Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Nghiên cứu khả năng chấp nhận, hiệu quả và tác dụng phụ của thuốc cấy tránh thai implanon tại tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.53 MB, 86 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Công tác Dân số - Kế hoạch hoá gia đình là một bộ phận quan trọng
trong chiến lược phát triển đất nước. Đây là một yếu tố cơ bản để nâng cao
chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội. Việc đảm
bảo cung cấp kịp thời, đầy đủ và đa dạng hoá các biện pháp tránh thai có chất
lượng cao là đáp ứng nhu cầu của từng người nhằm tăng tỷ lệ các cặp vợ
chồng sử dụng các biện pháp tránh thai.
Chương trình Dân số và Kế hoạch hóa gia đình của Việt Nam đã được
triển khai từ những năm đầu của thập kỷ 60. Trong suốt 4 thập kỷ qua, Chính
phủ đã coi trọng việc giảm tỷ lệ gia tăng dân số, coi đó là một ưu tiên cho sự
phát triển của xã hội [2], [7]. Điều đó thể hiện qua việc cung cấp các dịch vụ
kế hoạch hóa gia đình.
Khuynh hướng trong nghiên cứu về tránh thai hiện nay trên thế giới là
đa dạng hóa các biện pháp tránh thai nhằm đáp ứng tối đa những nhu cầu cá
nhân của người sử dụng. Tại Việt Nam, thông dụng nhất vẫn là các biện pháp
sử dụng: vòng tránh thai, bao cao su, thuốc viên tránh thai, triệt sản, tránh thai
tự nhiên. Tuy nhiên, tỉ lệ áp dụng biện pháp tránh thai bằng thuốc tiêm tránh
thai, thuốc cấy tránh thai còn thấp [9].
Trên thế giới, vào năm 1990 có hơn 1 triệu phụ nữ ở 51 nước đang sử
dụng Norplantt, trong đó có nhiều nước đã dùng biện pháp này một cách phổ
biến, một số nước khác đang còn đang thử nghiệm. Sau một thời gian, ý
tưởng phát triển một que thuốc duy nhất dùng cấy dưới da có tên là Implanon,
tiện lợi hơn và được nghiên cứu thực hiện tại 9 nước châu Âu, Đông Nam Á.
Một nghiên cứu lớn đã được thực hiện tại Indonesia [7], [8], [9].
1
Ở Việt Nam, thực hiện mục tiêu giảm sinh đến năm 2010, thuốc cấy
tránh thai đã được áp dụng với mục đích tăng sự lựa chọn cho người sử dụng
[7]. Năm 1990, Norplantt là phương pháp tránh thai mới được thử nghiệm lần
đầu tiên ở nước ta. Nó bao gồm 6 mảnh chứa Levonogestrel được cấy dưới da
ở mặt trong cánh tay, có tác dụng tránh thai trong 5 năm và được thực hiện tại
Bệnh viện Phụ sản Trung Ương Hà Nội từ 8/1990 - 12/1991 [6].


Vào năm 2000, Vụ Bảo vệ Bà mẹ - Trẻ em & Kế Hoạch Hoá Gia Đình,
Bộ Y Tế Việt Nam đã tiến hành một nghiên cứu đánh giá hiệu quả tránh thai,
tính an toàn và mức độ chấp nhận của cộng đồng với loại thuốc cấy tránh thai
tại 3 cơ sở: Bệnh viện Phụ sản Trung Ương, Trung tâm Chăm sóc Sức khỏe
Sinh sản tỉnh Hoà Bình, Trung tâm Chăm sóc Sức khỏe Sinh sản tỉnh Thanh
Hoá. Kết quả cho thấy trong 3 năm theo dõi, hiệu quả tránh thai là 100%. Cho
đến năm 2002, biện pháp này bắt đầu được triển khai ở tỉnh Thừa Thiên -
Huế. Tuy nhiên, nghiên cứu việc sử dụng biện pháp này còn có tính riêng lẻ,
chưa có đề tài nào có tính hệ thống.
Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
"Nghiên cứu khả năng chấp nhận, hiệu quả và tác dụng phụ của thuốc
cấy tránh thai Implanon tại tỉnh Thừa Thiên - Huế" nhằm hai mục tiêu cơ
bản sau:
1. Đánh giá hiệu quả tránh thai và khả năng chấp nhận của khách hàng
đối với thuốc cấy tránh thai Implanon.
2. Khảo sát và điều trị một số tác dụng phụ của thuốc cấy tránh thai
Implanon.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. SINH LÝ SINH SẢN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
Hoạt động sinh sản của con người là để duy trì nòi giống. Các chức năng
của cơ quan sinh dục đều được điều hòa và kiểm soát chủ yếu thông qua hệ
thống nội tiết. Vùng dưới đồi kích thích tuyến yên, tuyến yên kích thích
buồng trứng. Các hormon của buồng trứng lại tác động trở lại vùng dưới đồi
tạo thành cơ chế hồi tác (cơ chế điều hoà ngược - feedback mechanism). Các
hormon sinh dục của buồng trứng tác dụng trực tiếp lên các thành phần của bộ
phận sinh dục như tử cung, cổ tử cung, vòi tử cung, âm hộ, âm đạo [10].
1.1.1. Sinh lý hoạt động của hệ trục dưới đồi - tuyến yên - buồng trứng
1.1.1.1. Vùng dưới đồi (Hypothalamus )

Là một cấu trúc thần kinh nhỏ, nằm ở sàn não trên giao thoa thị giác và
dưới não thất ba. Vùng dưới đồi nối trực tiếp với tuyến yên. Về mặt giải phẫu,
vùng dưới đồi (VDĐ) được phân thành 3 vùng: quanh não thất, giữa và bên.
Mỗi vùng được chia nhỏ hơn thành những cấu trúc gọi là nhân. Trung khu
sinh dục của vùng dưới đồi nằm ngay phía dưới hố yên, liên thông với tuyến
yên bằng hệ mạch gánh Popa và Fielding.
Tồn tại nhiều mức độ của cơ chế hồi tác vòng dài; vòng ngắn và vòng cực
ngắn. Hồi tác vòng dài là sự tác động của các hormon trong tuần hoàn đến
vùng dưới đồi, đó là hồi tác của androgen và estrogen lên các thụ thể steroid
vùng dưới đồi và có chức năng điều hoà quan trọng trong hồi tác vòng ngắn.
Vùng dưới đồi chế tiết chủ yếu là các yếu tố giải phóng tuyến yên:
Hormon hướng sinh dục Gn-RH (Gonadotropin Releasing Hormone): Là
hormon duy nhất điều khiển chế tiết LH và FSH. Sự chế tiết Gn-RH theo nhịp
3
và sự chế tiết này bị ảnh hưởng bởi nhiều chất nội tiết và dẫn truyền thần kinh.
Nội tiết tuyến yên cũng được chế tiết theo nhịp gần giống như chế tiết Gn-RH.
1.1.1.2. Tuyến yên
Nếu không kể vùng dưới đồi thì tuyến yên là một tuyến nội tiết chủ đạo
kích thích nhiều tuyến nội tiết khác. Tuyến yên được chia thành 3 vùng hoặc
3 thuỳ: thuỳ trước, thuỳ trung gian, thuỳ sau.
- Thuỳ trước tuyến yên
Thuỳ trước tuyến yên là một tuyến nội tiết thực sự chế tiết ra các hormon
hướng như hormon hướng giáp trạng, hormon hướng vỏ thượng thận, hormon
hướng sinh dục. Trong đó, hormon hướng sinh dục gồm có FSH và LH.
+ FSH là một hormon hướng sinh dục có tác dụng kích thích nang noãn
của buồng trứng phát triển.
+ LH là hormon hướng sinh dục có tác dụng kích thích phóng noãn,
thành lập hoàng thể và kích thích hoàng thể chế tiết.
+ Prolactin là hormon kích thích tuyến vú tiết sữa
Hormon hướng sinh dục FSH và LH được tiết bởi các tế bào

gonadotroph ở thùy trước tuyến yên. Về mặt cấu trúc, có một sự tương đồng
lớn giữa FSH và LH. Chúng đều là glycoprotein, giống nhau ở tiểu đơn vị
alpha, chỉ khác nhau ở cấu trúc của tiểu đơn vị beta có thụ thể đặc hiệu. TSH
và hCG cũng có tiểu đơn vị alpha giống với các hormon hướng sinh dục.
Prolactin được cấu tạo bởi một chuỗi đa peptid gồm 198 amino acid, do
tế bào hướng sữa ở tuyến yên trước tiết ra, kích thích tuyến vú bài tiết sữa.
Chế tiết prolactin chịu sự kiểm soát ức chế có tính trương lực của PIF
(Prolactin inhibiting Factor) do VDĐ tiết ra, nhiều khả năng nhất là
dopamine.
Ngoài ra thuỳ trước tuyến yên còn tiết ra hormon kích thích tuyến giáp,
hormon kích thích vỏ thượng thận, hormon phát triển cơ thể.
4
Thuỳ sau tuyến yên
Thuỳ sau tuyến yên chỉ bao gồm các mô thần kinh, là sự kéo dài trực
tiếp của VDĐ. Nó nằm kề cận với thuỳ trước, nhưng riêng biệt về mặt mô
học, có chức năng chế tiết oxytocin và vasopressin.
1.1.1.3. Buồng trứng
Buồng trứng là một tuyến vừa nội tiết vừa ngoại tiết. Về ngoại tiết,
buồng trứng là nơi sản sinh ra noãn đồng thời cũng là nơi nuôi dưỡng noãn
trưởng thành rồi phóng noãn. Về nội tiết, buồng trứng là nơi sản sinh ra các
hormon sinh dục là estrogen và progesteron.
1.1.2. Sự phát triển - trưởng thành của nang noãn và sự phóng noãn
Sự phát triển, trưởng thành và phóng noãn là một chuỗi các sự kiện có
thứ tự và gắn bó chặt chẽ với nhau dẫn đến sự phóng thích một noãn đủ
trưởng thành, có khả năng thụ tinh vào mỗi chu kỳ của người phụ nữ.
1.1.3. Sự phát triển của nang noãn
Vào tuần thứ 20 của thai kỳ, số lượng noãn đạt mức độ cao nhất (6-7
triệu). Ở thời điểm đó, xảy ra sự thoái hoá của noãn nguyên bào, tiếp theo sau
là thoái hoá của nang noãn. Bé gái lúc sinh ra chỉ có1-2 triệu noãn ở mỗi bên
buồng trứng. Đến tuổi dậy thì, chỉ còn 300.000 nang noãn (trong số 6 - 7 triệu

noãn nguyên thuỷ) sẵn sàng cho phóng noãn. Trong số này chỉ có 400 - 500
nang noãn được phóng. Đến tuổi mãn kinh, buồng trứng gồm mô đệm dày và
rất ít nang noãn còn lại nằm rải rác ở buồng trứng.
Sự phát triển của nang noãn gồm một chuỗi các sự kiện xảy ra một
cách có trật tự dẫn đến sự phóng noãn ở giữa chu kỳ, bao gồm: sự chiêu mộ
các nang noãn, sự chọn lọc các nang noãn, sự vượt trội, sự thoái hoá của nang
noãn và sự phóng noãn, quá trình này bắt đầu từ sự phát triển của noãn
nguyên thuỷ, qua các giai đoạn nang noãn sơ cấp, nang noãn thứ cấp và nang
5
de Graff. Một chu kỳ phát triển nang noãn chỉ có một nang de Grraf trưởng
thành và phóng noãn.
+ Dưới tác dụng của FSH và LH nang noãn lớn lên chín, phóng noãn. Nếu
không được thụ tinh, sau 14 ngày sẽ diễn ra sự tiêu hoàng thể, làm giảm nồng
độ estradiol và progesteron nội sinh dẫn đến hành kinh [1], [2], [3], [4 ], [10].
1.2. TÁC DỤNG CỦA CÁC HORMON SINH DỤC NỮ
1.2.1. Estrogen
- Làm phát triển cơ tử cung bằng cách làm tăng phát triển số lượng, độ
dài và độ lớn của các sợi cơ.
- Làm tăng nhạy cảm của cơ tử cung đối với oxytocin và các nhân tố gây
co cơ.
- Làm phát triển niêm mạc tử cung qua việc kích thích phân bào, gây quá
sản niêm mạc tử cung, ung thư niêm mạc tử cung.
- Khi tụt đột ngột làm bong niêm mạc tử cung, gây chảy máu kinh nguyệt.
- Kích thích các tuyến cổ tử cung chế tiết nhiều chất nhầy, làm cho chất
nhầy trong và loãng khiến tinh trùng dễ xâm nhập lên đường sinh dục trên của
người phụ nữ.
- Làm phát triển các môi lớn và môi nhỏ của âm hộ.
- Làm phát triển biểu mô âm đạo, làm dày thành âm đạo thông qua tác
dụng duy trì làm chậm bong tế bào biểu mô âm đạo.
- Làm phát triển tuyến sữa của vú.

- Ngoài ra còn có tác dụng làm phát triển các đặc tính sinh dục phụ: kích
thích tình dục, làm căng các dây thanh âm khiến giọng nói có âm sắc cao, giữ
nước, giữ natri, gây phù, giữ canxi ở xương [1], [2], [3], [4], [12].
1.2.2. Progesteron
- Làm mềm sợi cơ tử cung, làm giảm nhạy cảm của cơ tử cung với
oxytocin.
6
- Cộng đồng với E làm niêm mạc tử cung chế tiết nhất là sau khi đã có sự
chuẩn bị bằng E. Dùng liều cao kéo dài làm niêm mạc tử cung thiểu dưỡng (teo).
- Chức năng quan trọng của Progesteron là chuẩn bị cho sự làm tổ của trứng.
- Ức chế tiết chất nhầy của các tuyến trong ống cổ tử cung.
- Làm bong các tế bào biểu mô âm đạo.
- Làm giảm phát triển mô liên kết ở vú.
- Có tác dụng lợi tiểu, giảm phù.
- Làm tăng nhiệt độ cơ thể từ 0,3- 0,5 độ C.
- Tác dụng kháng Estrogen.
1.3. SINH LÝ CHU KỲ KINH NGUYỆT
Trong chu kỳ kinh nguyệt bình thường, các hormon được chế tiết ra có
tính chu kỳ, trật tự. Song song với sự chế tiết hormon này, nội mạc tử cung
tăng sinh nhằm chuẩn bị cho sự làm tổ của phôi [2], [3], [4]. Và căn cứ trên chu
kỳ kinh nguyệt để lấy mốc, bắt đầu thực hiện cho một biện pháp tránh thai.
1.3.1. Chu kỳ kinh nguyệt bình thường
Ở người, chu kỳ kinh nguyệt có thể chia thành 2 phần:
- Chu kỳ buồng trứng: được chia thành giai đoạn nang noãn và giai đoạn
hoàng thể
+ Giai đoạn nang noãn: cơ chế điều hoà ngược của hormon thúc đẩy sự
phát triển có tính trật tự của một noãn vượt trội, nang này trưởng thành vào
giữa chu kỳ và chuẩn bị cho phóng noãn. Thời gian trung bình của giai đoạn
nang noãn là 10-14 ngày. Sự thay đổi của giai đoạn nang noãn chịu trách
nhiệm cho hầu hết của những thay đổi trong toàn bộ chu kỳ.

+ Giai đoạn hoàng thể: tính từ lúc rụng trứng đến lúc bắt đầu hành kinh,
kéo dài trung bình 14 ngày.
Một chu kỳ kinh nguyệt bình thường kéo dài 21-35 ngày, thời gian hành
kinh 2 - 6 ngày và lượng máu mất trung bình là 20 - 60ml. Tuy nhiên, khi
7
nghiên cứu một số lượng lớn chu kỳ kinh nguyệt, người ta nhận thấy rằng chỉ
khoảng 2/3 phụ nữ trưởng thành có chu kỳ kinh nguyệt kéo dài 21-35 ngày.
Đặc trưng của hai cực của đời sống sinh sản (tuổi dậy thì và tiền mãn kinh) là
có số chu kỳ không phóng noãn hoặc chu kỳ không đều cao hơn.
- Chu kỳ tử cung được phân thành giai đoạn tăng sinh và giai đoạn chế tiết
tương ứng với chu kỳ buồng trứng.
+ Thời kỳ tăng sinh:
Theo quy ước, ngày bắt đầu hành kinh được kể là ngày thứ nhất của chu
kỳ kinh. Sau hành kinh, màng rụng đáy bao gồm các tuyến nguyên thuỷ và
chất đệm dày và chặt nằm kế cận với cơ tử cung. Đáp lại sự gia tăng của
Estrogen trong tuần hoàn, màng rụng chức năng phát triển bằng cách gián
phân liên tục nhằm chuẩn bị cho sự làm tổ của phôi. Đó là đặc trưng của thời
kỳ tăng trưởng. Lúc bắt đầu thời kỳ tăng trưởng, nội mạc tử cung (NMTC)
tương đối mỏng (1-2mm). Thay đổi nổi bật trong thời kỳ này là sự phát triển
của các tuyến nội mạc thẳng, hẹp và ngắn thành những cấu trúc dài hơn, ngắn
hơn ngoằn ngoèo. Trong suốt thời kỳ này, chất đệm dày và đặc. Các cấu trúc
mạch máu ít khi được nhìn thấy.
- Thời kỳ chế tiết:
Ở chu kỳ 28 ngày, sự phóng noãn xẩy ra vào ngày thứ 14. Trong vòng
48-72 giờ sau phóng noãn, progesteron được tiết ra. Điều này chuyển NMTC
sang giai đoạn chế tiết, lòng tuyến chứa các sản phẩm tiết giàu protein. Đối
lập với thời kỳ tăng sinh, đặc trưng của thời kỳ chế tiết là có sự tác động của
progesteron đến tế bào bên cạnh tác động của estrogen. Nói chung, tác động
của progesteron đối lập với tác động của estrogen. Sự xuất hiện của
progesteron sau phóng noãn làm giảm các thụ thể của estrogen ở tế bào

NMTC. Do đó, ở nửa sau của chu kỳ, có sự đối lập giữa quá trình tổng hợp
DNA bởi estrogen với quá trình gián phân của tế bào. Sau rụng trứng 6-7
ngày, hoạt động chế tiết của tuyến đạt cực đại và nội mạc được chuẩn bị tốt
8
nhất cho sự làm tổ của túi phôi. Khoảng 2 ngày trước khi hành kinh, có một
sự gia tăng đáng kể số lượng bạch cầu hạt và bạch cầu lympho (từ hệ thống
mạch máu di cư vào). Sự “thâm nhiễm bạch cầu” này báo trước cho sự suy
sụp mô đệm của nội mạc và khởi phát hành kinh.
1.3.2. Hành kinh
Nếu không có sự làm tổ, các tuyến ngừng lớp chế tiết và xảy ra sự phá
vỡ không đều lớp màng rụng chức năng. Kết quả là bong nội mạc này, tạo nên
hiện tượng hành kinh. Nguyên nhân của bong lớp nội mạc là do sự thoái hóa
của hoàng thể và giảm đột ngột nồng độ estrogen và progesteron do hoàng
thể tiết ra. Với sự tụt giảm của các hormon sinh dục, các động mạch xoắn co
thắt dữ dội, cuối cùng dẫn đến thiếu máu cục bộ NMTC. Đồng thời, các
lysosome bị phá hủy và phóng thích enzym thủy phân protein. Điều này thúc
đẩy hơn nữa sự phá hủy mô tại chỗ. Lớp nội mạc này bị bong ra, để lại màng
rụng đáy - là nguồn gốc cho sự phát triển của nội mạc ở chu kỳ kế tiếp.
Prostaglandin được sản xuất trong suốt chu kỳ kinh nguyệt và đạt nồng độ cao
nhất trong lúc hành kinh. Prostaglandin F2α là một chất có khả năng gây co
mạch, dẫn tới sự co thắt hơn nữa của các tiểu động mạch xoắn và thiếu máu
cục bộ NMTC. Prostaglandin F2α cũng gây co cơ tử cung. Điều này làm
giảm luồng máu đến thành tử cung và tống xuất mô nội mạc khỏi buồng tử
cung một cách tự nhiên.
1.4. SINH LÝ CỦA SỰ THỤ THAI
1.4.1. Sự thụ tinh
Sau khi giao hợp, tinh trùng di chuyển qua âm đạo, vào tử cung rồi đến
vòi trứng. Tinh trùng thường gặp trứng ở 1/3 ngoài của vòi trứng. Tại đây,
khi gặp trứng tinh trùng phá vỡ lớp tế bào hạt bao quanh trứng và lớp vỏ
ngoài của trứng nhờ men hyaluronidase và các men phân giải protein, men

này khuếch tán vào lớp hàng rào làm khép lớp này lại và ngăn không cho tinh
trùng thứ hai xâm nhập vào trứng. Thời gian tồn tại của trứng rất ngắn, chỉ từ
24-48giờ. Tinh trùng tồn tại trong đường sinh dục nữ khoảng 24 - 72 giờ,
9
nhưng khả năng thụ tinh cao nhất là khoảng 12 - 24 giờ. Vì vậy, muốn có hiện
tượng thụ tinh, tinh trùng phải gặp trứng vào đúng ngày rụng trứng hoặc trong
khoảng trước và sau rụng trứng 1 ngày.
1.4.1.1. Trứng đã thụ tinh di chuyển vào buồng tử cung
Nhờ nhu động của ống dẫn trứng, trứng được di chuyển đến tử cung.
Thời gian di chuyển khoảng 4 ngày. Trong thời gian di chuyển trứng trải qua
quá trình phân chia và khi chạm vào niêm mạc tử cung trứng có thể làm tổ
được ngay. Vì lý do nào đó trứng đã thụ tinh không di chuyển được vào
buồng tử cung, trứng có thể phát triển ngay tại tử cung hoặc loa vòi, hoặc do
nhu động theo chiều ngược lại của ống dẫn trứng làm trứng rơi vào ổ bụng.
Những trường hợp này được gọi là chửa ngoài tử cung, nếu không được phát
hiện và xử trí kịp thời sẽ gây nguy cơ tử vong, vỡ chảy máu làm nguy hiểm
đến tính mạng của người mẹ.
1.4.1.2. Trứng làm tổ và phát triển trong buồng tử cung
Sau khi vào đến buồng tử cung, trứng tiếp tục phát triển thêm khoảng 4-5
ngày rồi mới gắn vào niêm mạc tử cung. Như vậy trứng đã thụ tinh thường
làm tổ trong niêm mạc tử cung vào khoảng ngày thứ 7- 8, kể từ khi rụng
trứng, đó cũng là lúc niêm mạc tử cung chuẩn bị đón trứng vào làm tổ. Nơi
trứng làm tổ thường là ở vùng đáy tử cung, mặt sau nhiều hơn mặt trước và là
nơi bằng phẳng nhất [11], [12].
1.5. LỊCH SỬ CÁC BIỆN PHÁP TRÁNH THAI
1.5.1. Lịch sử các biện pháp tránh thai nói chung
Trong nhiều thập kỷ qua, sự sinh sản đã có ý nghĩa với mức độ thay đổi
với con người, tuỳ thuộc vào các mối quan hệ xã hội. Trước đây, cuộc đời
người phụ nữ tập trung vào việc đạt được “sự thành công cao nhất về sinh
sản” đảm bảo tương lai gia đình. Trong các thế kỷ trước, việc mang thai và

sinh đẻ có mức độ bệnh tật và tử vong rất cao mà ngay nay không thể tưởng
tượng được: tỷ lệ tử vong mẹ cho đến cuối thế kỷ XIX được ước lượng vào
10
khoảng 2-10%. Trong bối cảnh này, một điều không ngạc nhiên là các biện
pháp tránh thai xuất hiện sớm và lan tràn rộng rãi trong lịch sử nhân loại.
Cuốn “Chúa sáng tạo ra thế giới” trong Kinh Cựu ước đã bàn về tránh thai
bằng biện pháp giao hợp gián đoạn. Trong thời Ai Cập cổ đại và đế chế La
mã, nút bông vệ sinh đã được dùng như một dụng cụ tránh thai. Vào thế kỷ
XVIII (1797), Jevemy Bentham trở thành một trong những người đầu tiên sử
dụng bọt biển đặt trong âm đạo như là một dụng cụ tránh thai. Hình ảnh lạc
đà đi qua sa mạc có đặt cục đá trong tử cung đó là ý tưởng của vòng tránh
thai sau này. Bao cao su được dùng lần đầu tiên vào thế kỷ XV và XVI làm
bằng bong bóng cá hoặc lụa nhưng không phải để tránh thai mà mục đích là
bảo vệ khỏi lây bệnh. Cho đến tận thế kỷ XIX, với phát minh lưu hóa cao su
vào năm 1843, bao cao su mới được sản xuất và sử dụng rộng rãi. Đến cuối
thế kỷ XIX đã có trên 100 loại màng ngăn âm đạo khác nhau xuất hiện trên
thị trường. Sự phát triển trong các thập kỷ gần đây đã làm xuất hiện nhiều
biện pháp tránh thai khác nhau [72]. Sự phát triển của các biện pháp tránh
thai gắn liền với sự phát triển chung của xã hội nên ngày càng mới, càng
hiệu quả và đa dạng.
Rất khó đưa ra một ngày khởi đầu chính xác của các nghiên cứu khoa
học về tránh thai nội tiết. Ngày 01/03/1919, khi Ludwig Haberlandt đạt được
thành công trong việc đình sản tạm thời các động vật có khả năng sinh sản
bằng cách ghép buồng trứng của các động vật đang mang thai được ghi nhận
là một ngày quan trọng. Bên cạnh đó, sau này, nhiều nghiên cứu tiếp theo về
tránh thai nội tiết được ra đời với nhiều đường dùng khác nhau như uống,
tiêm, cấy dưới da và cho phép dùng để điều trị. Với đại đa số thuốc tránh thai
hiện có, người phụ nữ có thể lựa chọn một chế phẩm nội tiết phù hợp với nhu
cầu riêng biệt của họ. Haberlandt đã suy luận về tính khả thi của tránh thai
đường uống ở người bằng cách tiêm hoặc uống các chất chiết từ buồng trứng.

11
Vào năm 1932, Butenandt và Marrian đã phân tích cấu trúc của estrogen, đến
năm 1934, Allen, Butenandt và Wettstein cũng phân tích cấu trúc của và
progestin. Sau đó, người ta chỉ ra rằng các nội tiết tố steroid buồng trứng và
dẫn xuất của chúng có thể ức chế phóng noãn bằng tác dụng chức năng của
tuyến yên [73]. Các công trình nghiên cứu của Makepiece (1937) và Astwood
& Fevokl (1939) cũng chỉ ra rằng có thể ức chế phóng noãn bằng progesteron.
Năm 1944, Bickenback và Faulikovics chứng minh rằng tiêm 200 mg
progesteron đủ để ức chế phóng noãn ở phụ nữ. Các nhà nghiên cứu Đức là
Inhoffen và Hohlweg đã tổng hợp được ethinyltestoteron, norethisteron và
norethynodel. Đó là các Progestin tổng hợp với hiệu quả ức chế phóng noãn
tuyệt vời (Inhoffen & Hohlweg, 1938). Người ta cũng chỉ ra rằng sử dụng đơn
thuần progestin tổng hợp có thể ức chế một cách chắc chắn sự phóng noãn,
nhưng có tác dụng phụ như ra máu nhỏ giọt, các nghiên cứu sau đó đã phối
hợp progestin với một estrogen. Chế phẩm phối hợp đầu tiên ra đời có tên là
Enovid® . Enovid® đã được thử nghiệm qua nhiều nghiên cứu lâm sàng lớn ở
Nam Mỹ và xuất hiện ở thị trường châu Âu dưới dạng chế phẩm phối hợp
chứa 9,85mg norethydrel và 150µg mestranol. Sự phát triển trong các thập kỷ
gần đây đã làm xuất hiện các thuốc tránh thai nội tiết chứa liều thấp có tác
dụng tránh thai cao và ít tác dụng phụ. Bên cạnh đó, người ta cũng đã phát
triển thuốc với nhiều đường dùng khác nhau. Đến nay, nó cũng được sử dụng
rộng rãi trên toàn cầu [2], [4], [5], [6]. Thuốc tránh thai đường uống có 2 loại,
đơn thuần và kết hợp. Thuốc tránh thai kết hợp (phối hợp) gồm có 2 nội tiết tố
là E & P trong một viên thuốc. Thuốc này có 3 loại: 1pha, 2 pha và 3 pha.
Thuốc 1 pha có hàm lượng giống nhau giữa các viên thuốc trong vỉ thuốc.
Hiện nay, chế phẩm thuốc dạng này được sử dụng rộng, phổ biến và có hiệu
quả tránh thai cao. Thuốc 2 pha và 3 pha có hàm lượng thuốc thay đổi theo
các giai đoạn trong chu kỳ kinh nguyệt và ít được dùng [10], [73]. Tất cả các
12
viên thuốc ở dạng đơn thuần (chỉ có một nội tiết tố là Progestin) đều có hàm

lượng Progestin giống nhau trong cả liếp thuốc, thường được dùng cho những
phụ nữ sau sinh đang cho con bú [4], [11], [12].
Ưu điểm của thuốc tránh thai dạng uống là hiệu quả tránh thai cao nếu sử
dụng đúng, hồi phục khả năng sinh sản ngay sau khi ngưng sử dụng thuốc,
không ảnh hưởng đến quan hệ tình dục, ngoài lợi ích tránh thai còn có lợi ích
khác, giảm nguy cơ thai ngoài tử cung, giảm vô kinh, thống kinh, giảm lượng
máu khi hành kinh. Điều này có ích cho những người phụ nữ thiếu máu, giảm
hội chứng trước kinh, phòng chống ung thư buồng trứng, ung thư nội mạc tử
cung, và còn dùng làm thuốc tránh thai khẩn cấp.
Nhược điểm của thuốc tránh thai không phòng được các bệnh lây
truyền theo đường tình dục, kể cả HIV và AIDS. Phải uống thuốc đúng giờ
hàng ngày, dễ quên. Những tác dụng phụ chủ yếu xảy ra trong 3 tháng đầu
như là rong huyết, vô kinh, buồn nôn, căng vú, đau đầu. Thuốc tránh thai kết
hợp không phải là lựa chọn thích cho phụ đang cho con bú. Ngoài ra thuốc
tránh thai kết hợp có thể gây ra một số biến chứng tuần hoàn (hiếm gặp), đau
bắp chân dữ dội, ho, tức ngực…[2], [10], [73].
1.5.2. Lịch sử thuốc cấy tránh thai
Cùng với sự phát triển của polyme nhân tạo, ngưòi ta đã có thể chế tạo
được những phương tiện tránh thai cho phép giải phóng liên tục một lượng
nhỏ hormone trong một thời gian dài, đó là các dạng thuốc cấy tránh thai.
Năm 1967, khái niệm về một loại thuốc tránh thai cấy phóng thích thuốc lâu
dài từ viên nang polymer silastic được đề xuất. Thuốc cấy đầu tiên là
Norplantt gồm 6 nang silastic mềm chứa tinh thể Levonorgestrel đã được sử
dụng nhiều trên thế giới. Đây là sản phẩm của hãng Leiras Pharmaceutical -
Phần Lan sản xuất. Một thời gian sau, bộ phận phát triển lâm sàng của N.V.
Organon đã có ý tưởng phát triển một que thuốc duy nhất dùng cấy dưới da.
13
Ý định là thuốc phải đáng tin cậy, có thể làm được và mục đích là đạt được sự
ức chế rụng trứng hoàn toàn. Vì que thuốc sẽ được dùng ngoài đường tiêu hoá
nên một progestogen đã biết là desogestrel được chọn làm hoạt chất. Chất

chuyển hoá có hoạt tính này là 3-ketodesogestrel có danh pháp quốc tế là
etonogestrel (ENG).
Một đơn vị kinh doanh khác của tập đoàn OKZO Nobel, chữ O trong
AKZO là Organon, chuyên về sợi đã có thể sản xuất một copolymer gọi là
EVA tỏ ra thích hợp để chứa chất hormon. Etonogestrel dạng kết tinh được
treo trong chất nền polymer EVA để tạo nên một nhân thuốc, nhân này được
bọc trong một màng EVA. Thành phần cấu tạo này cho phép que cấy duy trì
phóng thích ENG lâu dài. Đó là que cấy tránh thai Implanon. So với các biện
pháp tránh thai khác, thuốc cấy tránh thai đã được chứng minh qua các nghiên
cứu ở nước ngoài là một trong những biện pháp tránh thai hiệu quả, an toàn
và dễ chấp nhận nhất [7], [8], [9]. Trên thế giới hiện có 4 loại thuốc cấy tránh
thai [19], [29], [34], [38], [51], [67].
- Mảnh cấy chứa Levonorgestrel có tác dụng tránh thai trong 5 năm.
Gồm 2 loại: Norplant ® 6 que và Jadelle® 2 que.
- Mảnh cấy Implanon® 1que, chứa Etongestrel (3 keto deogsstrel) có
tác dụng tránh thai trong 3 năm.
- Mảnh cấy chứa Progestogen là Nestorone có 2 loại:
+ Nestorone ® 1que, tác dụng tránh thai trong 2 năm.
+ Elcomtrine® 1 que, tác dụng tránh thai trong 6 tháng.
- Mảnh cấy Uniplant®1 que, tác dụng tránh thai trong 1 năm.
Trên thế giới có đủ 4 loại mảnh cấy tránh thai, nhưng có 2 loại được dùng
phổ biến được chấp nhận rộng rãi đó là Norplant ®, Jadelle® và hiện tại là
Implanon®. Các que cấy tránh thai không ảnh hưởng đến sức khỏe người xử
dụng, đã được tổ chức FDA của Mỹ cho phép xử dụng trên người [51].
14
Norplant của hãng Leiras Pharmaceutical - Phần lan và Implanon của
hãng N.V.Organon - Hà Lan.
Norplant là loại thuốc cấy tránh thai lần đầu tiên xuất hiện trên thị
trường thế giới đã chứng minh tính hiệu quả cao và tiện lợi của thuốc so với
các biện pháp khác. Norplantt chứa Levonogestrel, một loại progestogen, gồm

6 nang thuốc cấy có tác dụng tránh thai trong vòng 5 năm. Từ năm 1983 cho
đến nay, Norplant đã được sử dụng cho phụ nữ và đang là biện pháp được
phép sử dụng ở 60 quốc gia trên thế giới. Kết quả nghiên cứu trên 55.000 phụ
nữ đã chứng minh đây là biện pháp tránh thai có hiệu quả tránh thai cao với tỷ
lệ thất bại (có thai) trong vòng 5 năm sử dụng là 1% (0,26%) [6], [78], [92].
Thời gian cấy que thuốc và thời gian tháo que thuốc khoảng 10 - 20 phút.
Tại Việt Nam, từ năm 1994, thuốc cấy Norplant 6 que đã được đưa vào
chương trình Kế hoạch hóa Gia đình. Tuy tỷ lệ sử dụng chưa cao (500 phụ
nữ) nhưng tính hiệu quả của biện pháp đã được chấp nhận. Sau đó, do giá
thành của thuốc quá cao so với người sử dụng nên biện pháp đó không được
tiếp tục [6], [9].
Thuốc cấy tránh thai Implanon xuất hiện muộn hơn Norplant và có
một số ưu điểm khác biệt. Implanon với thiết kế chỉ gồm một nang duy nhất
có đường kính 2mm và dài 40mm chứa Etonogestrel có tác dụng tránh thai
trong 3 năm. Sự xuất hiện của Implanon với ưu thế có 1 que cấy duy nhất đã
chứng tỏ tính ưu việt của nó, cấy và tháo nhanh 3 phút [7], [9], [12], [13].
Tháng 9 năm 2000, với sự tự nguyện của 120 phụ nữ, ở Hà Nội, nó được cấy
thử nghiệm tại Viện Phụ Sản Trung Ương; ở 2 tỉnh Hoà Bình và Thanh Hoá,
nó được cấy tại cơ sở. Sau khi cấy thử nghiệm và báo cáo tổng kết nghiệm
thu, Implanon đã được Bộ Y tế Việt Nam cho phép và lưu hành. Từ đó, nó
được triển khai tiếp ở các tỉnh thành khác trong cả nước.
15
1.6. TỔNG QUAN THUỐC CẤY TRÁNH THAI IMPLANON
1.6.1. Công thức hóa học của thuốc cấy tránh thai Implanon
Hình 1.1. Công thức cấu tạo của Etonogestrel [70], [73].
Công thức phân tử C
22
H
28
O

2
(13-Ethyl-17-hydroxy-11-methylene-18,19-
dinor-17a-pregn-4-en-20-yn-3-one) là dẫn chất 19 - nortestosterone và có ái
tính kết gắn cao với các thụ thể progesteron ở các cơ quan đích. Đây là
progesteron ở thế hệ thứ ba có hoạt tính androgen thấp hơn progesteron ở thế
hệ thứ nhất và thứ hai nên không gây nổi mụn, nám mặt, mọc râu ở phụ nữ
[57], [66], [72], [73].
Dược động học
Sau khi cấy que Implanon, etonogestrel nhanh chóng được hấp thu vào
máu. Nồng độ ức chế rụng trứng đạt được trong vòng một ngày. Nồng độ cực
đại trong huyết thanh (từ 427-1270 picrogram/ml), đạt được trong vòng 1-13
ngày. Tốc độ phóng thích của que cấy giảm dần theo thời gian. Do vậy, nồng
độ trong huyết thanh giảm nhanh trong những tháng đầu. Đến cuối năm thứ
nhất, nồng độ trung bình đo được vào khoảng 200 pg/ml (thay đổi trong
16
khoảng 150-261pg/ml ) giảm chậm còn 156 pg/ml (112-202pg/ml) vào cuối
năm thứ ba. Sự biến thiên được nhận thấy trong huyết thanh có thể phần nào
quy cho sự khác biệt về thể trọng. Phân bố 99,5-99% etonogestrel gắn với
protein huyết thanh, chủ yếu là albumin và một tỷ lệ ít hơn gắn với globulin
gắn với hormon sinh dục. Chuyển hoá Etonogestrel được hydroxyl-hoá và
khử trong cơ thể. Các chất chuyển hoá được liên hợp với sulphate và
glucuronide [7], [21], [33], [48], [73], [88]. Sau tháo que cấy tránh thai một
tuần nồng độ etonogestrel là 20 pg/ml, qua tuần thứ hai không còn ENG lưu
hành trong máu [21].
Thải trừ
Sau khi tiêm tĩnh mạch etonogestrel, thời gian bán thải trung bình vào
khoảng 25 giờ và thanh thải huyết thanh vào khoảng7,5 l/giờ. Sự thanh thải
lẫn thời gian bán thải vẫn không thay đổi trong thời gian điều trị. Sự bài tiết
etonogestrel và những chất chuyển hoá của nó, dù cho là dạng tự do hay liên
hợp đều qua nước tiểu và phân (tỷ số 1,5:1) [21], [48].

Số liệu an toàn tiền lâm sàng
Những nghiên cứu độc chất học không phát hiện được bất cứ tác dụng nào
ngoài những tác dụng có tính chất hormon của etonogestrel, bất luận thuốc
được dùng bằng đường nào [7], [33], [48], [51], [58], không ảnh hưởng đến
chức năng của tuyến giáp, tuyến thượng thận [23], cũng như chức năng gan
và chuyển hóa carbon [25], ]26], cũng không ảnh hưởng đến sức khỏe chung
của người xử dụng và cũng không ảnh hưởng đến sự đặc của xương [20].
Ngoài ra không có sự thay đổi chuyển hóa lipít, cholesterol toàn phần,
trịglycrine [80]. An toàn cho phụ nữ [47].
+ Đặc điểm dược dụng
- Danh mục tá dược
. Que cấy
17
. Lõi : Ethylene vinylacetate copolymer ( 28% vinyl acetate ) 46 mg.
. Bề mặt : Ethylene vinylacetate copolymer (14% vinyl acetate) 15mg.
. Ống cấy
Thân bằng acrylonitrile – butadiene – styrene, kèm kim bằng thép
không rỉ và nắp kim bằng polypropylene.
- Tương kỵ
Không có tương kỵ nào.
- Tuổi thọ
Tuổi thọ của Implanon là 3 năm khi được bảo quản ở nhiệt độ 2
o
C - 30
0
C, tránh ánh sáng và ẩm ướt. Không được cấy implanon sau hạn dùng ghi trên
bao bì.
- Trình bày
Vỉ có một que cấy, dài 4cm, đường kính 2mm, được chứa trong can-nuyn của
ống cấy vô khuẩn chỉ dùng một lần. Ống cấy vô khuẩn có que cấy được đóng

trong vỉ nhựa làm bằng polyethylene -terephthalate – glycol trong suốt được
hàn kín với giấy không thấm nước. Vỉ nhựa được đựng trong hộp cùng với tờ
hướng dẫn sử dụng [7]. Vỉ thuốc này do công ty N.V.Organon, PO Box 20,
5340 HB Oss, Hà lan sản xuất [41], [58], [67].
1.6.2. Đặc điểm cấu tạo của que cấy tránh thai
Thuốc cấy tránh thai Implanon chỉ có progestin được cấy dưới da, hạn sử
dụng trong thời gian 3 năm. Mỗi que cấy Implanon gồm :
- Lõi dài 40mm, đường kính 2mm và chứa 68mg etonogestrel.
Etonogestrel là một chất chuyển hoá có hoạt tính sinh học là desogestrel, một
proestagen được sử dụng rộng rãi trong thuốc viên ngừa thai. Lõi chứa 40%
EVA (ethylen vinyl acetate) và 60% etonogestrel.
- Màng: 100% là EVA dày 0,06 mm.
18
Que cy ny c ng trong can - nuyn ca ng cy vụ khun c
dựng mt ln. Que cy implanon khụng b phõn hu sinh hc v t ỳng v
trớ di da s khụng gõy cn tr, nhng cú th s thy que trong sut thi gian
s dng. Que cy cú th d dng c nh v v rỳt ra khi ht thi hn s
dng hoc rỳt ra sm hn nu khụng mun trỏnh thai [41]. Khi thỏo que nu
khụng s thy que, siờu õm ti ch cy tỡm v tin hnh th thut thỏo que
[45], [49], [54], [81].
Hỡnh 1.2. Cu trỳc ca que cy Implanon [72]
Hỡnh 1.3. Hỡnh nh que cy trỏnh thai [72]
1.6.3. C ch trỏnh thai ca Implanon
Implanon trỏnh thai nh vo 3 c ch [59], [76].
Mt l c ch rng trng (khụng cú nang noón vt tri).
Hai l lm c cht nhy c t cung ngn chn s xõm nhp ca tinh
trựng lờn ng sinh dc n.
19
Maỡng kióứm soaùt tọỳc õọỹ phoùng thờch (0,06mm)
a. Loợi: 40% EVA

60 % etonogestrel
b. Maỡng: 100% EVA

a
b
Ba là ngăn chặn sự phát triển của niêm mạc tử cung. Dưới tác dụng của
progestagen kéo dài nội mạc sẽ thiểu dưỡng [11], [12], [32], [41], [48], [57],
[59], [67].
Tác dụng tránh thai của Implanon chủ yếu đạt được nhờ sự ức chế rụng
trứng. Trong 2 năm đầu sử dụng, không thấy rụng trứng và trong năm thứ 3
sự rụng trứng cũng rất hiếm hoi [7], [53], [73], [72], [74].
Sau khi cấy Implanon, Etonogestrel nhanh chóng phóng thích vào tuần
hoàn nồng độ cực đại trong huyết tương từ 60-70 microgam/ngày, 35- 45
microgam/ngày sau 1 năm, 30- 40 microgam/ngày sau 2 năm và 25- 30
microgam/ngày vào cuối năm thứ ba. Như vậy là tốc độ phóng thích giảm dần
theo thời gian. Với liều 30 microgam ENG được giải phóng 1 ngày, cần thiết
để ức chế một cách tin cậy đỉnh LH [7], [8], [67], [72], [73].
1.6.4. Hiệu quả tránh thai
Hiệu quả tránh thai của biện pháp rất cao. Chỉ số Pearl Index: 0.0,
khoảng tin cậy 95%. Theo nghiên cứu của một tổ chức ở Inđonêxia, theo dõi
53.530 vòng kinh, không xẩy ra trường hợp nào có thai. Các nghiên cứu khác
thực hiện trên thế giới thì chỉ số thất bại của biện pháp cấy tránh thai này cũng
bằng không (pearl index) [6], [7], [9], [14], [36], [37], [41], [52], [56], [57],
[59], [67], [74].
Thuận lợi
Biện pháp tránh thai này mới, hiện đại, kín đáo, cấy một lần tránh thai được
thời gian dài 3 năm, có tác dụng tránh thai nhanh ngay khi cấy (< 24 giờ) nên
cấy trong vòng từ ngày thứ nhất đến ngày thứ năm của chu kỳ kinh nếu là vòng
kinh đều thì có hiệu quả tránh thai cao chỉ số pearl bằng 0 [7], [14], [57], [73],
[74]. Thuốc không ảnh hưởng đến sự tiết sữa, cũng như chất lượng của sữa

[38], [69], không có những tác dụng phụ của viên thuốc tránh thai kết hợp.
Không ảnh hưởng tới ham muốn tình dục. Là thuốc tránh thai hồi phụ sinh sản
20
nhanh, khách hàng không thích hoặc có tác dụng phụ thì tháo ra [18], [38],
[41], [47], [58], [71], [76]. An toàn, kinh tế và tiết kiệm, là biện pháp tránh thai
của thế kỷ này, nhiều phụ nữ chấp nhận [36], [37], [41], [44], [43], [47], [52],
[62], [65], [74].
Không thuận lợi: đây là biện pháp tránh thai không phòng tránh được
HIV và các bệnh lây qua đường tình dục [8], [26], [48], [79]. Trong năm đầu
xử dụng nang cơ năng buồng trứng to lên, sau đó tự thoái triển, không ảnh
hưởng đến tình hình sức khỏe nói chung [46], [67].
Lợi ích cho sức khoẻ nói chung: thuốc có thể làm giảm hoặc khỏi
thống kinh, giảm bớt nguy cơ ung thư nội mạc tử cung [50], giảm bớt nguy
cơ viêm nhiễm phần phụ và chửa ngoài tử cung [29], [37], [44], [48], [58],
[74]. Đây là biện pháp tránh thai an toàn, hiệu quả tránh thai cao [44], [47],
[51], [57],
- Tác dụng phụ ( Tác dụng không mong muốn)
+ Do thuốc cấy tránh thai:
. Rối loạn kinh nguyệt: Vô kinh, rong kinh ra máu thấm giọt,rong
huyết, kinh thưa [40], [43], [76].
. Nhức đầu, chóng mặt, tăng cân, nám da, căng và đau vú, mụn trứng
cá, [58], [60], [67].
. Nhìn chung các tác dụng phụ thường nhẹ và chấp nhận được [47],
[50], [52], [68], [69], [87], [91].
. Dị ứng với các thành phần của thuốc [7], [50], [71], [72].
+ Do thuốc tê:
Sốc lidocain gây chết người (hiếm khi xảy ra)
+ Tại chỗ cấy:
. Bầm tím chỗ cấy [16], [32], [40]
. Nhiễm trùng chỗ cấy (nếu không tuân thủ nguyên tắc vô khuẩn)

21
. Cấy không đúng kỹ thuật thì que có thể chồi ra hoặc không có que cấy
ở trong vị trí cấy [22], [63], [67].
. Đau và ngứa chỗ cấy [7], [36], [38].
. Do khách hàng sờ nắn nhiều quá làm gãy nang cấy [66].
- Thay đổi các hình thái ra máu âm đạo
Trong khi dùng thuốc ngừa thai chỉ chứ progestogen, một số phụ nữ có
thể thấy xuất huyết âm đạo dạng ra máu thấm giọt, kinh kéo dài, vô kinh, rong
huyết. Những thay đổi này thường là những lý do để phụ nữ từ chối không
dùng biện pháp này. Do đó, cần phải tư vấn cho chị em phụ nữ trước khi họ
chọn, sử dụng que cấy implanon [7], [9], [11], [15], [18], [35], [73], [74],.
Cách theo dõi các hình thức ra máu âm đạo theo quy định của Tổ chức Y
tế Thế giới được dùng phổ biến. Ở phụ nữ dùng biện pháp tránh thai không có
hormon hoặc dùng thuốc viên tránh thai kết hợp vẫn có thể nhận ra các chu kỳ
ra huyết đều đặn bình thường với thời gian trung bình là 28 ngày, còn gọi là
hành kinh và ra huyết do nghỉ thuốc [9], [15], [67].
Khi tránh thai bằng thuốc không có estrogen liên tục trong thời gian dài,
như thuốc cấy chẳng hạn, không có hormon nào bị gián đoạn, do đó, không
xảy ra xuất huyết do nghỉ thuốc và không thể nhận ra các chu kỳ kinh. Như
vậy, khi dùng thuốc tránh thai phóng thích progestogen liên tục hình thái ra
huyết âm đạo có thể thay đổi. Để mô tả hình thái xuất huyết không chu kỳ
trong thời gian dùng progestogen liên tục người ta dùng một hệ thống gọi là
thời gian đối chiếu 90 ngày [9], [15], [22], [28]. Trong một chu kỳ đối chiếu
90 ngày có 3 - 4 đợt hành kinh là bình thường. Nếu 90 ngày đó không có đợt
ra máu nào gọi là vô kinh. Nếu có 1-2 đợt ra máu thì gọi là kinh thưa. Còn
nếu trong chu kỳ 90 ngày có 5-6 đợt ra huyết thì gọi là rong huyết. Nếu một
đợt ra huyết đó kéo dài liên tục trên 14 ngày gọi là rong kinh.
22
Các biện pháp tránh thai là những biện pháp nhằm ngăn chặn sự gặp gỡ
của tinh trùng và trứng. Nó có thể là một hàng rào cơ học hoặc hoá học ngăn

cản sự thành lập giao tử, hoặc ngăn chặn sự làm tổ của trứng, mỗi biện pháp
tránh thai đều có những ưu điểm và tác dụng không mong muốn, nhất là
phương pháp tránh thai nội tiết hay xảy ra xáo trộn kinh nguyệt [31], [37], [42].
Implanon là một trong những biện pháp nhằm bảo vệ sức khoẻ mà tất
cả các cặp vợ chồng có thể thực hiện. Việc phòng tránh thai ngoài kế hoạch
và giãn khoảng cách sinh có tác động sâu sắc đến việc bảo vệ sức khoẻ,
giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong bà mẹ, trẻ em, không ảnh hưởng đến sự phát
triển của trẻ [7], [19], [28], [36], [47]. Tuy nhiên việc áp dụng các biện pháp
tránh thai phải là một quyết định tự nguyện dựa trên sự lựa chọn một biện
pháp thích hợp của khách hàng sau khi đã nhận được đầy đủ thông tin về mỗi
biện pháp. Vai trò của nhân viên y tế là cung cấp cho khách hàng tất cả các
thông tin về những thuận lợi, không thuận lợi cũng như cách sử dụng của mỗi
biện pháp.
Hiệu quả của biện pháp tránh thai được đánh giá bằng chỉ số Pearl
Index (P):
Số trường hợp thất bại *1200
P =
Số vòng kinh quan sát được
P: số trường hợp thất bại có thai /100 phụ nữ sử dụng phương pháp
tránh thai /1 năm. Ngoài vấn đề hiệu quả tránh thai cao, các phương pháp
tránh thai còn phải không ảnh hưởng đến sức khoẻ người sử dụng và được sự
chấp nhận xử dụng một cách rộng rãi của cộng đồng [4], [11], [72].
Tình hình nghiên cứu trên thế giới về thuốc tránh thai mảnh cấy
Có rất nhiều nghiên cứu trên thế giới về mảnh cấy tránh thai của các
nước, tổ chức Y tế Thế Giới kể cả hãng sản xuất ra que cấy. Họ nghiên cứu về
23
tính an toàn, hiệu quả tránh thai, khả năng chấp nhận của cộng đồng, các tác
dụng phụ của mảnh cấy tránh thai. Kết quả nghiên cứu đã chứng minh tính
hiệu quả cao, an toàn và tiện lợi của thuốc cấy tránh thai so với các phương
pháp tránh thai khác.

Tại Thái Lan, một nghiên cứu mở không so sánh trong 4 năm tiến hành
trên 100 phụ nữ khoẻ mạnh với mảnh cấy Implanon. Kết quả của nghiên cứu
này cho thấy không có trường hợp nào có thai trong số 296 lượt phụ nữ sử
dụng. Với chu kỳ tham khảo 90 ngày, trung bình đã có 10 ngày ra máu thấm
giọt và 2 kỳ ra máu. Vô kinh 24-39% trong 2 năm đầu, đau đầu 7%, một số ít
đối tượng ngừng sử dụng sớm do chảy máu không đều. Sau tháo que có 6
trường hợp có thai ngay cho thấy sự phục hồi sinh sản nhanh. Thời gian cấy
que thuốc chiếm 0,5 phút và thời gian lấy que thuốc là 2,5 phút. Qua nghiên
cứu, có thể kết luận Implanon có hiệu quả tránh thai cao, sử dụng rộng rãi, dễ
chấp nhận, đặt và tháo que dễ dàng không gây tai biến [16], [52], [57], [58].
Tại Indonesia, việc nghiên cứu được tiến hành trên 200 phụ nữ trong
thời gian 4 năm cũng cho thấy biện pháp cấy này có hiệu quả tránh thai cao,
chỉ số pearl là 0 (95%), với chu kỳ kinh đối chiếu có ra máu bất thường,
không có kinh [16].
Ở châu Âu, việc nghiên cứu được tiến hành trên qui mô lớn với 635
phụ nữ khoẻ mạnh tại 21 trung tâm ở 9 quốc gia khác nhau cũng cho thấy
cũng cho thấy không có trường hợp nào có thai xảy ra trong quá trình sử dụng
Implanon (chỉ số Pearl Index of 0). Có 31% ngưng sử dụng trong 2 năm đầu
và nguyên nhân chính để ngưng sử dụng là ra máu không đều. Đặt que và
tháo que dễ dàng trong hầu hết các đối tượng (97%). Khả năng thụ thai hồi
phục nhanh chóng sau khi tháo que thuốc [9], [15], [37], [47].
Tại Việt Nam đã có các nghiên cứu về thuốc cấy tránh thai. Đó là
nghiên cứu của giáo sư Trần Thị Phương Mai công tác tại Bộ Y Tế Vụ SKSS
với mẫu nghiên cứu là 120 đối tượng thuộc 3 trung tâm: Bệnh viện Phụ Sản
24
Trung Ương với 40 đối tượng, Trung tâm CSSKSS tỉnh Thanh Hoá 40 đối
tượng và trung tâm CSSKSS tỉnh Hoà Bình 40 đối tượng trong thời gian ba
năm có kết quả như sau: hiệu qủa tránh thai là 100%. Có 3 hình thái ra máu âm
đạo được chấp nhận hơn đó là ra máu âm đạo bình thường 38%, ra máu âm
đạo thưa 36% và vô kinh là 20%, ra máu dày chiếm tỷ lệ 16% ít được khách

hàng chấp nhận và các tác dụng phụ khác như đau đầu, chóng mặt, buồn nôn,
căng ngực, nổi mụn, các tác dụng phụ này chỉ thoáng qua không trầm trọng và
không cần phải điều trị, năm đầu có 5 trường hợp bỏ cuộc (tháo que cấy), năm
thứ hai có 11 trường hợp bỏ cuộc và năm thứ ba có thêm 8 đối tượng nữa bỏ
cuộc. Trong số 24 đối tượng bỏ cuộc có 12 trường hợp tháo que cấy vì bị tác
dụng phụ là rong huyết. Thủ thuật cấy và tháo que cấy đơn giản dễ thực hiện.
Cán bộ y tế được tập huấn sẽ thực hiện thủ thuật cấy và tháo que được [9].
Nghiên cứu của Trần Đức Chiến ở Bắc Giang với 300 đối tượng theo dõi trong
một năm có các kết quả sau: hiệu quả tránh thai là 100%, sự chấp nhận của
cộng đồng là 99,2%, tỷ lệ vô kinh là 15,9%, ra máu thưa là 19%, ra máu bình
thường là 69,5%, thủ thuật cấy que dễ, không có tai biến trầm trọng, có 6
trường hợp bỏ cuộc chiếm tỷ lệ 2 % [5]. Qua tình hình nghiên cứu về thuốc cấy
tránh thai như trên ta thấy đây là một biện pháp tránh thai mới của thế kỷ này,
có nhiều ưu điểm, được phụ nữ tin dùng, tuy nhiên còn một vài tác dụng phụ
không mong muốn, các tác dụng phụ không mong muồn này chỉ thoáng không
cần phải điều trị. Ưu điểm lớn nhất của biện pháp là hiệu quả tránh thai cao, an
toàn cho sức khỏe, có thai lại ngay sau khi ngưng sử dụng biện pháp [7], [9],
[11], [16], [18],[21], [28], [41], [44], [47],[51].
25

×