Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Quá trình chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần tạo chỗ dựa vững chắc cho nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô p2 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.61 KB, 10 trang )


11

vào một tổ chức gọi là Tổng công ty Nhà nước. Có những DNNN
tham gia vào Tổng công ty không phải là tự nguyện mà bị gò ép, họ
thậm chí không có quyền quyết định vận mệnh của chính mình. Tất
cả những điều này đã không tạo ra được sự gắn kết cần thiết giữa
các đơn vị thành viên với Tổng công ty và do đó không phát huy
được sức mạnh tổng hợp của Tổng công ty.
3.3. Thiếu sự phân công, phân cấp cụ thể, rõ ràng về quản lý
Nhà nước và thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nước đối với DNNN
giữa chính phủ với Bộ quản lý ngành, Bộ chức năng và UBND cấp
tỉnh, cấp huyện nên mối quan hệ giữa Tổng công ty với các cơ quan
quản lý Nhà nước rất phức tạp, có quá nhiều đầu mối, trách nhiệm
giải quyết công việc không rõ ràng và khó xác định trách nhiệm khi
xảy ra hậu quả.
Hiện tại đại diện quyền sở hữu Nhà nước được dàn trải ở nhiều
cơ quan đại diện làm nảy sinh nhiều vấn đề phiền hà cho doanh
nghiệp, tạo ra nhiều sơ hở trong cơ chế quản lý vốn và tài chính của
doanh nghiệp mà hậu quả khó lường hết cho cả các cơ quan quản lý
Nhà nước lẫn doanh nghiệp.
3.4. Qua thực tế hoạt động có một số Tổng công ty đang đòi hỏi
phải có giải pháp tổ chức sắp xếp lại như: Tổng công ty đá quý và
vàng (Tổng công ty 91), Tổng công ty cơ khí năng lượng và mỏ
(Tổng công ty 90).
3.5. Tình trạng thiếu vốn của các DNNN là phổ biến và nghiêm
trọng. Tổng công ty Nhà nước tuy được ưu tiên các điều kiện vật
chất, nguồn lực để phát triển nhưng tình hình cũng không sáng sủa
hơn. Năm 1998, vốn Nhà nước bình quân của Tổng công ty 91 là
3661 tỉ đồng (260 triệu USD). Nhưng trong số 17 Tổng công ty 91
có tới 14 Tổng công ty (82%) có mức vốn Nhà nước dưới mức vốn


bình quân, trong đó 6 Tổng công ty (35%) có mức vốn Nhà nước

12

dưới 1000 tỉ đồng. Điều đó có nghĩa là chỉ có 3 Tổng công ty 91 có
vốn Nhà nước là lớn.
Đối với Tổng công ty 90, tình hìnhh vốn còn đáng buồn hơn.
Hơn 20% số Tổng công ty 90 vốn Nhà nước chỉ có dưới 100 tỉ
đồng, trong đó ở 13 Tổng công ty vốn từ ngân sách cấp cho mỗi
Tổng công ty chỉ được dưới 40 tỉ đồng.
Với quy mô vốn nhỏ hẹp như vậy, e rằng các Tổng công ty khó
mà thực hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế của mình.
III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CẦN LÀM ĐỂ
CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN CÁC TỔNG CÔNG TY.
1. Chấn chỉnh Bộ máy tổ chức của HĐQT và xử lý lại mối
quan hệ giữa chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc.
* Hội đồng quản trị cần được chấn chỉnh cả về cơ cấu tổ chức
và chất lượng hoạt động. Bài kết luận hội nghị sơ kết mô hình Tổng
công ty của Phó Thủ tướng Ngô Xuân Lộc nêu rõ “chuẩn bị tốt về
mặt nhân lực. Nâng cao chất lượng hoạt động của HĐQT để đủ sức
gánh vác nhiệm vụ. Chủ tịch HĐQT và các thành viên của HĐQT
phải là những người thuộc lĩnh vực hoạt động của Tổng công ty, có
kiến thức chuyên môn sâu rộng, am hiểu nội tình của doanh nghiệp
mà mình đang quản lý. Tham gia vào HĐQT có một số các giám
đốc của các công ty đầu đàn của Tổng công ty. Tổng giám đốc Tổng
công ty Dệt - May Việt Nam Bùi Xuân Khu nói: “Mô hình HĐQT
cần hết sức gọn nhẹ. Thành viên HĐQT phải là những người giỏi
chuyên môn, am hiểu ngành nghề thì mới có thể xây dựng các chiến
lược, chính sách đúng đắn. Bên cạnh đó có thể lập hội đồng cố vấn
để giúp đỡ cho HĐQT.

Theo ý kiến của Thủ tướng chính phủ và của ban đổi mới quản
lý doanh nghiệp trung ương thì trong thời gian tới nên thí điểm mô
hình chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Tổng công ty. Một số

13

Tổng công ty đồng tình với giải pháp này. “Việc chủ tịch HĐQT
kiêm Tổng giám đốc Tổng công ty là hoàn toàn đúng” ông chủ tịch
HĐQT Tổng công ty xây dựng số 1 nói. Nhưng cũng có ý kiến cho
rằng, chủ tịch HĐQT không nên kiêm nhiệm Tổng giám đốc. Tổng
giám đốc Tổng công ty điện lực Việt Nam Hoàng Trung Hải đề
nghị: “HĐQT nên chỉ có một số ít thành viên chuyên trách như: chủ
tịch và trưởng ban kiểm soát, còn các thành viên khác nên kiêm
nhiệm. Chủ nhiệm HĐQT phải là người quản lý có nhiều kinh
nghiệm, năng động, có khả năng quản lý, đã kinh qua công tác lãnh
đạo doanh nghiệp ít nhất 3 năm. Tổng giám đốc không nhất thiết là
thành viên HĐQT và do HĐQT chọn và đề cử để chính phủ phê
chuẩn. Đối với DNNN, chủ tịch HĐQT không nên kiêm nhiệm
Tổng giám đốc để thực hiện được các chức năng khác nhau mà
không bị chồng chéo và công tác giám sát được tốt hơn”. Tổng giám
đốc Tổng công ty hàng không cũng nói: “Đối với Tổng công ty
hàng không Việt Nam đề nghị không áp dụng mô hình chủ tịch
HĐQT kiêm nhiệm Tổng giám đốc để tránh sự lẫn lộn giữa đại diện
sở hữu Nhà nước và người điều hành trong Tổng công ty”.
* Xét cả về phương diện pháp lý và trên thực tế, thì vị trí, chức
năng, nhiệm vụ và quyền lực giữa HĐQT và Tổng giám đốc vẫn
chưa đủ rõ ràng nên người ta cảm thấy Tổng công ty là một cơ thể
có “hai đầu” vừa HĐQT vừa Tổng giám đốc mà quyền lực của
HĐQT thì cao nhất trên phương diện quản lý, còn Tổng giám đốc
quyền lực cao nhất trên phương diện điều hành. Thật ra thì khó có

thể tách bạch giữa quản lý và điều hành, vì có quản lý nào lại không
có điều hành và có điều hành nào lại không có quản lý? cho nên để
xử lý mối quan hệ giữa chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc Tổng
công ty, cần phân biệt rõ chức năng của HĐQT và nhiệm vụ của ban
Tổng giám đốc trong từng lĩnh vực cụ thể: xác định, định hướng
chiến lược phát triển, quản lý vốn, sử dụng lao động, quản lý dự án
đầu tư, quản lý bổ nhiệm cán Bộ Nghiên cưua phương thức giao

14

vốn cho HĐQT và HĐQT giao lại vốn cho Tổng giám đốc và các
doanh nghiệp thành viên. Triển khai việc HĐQT tuyển chọn Tổng
giám đốc và ký hợp đồng theo quy định và sự hướng dẫn của chính
phủ. Ký hợp đồng là để xác định rõ cơ sở pháp lý về chức trách và
quyền hạn của Tổng giám đốc trong việc quản lý điều hành Tổng
công ty theo đúng hợp đồng. Mặt khác để khắc phục tình hình Tổng
công ty có hai cơ quan đứng đầu gây khó khăn, chồng chéo, sự phân
định không rõ ràng giữa HĐQT và Tổng giám đốc như hiện nay.
Bên cạnh đó, chính phủ cũng sẽ khẩn trương nghiên cứu thí điểm
giải pháp tập trung quyền lực vào một chức danh là chủ tịch HĐQT
kiêm Tổng giám đốc ở một số Tổng công ty.



2. Xử lý mối quan hệ giữa Tổng công ty với các đơn vị
thành viên và giữa các đơn vị thành viên với nhau.
Cần phải tạo ra các liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp trong
Tổng công ty. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp này cần phải
được phân công chuyên môn hoá trong sản xuất, cần hợp tác với
nhau về công nghệ hoặc hỗ trợ nhau về vốn. Công ty có thể liên kết

dưới dạng công ty mẹ, công ty con trong đó công ty mẹ quản lý
công ty con chủ yếu là quản lý vốn. Công ty mẹ yêu cầu các công ty
con phải làm ra lợi nhuận và đồng thời quản lý công ty con về
phương hướng sản xuất theo hướng chuyên môn hoá để có sự phối
hợp đồng Bộ giữa các doanh nghiệp chứ không điều hành và thu
phụ phí như các Tổng công ty Nhà nước hiện nay. Về mặt kinh
doanh, công ty mẹ, công ty con là bình đẳng, quan hệ với nhau trên
cơ sở hợp đồng kinh tế, hai bên đều có lợi không ép buộc nhau.
Việc quản lý và chỉ đạo công ty con hoạt động cho đúng phương
hướng đã định là do hội đồng quản trị của công ty mẹ chỉ đạo.

15

Ngoài ra có thể tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp thành
viên của Tổng công ty với điều kiện Nhà nước nắm cổ phần chi
phối và Tổng công ty được uỷ quyền đại diện nắm giữ. Như vậy,
các doanh nghiệp đã cổ phần hoá vẫn nằm trong thành phần Tổng
công ty trên cơ sở ràng buộc bằng mối quan hệ tài chính, quan hệ
khai thác thị trường. Tổng công ty được tập trung nguồn vốn khấu
hao cơ bản, lãi sau thuế, vốn thu được qua quá trình cổ phần hoá
doanh nghiệp thành viên và thực hiện việc điều hoà vốn trong quá
trình sản xuất kinh doanh của toàn Tổng công ty.
3. Hoàn chỉnh đồng bộ cơ sở pháp lý quy định về quản lý
Nhà nước, thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nước đối với DNNN
nói chung và các Tổng công ty 90, 91 nói riêng.
Phương hướng và nội dung quan trọng về sự quản lý Nhà nước,
thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nước đối với DNNN là:
- Thực hiện sự phân công, phân cấp quản lý Nhà nước đối với
DNNN về nội dung, phạm vi, mức độ với cấp chính phủ, cấp Bộ,
cấp UBND tỉnh, huyện.

- Phân công, phân cấp và uỷ quyền thực hiện quyền chủ sở hữu
Nhà nước đối với DNNN cần quy định: trách nhiệm, quyền hạn cụ
thể của Bộ tài chính trong việc quản lý vốn và tài sản của Nhà nước
tại DNNN. Phạm vi, mức độ trách nhiệm, quyền hạn của Bộ quản lý
ngành hay UBND cấp tỉnh, huyện. Mối quan hệ giữa Bộ Tài chính
và Bộ quản lý ngành (hay UBND các cấp) trong việc phối hợp thực
hiện các chức năng trên. HĐQT được uỷ quyền thực hiện quyền chủ
sở hữu Nhà nước đối với DNNN thế nào?
Ở đây cũng cần quy định rõ các Tổng công ty 91 và 90 đều
không có khái niệm trực thuộc Thủ tướng chính phủ và về nguyên
tắc Tổng công ty nào cũng đều thuộc sự quản lý Nhà nước của Bộ
quản lý ngành kinh tế, kỹ thuật tương ứng. Từ đó, chính phủ sớm

16

ban hành một nghị định về quản lý Nhà nước và thực hiện quyền
chủ sở hữu Nhà nước đối với DNNN.
4. Cần tiếp tục sắp xếp lại cơ cấu tổ chức các Tổng công ty
và cơ cấu các đơn vị thành viên.
a. Về cơ cấu Tổng công ty 91 và 90.
Qua thực tế gần 6 năm tổ chức và hoạt động của các Tổng công
ty 91 và 90 đã cho thấy cần phải có sự đánh giá và sắp xếp lại cơ
cấu tổ chức các Tổng công ty theo vai trò, vị trí quan trọng của các
ngành kinh tế và thực lực hoạt động kinh doanh của các Tổng công
ty. Ví dụ: Bộ công nghiệp đã có đề án trình Thủ tướng chính phủ
cho hợp nhất Tổng công ty Đá quý và Vàng (Tổng công ty 91) và
Tổng công ty khoáng sản (Tổng công ty 90); sáp nhập Tổng công ty
cơ khí năng lượng và mỏ (Tổng công ty 90) vào Tổng công ty Than
(Tổng công ty 91) Các Bộ, ngành và địa phương cần thiết có sự
đánh giá và sắp xếp lại cơ cấu các Tổng công ty 91 và 90 để hoạt

động có thực lực và hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tế hiện
nay.
b. Về cơ cấu lại các đơn vị thành viên.
Hướng chủ yếu cơ cấu lại các đơn vị thành viên trong Tổng
công ty là: chuyển từ cách sắp xếp “hành chính” sang cách sắp xếp
theo “quy hoạch”; chuyển từ chỗ coi trọng “giảm đầu mối” là chính
sang mục tiêu hiệu quả - từ tính tất yếu của quá trình kinh tế để đưa
các doanh nghiệp vào cơ cấu đơn vị thành viên của Tổng công ty.
Để tổ chức lại các đơn vị thành viên Tổng công ty cần dựa trên
cơ sở đánh giá và phân loại doanh nghiệpt hành viên, cần quán triệt
nguyên tắc thống nhất quy hoạch ngành và quy hoạch lãnh thổ với
quan điểm xây dựng các Tổng công ty mạnh.
5. Mở rộng các kênh huy động vốn.

17

Trong điều kiện nước ta hiện nay, nhu cầu vốn đầu tư của các
Tổng công ty rất lớn, Tổng công ty không thể trông chờ vào sự đầu
tư của Nhà nước và cũng không thể đợi đến khi Tổng công ty tích tụ
đủ vốn mới đầu tư, do đó Tổng công ty phải tìm cách huy động vốn
từ các nguồn khác. Cổ phần hoá các DNNN là một biện pháp huy
động vốn quan trọng đang được Nhà nước ta đẩy mạnh tiến hành.
Thực hiện cổ phần hoá, các doanh nghiệp có thể thu hút được vốn từ
bên trong (cán Bộ công nhân viên trong doanh nghiệp) và bên ngoài
doanh nghiệp. Đây là những nguồn lực rất lớn cần được triệt để khai
thác, sử dụng. Ngoài ra còn có các kênh huy động vốn khác: vay
ngân hàng, phát hành trái phiếu, liên doanh, liên kết
IV. PHƯƠNG HƯỚNG, BIỆN PHÁP XÂY DỰNG CÁC
TỔNG CÔNG TY THÀNH CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ LỚN
MẠNH.

Xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi của việc phát triển bền vững nền
kinh tế Việt Nam đối với các Tổng công ty trong thời kỳ mới, các
Tổng công ty cần tổ chức thực hiện đầy đủ Nghị quyết hội nghị
trung ương lần thứ 4 (khoá VIII) và nghị quyết của quốc hội khoá X
kỳ họp thứ 2 về đổi mới DNNN.
“ Tổng kết mô hình Tổng công ty Nhà nước, trên cơ sở đó có
phương án xây dựng các Tổng công ty thực sự trở thành những tập
đoàn kinh tế mạnh, có hiệu quả và sức cạnh tranh cao, thực sự là
xương sống của nền kinh tế.
Tập đoàn kinh tế mạnh của Việt Nam, theo các chuyên gia kinh
tế, phải do chính phủ quản lý và đạt được các tiêu chuẩn sau đây:
- Có quy mô sản xuất kinh doanh lớn, sản xuất kinh doanh một
ngành hàng, một nhóm ngành hàng hoặc nhiều ngành hàng có quan
hệ chặt chẽ với nhau, có vị trí quan trọng đối với sự phát triển của
nền kinh tế quốc dân nước ta. Đó là những ngành then chốt, mũi

18

nhọn, trọng điểm, là xương sống của nền kinh tế quốc dân trong
từng thời kỳ phát triển của đất nước.
- Có công nghệ, phương tiện và phương pháp kinh doanh, quản
lý hiện đại để đạt năng suất lao động cao, chất lượng hàng hoá tốt,
giá thành sản phẩm hàng hoá, dịch vụ rẻ, đứng vững và cạnh tranh
thắng lợi trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế. Đạt được
chữ tín với khách hàng, có thị trường tiêu thụ ổn định và rộng lớn
trong nước, trong khu vực và quốc tế. Có đội ngũ lao động, đặc biệt
là đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, có nhiều chuyên gia đầu
ngành trong các lĩnh vực công nghệ, sản xuất kinh doanh và quản
lý. Đội ngũ lao động này phải tương đối đồng Bộ về cơ cấu trình độ,
ngành nghề đủ sức giải quyết có chất lượng và hiệu quả toàn Bộ

hoạt động sản xuất kinh doanh của tập đoàn kinh doanh.
- Có đủ vốn sản xuất kinh doanh để thực hiện nhiệm vụ được
giao từ các nguồn vốn Nhà nước, vốn vay ngân hàng trong nước và
nước ngoài, vốn đầu tư nước ngoài, vốn tự có của tập đoàn kinh
doanh, vốn vay của cán Bộ công nhân viên trong tập đoàn kinh tế và
vốn huy động trong nhân dân Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
đạt được hệ số cao hơn các Tổng công ty, bảo toàn và phát triển
được vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh.
- Có giá trị sản lượng hàng hoá và hàng hoá XNK đạt tỉ trọng
cao và lớn hơn Tổng công ty cùng ngành nghề có quy mô lớn. Đạt
lợi nhuận, hiệu quả cao, nộp tích luỹ lớn cho Nhà nước và đủ khả
năng đảm bảo sự tồn tại và phát triển của tập đoàn kinh doanh. Chấp
hành nghiêm túc pháp luật, chính sách, chế độ của Nhà nước quy
định đối với tập đoàn kinh doanh.
Phát huy đầy đủ vai trò chủ đạo của một tổ chức kinh tế Nhà
nước trên những mặt chủ yếu: mở đường cho các thành phần kinh
tế khác phát triển và bình đẳng trong cạnh tranh, phát triển quan hệ
hợp tác, tạo điều kiện giúp đỡ các thành phần kinh tế khác phát

19

triển, có thực lực kinh tế mạnh và quyết định những cân đối chủ yếu
của nền kinh tế; tạo nền tảng xây dựng chế độ xã hội mới, chế độ
XHCN ở Việt Nam.
Muốn vậy, các Tổng công ty phải phấn đấu thực hiện tốt những
phương hướng và biện pháp cơ bản sau:
1. Xây dựng đúng đắn chiến lược kinh doanh và phát triển
của Tổng công ty và công ty thành viên.
Xây dựng chiến lược kinh doanh và phát triển Tổng công ty là
khâu đầu tiên rất cần thiết và cơ bản. Chiến lược kinh doanh và phát

triển công ty phải căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế, xã hội,
chiến lược phát triển kinh doanh, căn cứ vào nhu cầu của thị trường
về hàng hoá và dịch vụ; căn cứ vào khả năng hiện tại và tương lai
của Tổng công ty. Dựa vào các căn cứ đó, Tổng công ty quyết định
đúng đắn ba vấn đề cơ bản là: sản xuất kinh doanh mặt hàng, chất
lượng và quy mô theo yêu cầu của thị trường; Hai là lựa chọn các
đầu vào: nguyên vật liệu, công nghệ, phương pháp, phương tiện,
nguồn nhân lực, nguồn vốn phù hợp với quyết định sản xuất kinh
doanh; Ba là sản xuất kinh doanh dịch vụ cho ai, tiêu thụ hàng hoá
dịch vụ ở thị trường nào, thu nhập và lợi nhuận phải được phân phối
hợp lý giữa Nhà nước, Tổng công ty và các đơn vị thành viên, người
lao động trong đó phải ưu tiên đúng mức cho lao động quản lý, điều
hành, đầu ngành, lao động lành nghề. Chiến lược kinh doanh và
phát triển Tổng công ty phải đồng Bộ theo lĩnh vực chủ yếu: sản
xuất - kỹ thuật - tài chính - kinh doanh. Trong đó đặc biệt quan tâm
đến chiến lược sản phẩm, chiến lược đổi mới công nghệ, đầu tư,
xuất nhập khẩu. Căn cứ vào chiến lược kinh doanh và phát triển của
Tổng công ty, các công ty thành viên xây dựng đúng đắn chiến lược
kinh doanh và phát triển của mình. Chỉ khi có chiến lược kinh
doanh và phát triển đúng đắn, Tổng công ty và công ty thành viên
mới có căn cứ để chủ động tiến hành, chuẩn bị tốt nhất, thuận lợi

20

nhất những điều kiện trong sản xuất kinh doanh và phát triển có
hiệu quả.


2. Tổ chức lại cơ cấu sản xuất kinh doanh và cơ cấu quản lý
phù hợp với chiến lược kinh doanh và phát triển Tổng công ty

đã xác định:
Trên cơ sở tổng kết mô hình Tổng công ty đã được thành lập
trong những năm qua, Nhà nước cần tiến hành tổ chức lại mô hình
của Tổng công ty, chuyên ngành, nhóm ngành, đa ngành và theo
chức năng: kinh doanh, công ích vừa công ích vừa kinh doanh. Nhà
nước cần rà soát để xác định rõ hơn, cụ thể hơn vai trò, vị trí, nhiệm
vụ chủ yếu của từng loại mô hình Tổng công ty. Căn cứ vào chiến
lược kinh doanh và phát triển của từng công ty, cần tiến hành tổ
chức lại cơ cấu sản xuất kinh doanh và cơ cấu quản lý một cách hợp
lý theo hướng.
a. Tổ chức lại một cách hợp lý, đồng Bộ hơn quá trình sản xuất
- kinh doanh của Tổng công ty. Muốn vậy cần xác định đúng quy
mô sản xuất kinh doanh và phục vụ của từng Tổng công ty, quyết
định đúng số lượng và quy mô các công ty thành viên. Cần thiết để
thực hiện đồng Bộ, có hiệu quả các khâu của quá trình kinh doanh:
tìm kiếm nhu cầu thị trường và sản phẩm hàng hoá dịch vụ của
Tổng công ty; chuẩn bị đồng Bộ các yéu tố đầu vào của quá trình
kinh doanh; sản xuất hàng hoá và dịch vụ; tổ chức tiêu thụ hàng hoá
và dịch vụ để được thu tiền về; chuẩn bị cho quá trình kinh doanh
tiếp tục của Tổng công ty.
Khi xác định lại cơ cấu sản xuất kinh doanh cần quyết định rõ
ràng những công ty thành viên sẽ được cổ phần hoá, liên doanh với
các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước. Tổng công ty nắm giữ

×