chú ý chiều của hướng đi lệch, hướng tay lệch và chiều chậm
của nystagmus xem có sự tương hợp, sự hài hòa hay không.
c) Nghiệm pháp nhiệt: đây là một nghiệm pháp dễ thực hiện, giúp chúng ta đánh
giá được hoạt động của từng cơ quan tiền đình riêng biệt. Cho BN nằm ngửa, đầu
nâng cao ở góc 30
0
độ, giữ ống bán khuyên bên ở vị trí thẳng đứng, bơm vào tai
BN nước lạnh 33
0
hoặc nước nóng 44
0
trong thời gian khoảng 40 giây, thời gian
tối thiểu giữa hai lần thử là 5 phút, nước ấm ít gây khó chịu hơn nước lạnh. Chú ý
khám xem màng nhĩ có bị tổn thương trước khi làm nghiệm pháp nhiệt (thủng
màng nhĩ là chống chỉ định).
Ở BN tiền đình bình thường, kích thích nước lạnh xuất hiện rung giật nhãn cầu với
chiều chậm hướng về tai kích và chiều nhanh theo hướng ngược lại.
Ở BN tổn thương tiền đình một bên: kích thích không có rung giật nhãn cầu, hay
xuất hiện rung giật nhãn cầu chậm, có biên độ yếu và thời gian ngắn hơn so với
bên lành.
d) Nghiệm pháp ghế quay (Bárány) : cho BN ngồi trên một ghế quay, đầu cúi ra
phía trước một góc 30 độ, cho ghế quay 10 vòng trong 20 giây, sau đó ngưng lại,
quan sát các phản ứng xuất hiện. Nếu chiều quay của ghế là sang bên phải thì sau
khi ngưng quay BN có rung giật nhãn cầu đánh ngang sang trái, khi đứng ngã về
bên trái, ngón tay lệch về bên trái.
Thường nghiệm pháp này dùng để khảo sát chức năng tiền đình hai bên ở những
BN bị điếc hoàn toàn.
e) Nghiệm pháp Nylen-Bárány : khi BN có chóng mặt tư thế lành tính, nghiệm
pháp này có mục đích làm tăng triệu chứng. Cho BN ngồi quay đầu sang phải,
nhanh chóng cho BN nằm ngửa đầu thấp hơn mặt phẳng ngang một góc 30

0
, quan
sát có rung giật nhãn cầu và chóng mặt. Sau đó đưa bệnh nhân ngồi dậy đầu vẫn
tiếp tục dược giữ ở tư thế quay (P) quan sát xem bệnh nhân có chóng mặt và rung
giật nhãn cầu. Nghiệm pháp được lập lại với đầu và mắt quay sang trái nằm xuống
và nhìn thẳng nằm xuống.
Ngoài ra còn phải khám thêm về thần kinh xem bệnh nhân có tổn thương dây VIII
thính lực, dây VII, dây V, tổn thương tiểu não, và các tổn thương về vận động,
cảm giác.
III. CÁC HỘI CHỨNG TIỀN ĐÌNH :
1) Hội chứng tiền đình ngoại biên : tổn thương bộ phận cảm nhận hoặc dây TK
tiền đình.
Triệu chứng chủ quan: chóng mặt dữ dội, xảy ra từng cơn
Triệu chứng khách quan mang tính chất toàn diện và hòa hợp :
Toàn diện: tất cả các rối loạn tiền đình đều hiện diện như rung giật nhãn cầu
(ngang-xoay tròn), lệch các ngón tay, rối loạn tĩnh trạng, rối loạn dáng đi.
Hòa hợp : các triệu chứng đều cùng về một phía thường là bên bệnh
Thường kèm theo các rối loạn thính giác như ù tai, giảm thính lực.
2) Hội chứng tiền đình trung ương: tổn thương nhân tiền đình hoặc các đường
liên hệ nhân tiền đình với hệ TK trung ương.
Triệu chứng không điển hình như trong tổn thương tiền đình ngoại biên, có sự
khác biệt rõ rệt so với hội chứng tiền đình ngoại biên.
· Trước hết là do tổn thương nằm xa đường ốc tai và dây VII nên không có ù tai,
điếc tai hay tổn thương dây VII đi kèm. Thêm vào đó chóng mặt không là triệu
chứng chủ yếu mà chỉ là triệu chứng thứ yếu: chóng mặt ít hơn, không rõ như
trong hội chứng tiền đình ngoại biên. Trong khi đó mất thăng bằng mới là triệu
chứng quan trọng nhất.
· Các dấu hiệu khách quan thường là hằng định: rung giật nhãn cầu thường tự
phát và đơn thuần: đứng dọc trong tổn thương cuống não, ngang trong tổn thương
cầu não và xoay tròn trong tổn thương hành não.

· Triệu chứng không toàn diện vì không có đủ cùng lúc các dấu hiệu.
· Cuối cùng là sự mất hòa hợp rất ro vì rung giật nhãn cầu có thể có nhiều hướng
(multidirectionnel: đưa mắt sang (P), rung giật nhãn cầu đáng sang (P), : đưa mắt
sang (T), rung giật nhãn cầu đáng sang (T), : đưa mắt lên trên, rung giật nhãn cầu
đáng lên trên) chiều chậm của rung giật nhãn cầu có thể không cùng chiều với
ngón tay chỉ lệch, với chiều ngã về một bên trong nghiệm pháp Romberg.
· Ngoài ra còn có hiện diện các tổn thương thần kinh như dấu hiệu tiểu não, tổn
thương thân não (dấu hiệu tháp: yếu liệt, tổn thương vận nhãn)
III. CĂN NGUYÊN CÁC HỘI CHỨNG TIỀN ĐÌNH
1. HỘI CHỨNG TIỀN ĐÌNH NGOẠI BIÊN
1. Cơn chóng mặt dữ dội xuất hiện cấp tính
Trong trường hợp này chẩn đoán tổn thương tiền đình không có gì khó khăn cả:
chóng mặt rất rõ, thường là xoay tròn và nặng lên khi cử động đầu. Chóng mặt đi
kèm với buồn nôn, ói mửa và rối loạn thăng bằng (chóng mặt thường gây nên té
ngã, bệnh nhân đi chệnh choạng hoặc không thể đi được). Khám lâm sàng ghi
nhận có rung giật nhãn cầu và ngón tay chỉ lệch.
1.1 Hội chứng tiền đình ngoại biên đi kèm với điếc tai
Bệnh Ménière hay hội chứng Menière là bệnh lý gồm những cơn chóng mặt lập đi
lập lại phối hợp với ù tai và điếc dần dần tai bên bệnh. Lúc đầu ù và/hoặc điếc tai
có thể không xuất hiện trong những cơn đầu của bệnh. Nhưng khi bệnh tiến triển
thì các triệu chứng này xuất hiện đều đặn và cường độ tăng dần lên trong cơn
chóng mặt.
Cơn chóng mặt thường xảy ra đột ngột, kéo dài nhiều phút hoặc cả giờ đồng hồ.
Chóng mặt thường theo kiểu xoay tròn và ở mức độ nặng làm bệnh nhân không
thể đứng hoặc đi lại được. Chóng mặt thường đi kèm với buồn nôn, ói mửa, ù tai,
cảm giác đầy cả tai, và giảm thính lực (cường độ có thể tăng dần trong cơn).
Khám lâm sàng ghi nhận rung giật nhãn cầu có hướng ngang (có khi kèm thêm
xoay tròn). Pha chậm của rung giật nhãn cầu cũng như hướng ngón tay chỉ lệch,
hướng nghiêng người trong nghiệm pháp Romberg đều cùng phía với tai bệnh.
Bệnh nhân có khuynh hướng nằm nghiêng, tai bệnh hướng lên trên (nằm áp tai

lành xuống mặt giường) và không thích nhìn sang bên lành vì động tác này làm
nặng thêm tình trạng chóng mặt và rung giật nhãn cầu.
Các cơn thay đổi rất nhiều về mức độ nặng nhẹ và về tần số xuất hiện. Cơn có thể
xảy ra nhiều lần trong tuần và nhiều tuần liên tiếp, hoặc có khi chỉ tái phát sau
nhiều năm không có cơn.
Trong các thể nhẹ của bệnh, bệnh nhân thường có cảm giác nặng đầu, kém tập
trung chứ không phải chóng mặt đúng nghĩa, và có thể bị chẩn đoán lầm là lo lắng
hoặc trầm cảm.
Bệnh thường gặp ở lứa tuổi 20 đến 50, nam nữ đều mắc bệnh như nhau
Tiêu chuẩn chẩn đoán:
1. Có những cơn tương tự trước đó.
2. Tuổi thường gặp từ 30-50 tuổi.
3. Trong cơn có chóng mặt dữ dội đi kem với giảm thính lực một bên, ù tai
hoặc cảm giác đặc cả tai
4. Khám lâm sàng ghi nhận rung giật nhãn cầu đánh về chiều ngược với bên
tai bệnh, còn nghiệm pháp ngón tay chỉ lệch và nghiệm pháp Romberg thì
nghiêng về tai bệnh.
5. Không có các dấu hiệu tổn thương thần kinh trung ương.
6. Thính lực đồ ghi nhận điếc tiếp nhận một bên tai, chủ yếu ở những tần số
cao và có hiện tượng chọn lọc.
Cơ chế bệnh sinh chưa rõ, có thể là do tăng thể tích trong hệ thống nội dịch do
giảm sự hấp thu hoặc tắc nghẽn trong ống dẫn.
Điều trị:
Điều trị trong cơn cấp: nằm tại giường là phương pháp điều trị tốt nhất vì bệnh
nhân có thể tìm ra một tư thế thích hợp để chóng mặt ít xảy ra nhất.
Trong những cơn kéo dài có thể dùng dimenhydrinate, cyclizine, meclizine.
Chế độ ăn giảm muối cũng nên dùng dù rằng hiệu quả của chế độ ăn này khó mà
đánh giá được.
Có thể điều trị bằng phẫu thuật.
1.2 Hội chứng tiền đình ngoại biên không có điếc tai đi kèm

Khi không có điếc tai đi kèm chúng ta cần phân biệt giữa hội chứng tiền đình
ngoại biên và hội chứng tiền đình trung ương xảy ra đột ngột. Trong hội chứng
tiền đình ngoại biên sẽ không có các dấu hiệu tổn thương thân não hay tiểu não đi
kèm.
Viêm thần kinh tiền đình
Cơn xảy ra kịch phát, thường chỉ có chóng mặt , không có ù tai, điếc tai đi kèm.
Thường gặp ở tuổi trung niên, xảy ra ở cả hai phái.
Cơn chóng mặt xảy ra sau khi bị nhiễm trùng ở đường hô hấp trên, do đó nghĩ
nhiều đến có thể do nhiễm siêu vi.
Chóng mặt tự thuyên giảm trong vòng vài giờ, vài ngày. Việc điều trị chỉ là ủ ấm.
Nếu kéo dài có thể sử dụng các thuốc điều trị triệu chứng.
Cơn chóng mặt có thể chỉ là một đợt duy nhất hoặc có khi tái đi tái lại nhiều lần
(gọi là bệnh lý tiền đình mãn tính), nhưng luôn có tiên lượng tốt vì không ảnh
hưởng đến ốc tai.
1. Chóng mặt ngoại biên xuất hiện mãn tính
Trong trường hợp này chóng mặt thường không rõ, xảy ra trong thời gian ngắn
hoặc thường gặp là cảm giác chóng mặt, cảm giác mất thăng bằng và thường khó
phân biệt với cảm giác sợ té, cảm giác hoa mắt.
2.1 Chóng mặt tư thế
Tất cả các trường hợp chóng mặt đều nặng lên khi có cử động của đầu, tuy nhiên
gọi là chóng mặt tư thế chỉ khi mà chóng mặt xuất hiện ở một tư thế định sẵn trong
không gian.
Chóng mặt tư thế lành tính (Benign Positional Vertigo)
Bệnh có đặc điểm là cơn chóng mặt kịch phát và rung giật nhãn cầu xảy ra ở
những tư thế đặc biệt của đầu, nhất là khi nằm xuống, khi lật qua lật lại trên
giường, khi ngóc đầu lên và đứng dậy, khi ngửa đầu ra sau. Mỗi cơn kéo dài chưa
đầy một phút, nhưng có thể có nhiều cơn lập lại trong nhiều ngày, nhiều tháng
hoặc hiếm hơn nhiều năm. Khám lâm sàng hoàn toàn không phát hiện bất thường
về thính lực, về tổn thương trong tai, hoặc bất thường ở những nơi khác.
Chẩn đoán nhờ nghiệm pháp Nylen-Barany. Khi cho làm nghiệm pháp, bệnh nhân

xuất hiện cơn chóng mặt kịch phát (sau vài giây), bệnh nhân sợ hãi, nắm chặt tay
người khám hoặc thành giường và ngồi dậy. Chóng mặt thường kèm theo những
cử động đong đưa của mắt và rung giật nhãn cầu, chủ yếu theo kiểu ngang-xoay
tròn, hướng xuống nền nhà. Chóng mặt và rung giật nhãn cầu kéo dài không quá
30-40 giây (thường không quá 15 giây). Khi chuyển từ tư thế nằm sang tư thế ngồi
thường bệnh nhân vẫn còn chóng mặt và vẫn còn rung giật nhãn cầu.
Lập lại nghiệm pháp này, chóng mặt và rung giật nhãn cầu sẽ ít rõ ràng hơn, sau 3-
4 lần chúng ta sẽ không thấy xuất hiện chóng mặt và rung giật nhãn cầu nữa. Tuy
nhiên sau khi cho bệnh nhân nghỉ một thời gian, làm lại nghiệm pháp, chóng mặt
và rung giật nhãn cầu nhãn cầu có thể xuất hiện lại với mức độ trầm trọng như lúc
đầu.
Lưu ý rằng nghiệm pháp Nylen-Barany âm tính vẫn không thể loại trừ chẩn đoán.
Ở một số bệnh nhân không có chóng mặt và rung giật nhãn cầu khi làm nghiệm
pháp này, tuy nhiên dựa vào bệnh sử và những yếu tố khác chúng ta vẫn phải nghĩ
đến chóng mặt tư thế lành tính.
Một biến thể khác của chóng mặt tư thế lành tính là chóng mặt xuất hiện vài giây
khi đột ngột xoay đầu. Những cơn chóng mặt kịch phát như vật có thể đến rồi đi
xảy ra nhiều năm, nhất là ở người già mà không cần điều trị gì cả.
2.2 Chóng mặt không theo tư thế: do viêm tai, do u thần kinh thính giác
(neurinome).
1. Chóng mặt ngoại biên xảy ra trong các tình huống đặc biệt
Chóng mặt do thuốc: thuốc gây nên tổn thương độc tính lên tế bào nhận cảm và
tổn thương này mang tính chất không hồi phục.
* Thuốc thường gặp nhất là nhóm kháng sinh aminoglycoside (đặc biệt là
streptomycine, gentamycine, kanamycine).
Biểu hiện lâm sàng là hội chứng tiền đình ngoại biên cấp tính.
Sử dụng các kháng sinh này 2-4 tuần có thể gây nên tổn thương vĩnh viễn hai bên
mê đạo (mất tính kích thích).
Cách điều trị duy nhất là phòng ngừa, không để xảy ra vì tổn thương này phụ
thuộc vào liều lượng, cơ địa bệnh nhân có suy thận hay không.

* Hai loại thuốc lợi tiểu – furosemide (Lasix) và acide étacrynic (Edecrine) – có
thể gây nên rối loạn tiền đình-ốc tai (chóng mặt, ù tai, điếc tai). Các rối loạn này
thường là hồi phục, nhưng trong một số trường hợp có thể không hồi phục. Tổn
thương thường xảy ra khi dùng liều cao, dường tĩnh mạch, chức năng thận suy
giảm.
· Quinine và salicylate liều cao có thể gây ra chóng mặt kèm ù tai.
1. HỘI CHỨNG TIỀN ĐÌNH TRUNG ƯƠNG
1. Cơn chóng mặt dữ dội cấp tính
Cơn chóng mặt kịch phát xảy ra mà không có tổn thương thính lực đi kèm, giúp
chúng ta có thể phân biệt được với hội chứng tiền đình ngoại biên.
Nguyên nhân mạch máu: nhồi máu thân não (hội chứng Wallenberg), nhồi máu
tiểu não biểu hiện bằng hội chứng tiền đình cấp tính như chóng mặt, buồn nôn, ói
mửa. Chẩn đoán dựa trên sự xuất hiện các dấu thần kinh khác (ví dụ như trtiệu
chứng tiểu não), tuy nhiên không phải lúc nào cũng có những dấu hiệu thần kinh
này.
Bệnh xơ cứng rải rác (Multiple sclerosis): cũng có thể có những cơn chóng mặt
cấp tính dữ dội. Tuy nhiên ít khi nghĩ đến chẩn đoán này khi bệnh nhân chỉ có dơn
thuần cơn chóng mặt mà không kèm những tổn thương thần kinh khác (kiểu đa ổ)
như triệu chứnt tiểu não, liệt giữa nhân, triệu chứng tháp.
1. Chóng mặt trung ương xuất hiện mãn tính
2.1 Chóng mặt tư thế có nguồn gốc trung ương: hiếm gặp hơn chóng mặt tư thế
ngoại biên. Khác với chóng mặt tư thế ngoại biên là chóng mặt ở đây xảy ra ngay
lập tức ở những tư thế khác nhau khi làm nghiệm pháp Nylen-Barany; không có
hiện tượng quen dần khi lập lkại nghiệm pháp này nhiều lần. Rung giật nhãn cầu
nhãn cầu đánh nhiều hướng.
Thường do thiếu máu não động mạch cột sống thân nền hoặc hiếm hơn do u hố
sau.
2.2 Chóng mặt không theo tư thế: Ở bệnh nhân < 50 tuổi, thường có thể do u não,
hoặc hiếm hơn do bệnh xơ cứng rải rác.
1. Chóng mặt xuất hiện trong những tình huống đặc biệt

Do sử dụng thuốc làm tổn thương các đường tiền đình trung ương ví dụ như thuốc
chống động kinh (carbamazepine, phenytoin), thuốc hạ áp, thuốc giảm đau, thuốc
an thần.
Chóng mặt và Migraine: cơn chóng mặt có thể xảy ra lúc đầu cơn migraine. Chóng
mặt có thể là triệu chứng đơn độc hoặc đi kèm với những dấu hiệu tổn thương hệ
động mạch cột sống thân nền.

V. CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT
Chủ yếu chẩn đoán phân biệt với cảm giác sợ té, cảm giác mất thăng bằng, cảm
giác choáng váng do nguyên nhân tâm lý.
Dưới danh từ “chóng mặt” bệnh nhân có thể mô tả một số biểu hiện về tâm lý mà
chúng ta dễ dàng chẩn đoán phân biệt với rối loạn tiền đình.
Để nhận dạng nguyên nhân tâm lý chúng ta cần lưu ý:
- Khi cảm giác bất thường là cảm giác sợ té ngã, bệnh nhân sợ ngã nhưng không
bao giờ bệnh nhân bị té ngã cả. Ngược lại, bệnh nhân có tổn thương tiền đình thật
sự cũng có cảm giác sợ té ngã và thực tế đã té ngã một hoặc nhiều lần.
- Khi cảm giác bất thường đi kèm với rối loạn tri giác: choáng váng, hoa mắt, xỉu à
có thể là nguyên nhân tâm lý.
Phân biệt chóng mặt và hoa mắt
Hoa mắt gồm những cảm giác bệnh nhân thường mô tả như đầu óc quay cuồng,
xỉu, hay choáng váng, không kết hợp ảo giác vận động (trái ngược với chóng mặt).
Những cảm giác này xảy ra trong điều kiện não bị rối loạn cung cấp máu, ví dụ:
như kích thích thần kinh X quá mức, hạ huyết áp tư thế, rối loạn nhịp tim, thiếu
máu cơ tim, hạ oxy máu, hạ đường máu và có thể lên đến cực điểm là mất ý thức,
choáng.
Chúng ta sẽ gặp khó khăn hơn khi phải chẩn đoán phân biệt chóng mặt với cảm
giác mất thăng bằng, đứng không vững, cảm giác đầu trống rỗng.
Các yếu tố giúp chúng ta nghĩ đến nguyên nhân tâm lý là:
- xảy ra nơi công cộng, đông người, không bao giờ xảy ra khi chỉ có một mình.
- Không có sự thay đổi gì cả khi làm các động tác xoay đầu.

- Khi làm nghiệm pháp Romberg, xuất hiện ngay lập tức sau khi cho bệnh nhân
nhắm mắt hiện tượng chao đảo lắc lư.
Những biểu hiện này thường xảy ra trong tình trng lo lắng, căng thẳng thần kinh
hoặc có thể đi kèm với một bệnh tâm thần (loạn thần …)
VI. ĐIỀU TRỊ
Tùy vào nguyên nhân mà cách điều trị của chúng ta khác nhau.
Đối với điều trị triệu chứng chóng mặt, chúng ta có các nhóm sau:
1. Antihistamine
Meclizine (Antivert, Bonine): 25-50mg mỗi 4-6 giờ
Dimenhydrinate: 50mg uống, tiêm, bắp mỗi 4-6 giờ
1. Anticholinergic
Scopolamine: 0,6mg uống mỗi 4-6 giờ
1. Sympathomimetic: Amphetamine, Ephedrine
BS LÊ TỰ PHƯƠNG THẢO

×