NGHIÊN CỨU NỒNG ĐỘ PRO-B TYPE
NATRIURETIC PEPTIDE (PRO-BNP) CỦA
BỆNH NHÂN SUY TIM MẠN TÍNH
Tóm tắt:
Nghiên cứu nồng độ Pro-B type Natriuretic Peptide (PRO-BNP) huyết tương
của bệnh nhân suy tim mạn tính
Đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu: Suy tim là biến chứng cuối cùng của nhiều
bệnh lý tim mạch và là nguyên nhân quan trọng gây đột tử và tử vong. Pro B-type
Natriuretic Peptide (Pro-BNP) là một công cụ mới nhằm đánh giá mức độ nặng
của suy tim và chẩn đoán phân biệt suy tim trái và suy tim phải. Bên cạnh đó,
nồng độ Pro-BNP là một chỉ dẫn hữu hiệu giúp theo dõi và đánh giá bệnh nhân
suy tim khi điều trị.Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm mục tiêu: 1)
Nghiên cứu sự khác biệt về nồng độ Pro-BNP của bệnh nhân theo nguyên nhân,
giai đoạn lâm sàng và mức độ nặng của bệnh nhân suy tim; 2) Nghiên cứu sự
tương quan giữa nồng độ Pro-BNP huyết tương với giai đoạn lâm sàng, mức độ
suy tim và phân số tống máu EF trên siêu âm tim.
Phương pháp: Đối tuợng nghiên cứu là những bệnh nhân suy tim được điều trị tại
Viện Tim Mạch Việt Nam. Chẩn đoán suy tim dựa trên thăm khám lâm sàng và
siêu âm tim. Mức độ suy tim được phân loại dựa trên phân loại chức năng của Hội
Tim Mạch New York (NYHA)và phân loại theo giai đoạn lâm sàng. Máu tĩnh mạch
của bệnh nhân được định lượng Pro-BNP tại Khoa Sinh Hóa Bệnh viện Bạch Mai,
nồng độ Pro-BNP được thống kê dựa theo mức độ suy tim NYHA và phân loại lâm
sàng suy tim, phân số tống máu thất trái (LVEF).
Kết quả: 106 bệnh nhân tuổi trung bình 57,4 ± 16,7, trong đó có 73 bệnh nhân nữ
(chiếm tỷ lệ 68,9%), 34 bệnh nhân tăng huyết áp (32,1%), 40 bệnh nhân (37,7%)
mắc bệnh van tim, 32 bệnh nhân (30.2%) mắc các bệnh tim khác như bệnh tim
thiếu máu cục bộ, bệnh tim bẩm sinh hoặc suy tim do loạn nhịp tim. Nồng độ pro-
BNP huyết tương trung bình của những bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên cao hơn so
với những bệnh nhân dưới 60 tuổi (566.6 ± 618.5 so với 480,5 ± 753,2) nhưng sự
khác nhau này là không có ý nghĩa thống kê (p>0.05)). Nồng độ Pro-BNP huyết
tương tương quan tuyến tính ngược với phân số tống máu EF trên siêu âm (r=-
0,04; p< 0,001), tương quan tuyến tính thuận với phân độ suy tim theo lâm sàng
(r=0,57; p< 0,001) và phân loại suy tim theo NYHA (r=0,58; p< 0,001).
Kết luận: Nồng độ Pro-BNP huyết tương tăng dần theo mức độ giảm của phân số
tống máu và chức năng tâm thu thất trái của bệnh nhân suy tim. Định lượng Pro
BNP huyết tương là một xét nghiệm hữu ích để chẩn đoán và đánh giá mức độ suy
tim.
Từ khóa: suy tim, Pro-B type Natriuretic Peptide, pro-BNP.
Summary:
Research on Pro-B type Natriuretic Peptide (PRO-BNP) concentration of
patients with chronic heart failure.
Introduction and objectives: Heart failure is the final complication of many
diseases and an important cause of morbidity and mortality. Pro B-type
Natriuretic Peptide (Pro-BNP) is a new diagnostic tool for evaluation of the
severity of heart failure and for differentiation between systolic function of left and
right heart. In addition, plasma level of Pro-BNP serves as a good guide in the
management and follow-up of patients under treatment for heart failure. So our
research aims: 1) to study the differences in Pro-BNP levels of patients on the
causes, clinical stage and severity of heart failure patients; 2) to study the
correlation between Pro-BNP levels in plasma with clinical stage and severity of
heart failure and ejection fraction EF on echocardiography.
Methods: Patients heart failure who referred to Viet nam Heat Institue were
recruited for this study. Diagnosis of heart failure was done through clinical
evaluation and echocardiographic procedure. The severity of heart failure was
determined according to New York heart association (NYHA) classification and
clinical stage for each patient The venous blood was obtained from the subjects
and all samples were sent to the Laboratory of Bach Mai Hospital for evaluation
of plasma Pro-BNP level wich for each classification of NYHA and clinical stages
and left ventricular ejection fraction (LVEF) were evaluated.
Results: One hundred six patients, with a mean age of 57.4 ±16.7 years were
included in the study. Seventy-three (68.9%) subjects were female, thirty-four
patients (32.1%) were hypertensive, forty patients (37.7%) were valvular heart
disease,thirty-two (30.2%) suffered from ischemic, congenital heart diseases and
arrythmia . The mean plasma level of pro-BNP in subjects aged 60 years or more
was higher than younger subjects, (566.6 ± 618.5 versus 480.5 ± 753.2) but not
singificant (p>0.05)). The evaluation of Pro-BNP plasma levels showed
correlation with decreased ejection fraction (r=-0.04; p< 0.001), clinical stages
(r=0.57; p< 0.001), and function class according to NYHA classification (r=0.58;
p< 0.001).
Conclusion: Plasma levels of Pro-BNP were elevated proportional to decrease in
ejection fraction and systolic function of left ventricle in patients with heart
failure. Measurement of Pro- BNP is a good laboratory indicator for detection of
heart failure and its severity.
Keywords: Heart failure, Pro-B type Natriuretic Peptide, pro-BNP.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy tim là hậu quả cuối cùng của các bệnh lý tim mạch. Trên thế giới tỷ lệ
bệnh nhân suy tim ngày một gia tăng và tần suất suy tim tăng theo tuổi. Tại Mỹ,
suy tim là nguyên nhân nhập viện của 1 triệu bệnh nhân mỗi năm và 50000 bệnh
nhân tử vong hàng năm. Người ta ước tính rằng có khoảng 4,9 triệu bệnh nhân
được điều trị suy tim, 550000 bệnh nhân suy tim mới mắc hàng năm cũng tại Hoa
Kỳ. Hiện nay phần lớn các thày thuốc đánh giá mức độ suy tim và hiệu quả điều
trị dựa trên các dấu hiệu lâm sàng và siêu âm tim và như vậy rõ ràng là cần có
thêm một phương pháp nhanh chóng và “không xâm lấn” để chẩn đoán suy tim và
đánh giá mức độ nặng của bệnh nhân suy tim đảm bảo độ nhạy và độ đặc hiệu cao.
Một số nghiên cứu gần đây cho biết tiền peptide bài niệu Natri týp B (Pro-BNP) là
một dấu ấn sinh học có nồng độ cao trong huyết tương của bệnh nhân suy tim tâm
thu và Pro-BNP là một chất có giá trị trong chẩn đoán và tiên lượng bệnh nhân suy
tim, giúp cho người thày thuốc thêm một công cụ để chẩn đoán xác định, đánh giá
mức độ suy tim và theo dõi hiệu quả điều trị [1;2; 3].
Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu, định lượng Pro-BNP của bệnh nhân
suy tim ở các giai đoạn, mức độ khác nhau nhằm mục tiêu:
1. Nghiên cứu sự khác biệt về nồng độ Pro-BNP của bệnh nhân theo
nguyên nhân, giai đoạn lâm sàng và mức độ nặng của bệnh nhân suy
tim.
2. Nghiên cứu sự tương quan giữa nồng độ Pro-BNP huyết tương với
giai đoạn lâm sàng, mức độ suy tim và phân số tống máu EF trên siêu
âm tim.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là 106 bệnh nhân suy tim được điều trị
nội trú trong năm 2010 tại Viện Tim Mạch Việt Nam. Nghiên cứu tiến hành theo
phương pháp mô tả cắt ngang. Chẩn đoán suy tim được dựa trên triệu chứng lâm
sàng và siêu âm tim. Mức độ nặng của suy tim được căn cứ vào phân loại chức
năng của Hội Tim Mạch New York (NYHA) và các giai đoạn lâm sàng ABCD
theo quy ước của Trường Môn Tim Mạch Mỹ (ACC). Định lượng Pro-BNP được
tiến hành theo phương pháp điện hóa phát quang tại khoa Sinh hóa Bệnh viện
Bạch Mai.Nồng độ Pro-BNP huyết tương được tính toán dựa trên các nhóm bệnh
nhân phân loại theo độ tuổi (trên và dưới 60 tuổi), giới, mức độ suy tim theo
NYHA và theo ACC, phân số tống máu EF (bình thường (EF ≥ 56%), giảm nhẹ -
vừa (EF ≥ 40% và <56%), giảm nhiều (EF <40%)) So sánh trung bình T test và
phân tích phương sai ANOVA được áp dụng đối với từng nhóm bệnh nhân. Xác
định sự tương quan tuyến tính giữa nồng độ Pro-BNP huyết tương với các giai
đoạn suy tim và phân số tống máu EF theo thuật toán hồi quy tuyến tính đơn biến.
III. KẾT QUẢ
Nghiên cứu gồm 106 bệnh nhân suy tim trong đó có 33 nam, 73 nữ (tuổi
trung bình 57,4 ± 16,7). Về nguyên nhân gây suy tim có 34 bệnh nhân tăng huyết
áp (chiếm 32,1% bệnh nhân nghiên cứu), 40 bệnh nhân mắc bệnh van tim (hẹp, hở
van hai lá và/hoặc hẹp hở van động mạch chủ) chiếm 37,7%, 11 bệnh nhân mắc
bệnh cơ tim giãn, 10 bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ (5 bệnh nhân trong số
đó có tiền sử nhồi máu cơ tim), số còn lại là 11 bệnh nhân mắc bệnh tim bẩm sinh
và rối loạn nhịp tim.
Theo giai đoạn lâm sàng, 35 bệnh nhân suy tim giai đoạn A (33%), 11 bệnh
nhân giai đoạn B (10,4%), 22 bệnh nhân suy tim giai đoạn C (20,8%), số còn lại
(38 bệnh nhân) suy tim giai đoạn D (chiếm 35,8%).
Theo phân độ suy tim NYHA, nghiên cứu có 35 bệnh nhân ở giai đoạn
NYHA I (33%), 11 bệnh nhân NYHA II (10,4%), 20 bệnh nhân NYHA III
(18,9%), 40 bệnh nhân NYHA IV (37,8%).
Theo phân số tống máu EF siêu âm lúc nhập viện, có 53 bệnh nhân EF trên
siêu âm bình thường (EF ≥ 56%, trung bình 69,6 ± 6,7%), 19 bệnh nhân có 40% ≤
EF < 56% (trung bình 50,4 ± 4,4%), còn lại 34 bệnh nhân có EF < 40%, thấp nhất:
12%, trung bình: 28 ± 7,8%. Nồng độ pro-BNP huyết tương của bệnh nhân tương
quan tuyến tính nghịch với phân số tống máu EF thất trái trên siêu âm (r = - 0,4; p
<0,001), tương quan tuyến tính thuận với mức độ suy tim NYHA (r = 0,58;
p<0,001), giai đoạn suy tim lâm sàng (r = 0,57; p< 0,001).
Bảng 1 trình bày kết quả nồng độ Pro-BNP huyết tương của các bệnh nhân
nghiên cứu theo tuổi, giới và các nguyên nhân chính gây suy tim, bảng 2 trình bày
kết quả nồng độ pro-BNP huyết tương ở các bệnh nhân được phân chia theo giai
đoạn lâm sàng của ACC, bảng 3 theo mức độ suy tim phân loại theo NYHA và
bảng 4 trình bày kết quả nồng độ pro-BNP huyết tương theo các mức độ bình
thường, giảm nhẹ-vừa và giảm nhiều của phân số tống máu EF.
Bảng 1 - Nồng độ Pro-BNP của bệnh nhân suy tim phân bố theo tuổi, giới, các
nguyên nhân suy tim trong nghiên cứu
Thông số lâm sàng Bệnh
nhân (n)
Trung bình
(pmol/l)
Độ lệch
(pmol/l)
P
≥ 60 53 566,6 618,5
Tuổi
< 60 53 480,5 753,2
> 0,05
Nam 33 596,2 562,1
Giới
Nữ 73 490,7 738,1
> 0,05
Suy tim do tăng huyết
áp
34 413,9 557,5
Suy tim do bệnh van
tim
40 592,2 813,8
Suy tim do bệnh tim
thiếu máu cục bộ, bệnh
cơ tim giãn và các
nguyên nhân khác
32 504,2 587,2
> 0,05
Bảng 2 - Nồng độ Pro-BNP của bệnh nhân suy tim ở các giai đoạn lâm sàng
của suy tim theo phân loại của ACC
Nồng độ Pro – BNP
Giai đoạn
suy tim
Số bệnh
nhân (n)
Trung bình
(pmol/l)
Độ lệch
chuẩn
Khoảng tin
cậy
ANOVA(one
way)
95%
A 35 54,6 105,9 18,2 - 90,9
B 11 302,7 360,1 60,8 – 544,5
C 22 555,4 600,0 289,4 – 821,5
D 38 1001,0 795,8 739,4 -
1262,6
Tổng cộng 106 523,6 687,2 391,2 – 655,9
F = 17.6
Df = 3
P < 0,001
Bảng 3 - Nồng độ Pro-BNP ở bệnh nhân suy tim theo phân độ suy tim của
NYHA
Nồng độ Pro-BNP
NYHA
Số bệnh
nhân (n)
Trung bình
(pmol/l)
Độ lệch
chuẩn
Khoảng tin
cậy
ANOVA
(one way)
I 35 54,6 105,9 18,2 - 90,9
II 11 302,7 360,1 60,8 - 544,5
F = 20.8
Df=3
III 20 443,8 489,0 109,4
IV 40 1034,5 793.6 125,5
Tổng cộng 106 523,6 687,2 391,2 -
655,9
P<0,001
Bảng 4 – Thống kê nồng độ Pro-BNP của bệnh nhân suy tim theo mức độ
phân số tống máu EF trên siêu âm
Nồng độ Pro-BNP
EF (%)
Số bệnh
nhân (n)
Trung bình
(pmol/l)
Độ lệch
chuẩn
Khoảng tin
cậy
ANOVA
(one
way)
≥ 56 53 274,0 619,9 103,2 – 444,9
40 - 55 20 499,5 641,2 199,4 – 799,6
< 40 33 938,9 632,4 714,6 –
1163,1
F = 11.4
Df= 2
P<0,001
Tổng cộng 106 523,6 687,2 391,2 – 655,9
IV. BÀN LUẬN
Suy giảm dần dần chức năng tâm thất là diễn biến thường gặp của bệnh
nhân suy tim mạn tính. Trong quá trình tiến triển của suy tim, chức năng thất trái
thường bị suy giảm thêm do các yếu tố thuận lợi như nhiễm trùng, suy thận, thiếu
máu, điều trị suy tim ngắt quãng làm xảy ra các đợt suy tim mất bù. Các đợt suy
tim mất bù có thể hoạt hóa các hệ thống thần kinh thể dịch như hệ thống thần kinh
giao cảm, hệ thống renin-angiotensin-aldosterone và peptide bài niệu (natriuretic
peptides). Suy giảm chức năng co cơ nội sinh thường liên quan rất nhiều đến sự
điều hòa ngược của các thụ thể bê ta, rối loạn trao đổi can xi tại hệ liên võng và
các stress oxy hóa. Những thay đổi về cấu trúc cơ tim được quan sát thấy là thất
trái tái cấu trúc, tế bào cơ tim chết sớm, xơ hóa khoảng kẽ, tế bào cơ tim bị hủy
hoại mà có thể phát hiện được bằng các dấu ấn fibril cơ tim (troponin T) và một
loại protein liên kết với axit béo của tế bào cơ tim (heart type fatty acid-binding
protein: H-FABP) gọi là cytosolic như creatinin kinase (CK), CKMB, myoglobin
(MB) được giải phóng vào máu khi cơ tim bị tổn thương do thiếu máu. Nhóm dấu
ấn thứ 3 là các peptides lợi niệu như ANP, BNP hoặc Pro-BNP. ANP tăng khi nhĩ
trái tăng gánh, BNP và/hoặc Pro-BNP tăng khi suy chức năng tâm thu thất trái
hoặc chức năng tâm trương thất trái phối hợp với tăng sức căng thành thất hay cơ
tim phì đại hoặc cả hai [6;7].
Nghiên cứu cho thấy định lượng pro-BNP là một phương pháp hữu ích, phù
hợp với thực tiễn lâm sàng để chẩn đoán và đánh giá mức độ suy tim. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nồng độ pro-BNP huyết tương ở những bệnh
nhân suy tim > 60 tuổi không khác biệt có ý nghĩa so với những bệnh nhân suy tim
< 60 tuổi, như vậy có thể nói tuổi không phải là yếu tố quan trọng nhất tác động
đến nồng độ pro-BNP. Nhận xét này của chúng tôi cũng phù hợp với một số
nghiên cứu gần đây của các tác giả nước ngoài. Hunt và cộng sự cho biết có sự
liên quan có ý nghĩa giữa tuổi và nồng độ Pro-BNP huyết tương chỉ xảy ra ở ở
những bệnh nhân EF > 45% trong phép hồi quy đa biến [3]. Nghiên cứu của chúng
tôi cũng không ghi nhận được có sự khác biệt có ý nghĩa của nồng độ Pro-BNP ở
bệnh nhân suy tim do các nguyên nhân khác nhau gây ra nhưng nồng độ pro-BNP
huyết tương tương quan tuyến tính thuận với các giai đoạn suy tim phân chia theo
Trường môn Tim Mạch Mỹ (ACC), mức độ chức năng NYHA và tương quan
tuyến tính nghịch với phân số tống máu EF, dường như cho thấy nồng độ pro-BNP
huyết tương phụ thuộc vào mức độ suy tim nhiều hơn là nguyên nhân gây ra suy
tim [5]. Trong số các natriuretic peptides tăng lên ở những bệnh nhân suy chức
năng tâm thu thất trái và định lượng BNP được lựa chọn nhiều hơn ANP và tiền
hóc môn (pro-BNP) là đặc hiệu nhất để đánh giá chức năng tâm thu thất trái. Nếu
như nồng độ pro-BNP và BNP trong huyết tương ở người bình thường gần như
nhau thì ở người suy tim nồng độ pro-BNP cao hơn từ 2-5 lần nồng độ BNP [7].
Các nghiên cứu của các tác giả khác cho thấy có gianh giới phân định khá rõ ràng
giữa giá trị bình thường và bệnh lý của nồng độ pro-BNP huyết tương chứng tỏ
dấu ấn sinh học này tỏ ra dễ dàng sử dụng trên lâm sàng hơn so với xét nghiệm
định lượng nồng độ BNP huyết tương mà thường được chỉ định hơn trong thời
gian trước đây [1;2;4].
V. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy:
1. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của nồng độ pro-BNP huyết tương giữa
các giai đoạn lâm sàng và mức độ suy tim. Nồng độ pro-BNP huyết tương
ở bệnh nhân suy tim càng cao nếu mức độ suy tim càng nặng. Không có sự
khác biệt có ý nghĩa về nồng độ pro-BNP huyết tương của những bệnh
nhân suy tim do các nguyên nhân khác nhau gây ra.
2. Nồng độ pro-BNP huyết tương tương quan tuyến tính thuận với giai đoạn
lâm sàng theo ACC (r = 0,57; p< 0,001), mức độ suy tim theo NYHA (r =
0,58; p<0,001) và tương quan nghịch biến với phân số tống máu EF (r = -
0,4; p <0,001).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạ Mạnh Cường, Phạm Thắng, Phan Thanh Nhung: Nghiên cứu sự liên quan
giữa nồng độ B-type Natriuretic Peptide huyết tương với một số triệu chứng
lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân suy tim mạn tính. Y học Việt Nam, số
2 tháng 4 năm 2010; tr.: 36-42.
2. Phạm Thắng, Tạ Mạnh Cường, Phan Thanh Nhung: Nghiên cứu nồng độ B-
type Natriuretic Peptide huyết tương của bệnh nhân suy tim mạn tính. Y học
Việt Nam, số 1 tháng 4 năm 2010; tr. 51-56.
3. Hunt, PJ, Richards, AM, Nichollas, MG, et a1. Immunoreactive amino
terminal Pro- BNP: a new marker of cardiac impairment. Clin Endocrinol
(OXF) 1997; 47: 287.
4. Maisel, AS, Krishnaswamy, P, Nowak, RM, et al. Rapid measurement of B-
type natriuretic peptide in the emergency diagnosis of heart failure. N Engl J
Med 2002; 347: 161- 167.
5. Mohammad A.P. et al: Measurement of NT-ProBNP in patients with heart
faillure. J Cardiovasc Thorac Res 2010; 2(1): 23-27.
6. Richard W. Troughton, Christopher. F.et a1.: Treatment of heart failure
guided by plasma aminoterminal brain natriuretic peptide (NT- BNP)
concentrations. LANCET, 2000, 355, 1126- 1130.
7. Yoshihiko S., Akio O. et al: Application of NT-proBNP and BNP
measurements in cardiac care: a more discerning marker for the detection an
evaluation of heart faillure. Eur Heart J 2004; 6: 295-300.