Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Vai trò con người thúc đấy kinh tế Việt Nam trong hội nhập - 3 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.89 KB, 6 trang )


Xét đến cùng nếu thiếu sự hiện diện của trí tuệ và lao động của con người thì mọi
nguồn lực đều trở nên vô nghĩa thậm chí khái niệm “nguồn lực” cũng không còn lý do
gì để tồn tại
Thứ hai, các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, trong khi đó
nguồn lực con người lại là vô tận. Nó không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học
mà còn tự đổi mới không ngừng, phát triển về chất trong con người x• hội, nếu biết
chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực nhận thức và
hoạt động thực tiễn của con người phát triển như một quá trình vô tận xét trên bình
diện cộng đồng nhân loại. Nhờ vậy con người đ• từng bước làm chủ tự nhiên, sáng tạo,
khám phá ra nhiều nguồn tài nguyên mới, nhiều công cụ sản xuất có hiệu quả hơn, đưa
x• hội chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao.
Thứ ba, trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hoá,
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo vĩ đại này của C.MáC đ• và đang trở
thành hiện thực. Sự phát triển như vũ b•o của cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật và
công nghệ hiện đại đang dẫn nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động
đến nền kinh tế của trí tuệ. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đ• đạt đến mức mà nhờ nó con
người có thể sáng tạo ra những người máy “bắt chước” hay “phỏng theo” những đặc
tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng là bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do
chính bàn tay khối óc con người làm ra mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến những
biến đổi thần kỳ trong lịch sử phát triển của mình.
Thứ tư, kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chĩnh nước ta cho thấy sự
thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định
đường lối, chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ thuộc vào năng lực
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Đối với những nền kinh tế nông

nghiệp chưa công nghiệp hoá thì mặt số lượng của nguồn nhân lực có tầm quan trọng
đặc biệt vì nó qui định quy mô của thị trường. Nhưng khi tiến hành công nghiệp hoá thì
mặt chất lượng, cơ cấu và cơ chế sử dụng nguồn nhân lực lại quan trọng hơn. Cơ cấu
lao động cần cho quá trình công nghiệp hoá phải bao gồm: các chính khách, các nhà
hoạch định chính sách, các học giả, các nhà kinh doanh, các nhà kỹ thuật và công nghệ,


các công nhân lành nghề không có các chính khách, các học giả tài ba thì khó có thể
có được những chiến lược, chính sách phát triển đúng đắn; không có các nhà kinh
doanh lỗi lạc thì cũng sẽ không có người sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn vốn,
nhân lực, công nghệ. Sự thiếu vắng hay kém cỏi của một trong các bộ phận cấu thành
nhân lực trên đây sẽ có hại cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Qua toàn bộ phân tích trên có thể kế luận rằng nguồn lực con người là nguồn lực có
vai trò quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Do vậy, muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công thì phải đổi mới cơ bản các
chính sách đầu tư cho các ngành khoa học, văn hoá, giáo dục, y tế ở Việt Nam nhằm
phát triển nguồn lực con người cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây là nhiệm vụ lớn
nhất và khó khăn nhất trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Có rất nhiều nước trên thế giới đ• thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước với nguồn lực chủ đạo là con người. Vậy trong công cuộc đổi
mới ở Việt Nam hôm nay, Với những thế mạnh và những hạn chế của mình con người
Việt Nam có thực hiện được vai trò của mình hay không?
Trước hết ta tìm hiểu xem nguồn nhân lực của Việt Nam có những đặc điểm gì để
phát huy và những hạn chế gì cần phải khắc phục.
Những thế mạnh phải nói đến đó là:

Thứ nhất, theo kết quả điều tra của Bộ LĐ TBXH công bố ngày 25 tháng 10 cả
nước hiện có 39.489 nghìn người từ 15 tuổi trở lên đang có việc làm ổn định, khu vực
thành thị 9.182 nghìn người, khu vực nông thôn có 30.307 nghìn người. Như vậy tỉ lệ
lao động có việc làm: 97,24% tỉ lệ thất nghiệp 2,76%
Thứ hai, Việt Nam có tỷ trọng tương đối cao về lao động trẻ, phần lớn có học vấn
phổ thông, ngay cả ở nông thôn. Đây là một tiền đề quan trọng tạo điều kiện tiếp thu
các kiến thức kỹ năng nghề nghiệp, kể cả những ngành nghề mới. Lực lượng lao động
có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ được đào tạo tương đối lớn (so với các nước có thu
nhập như nước ta). Tính đến năm 2001 lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật lên
tới 22,2% có khoảng gần 1 triệu người tốt nghiệp Đại học, Cao đẳng đó còn chưa kể tới
120.000 người có bằng thạc sỹ và tiến sỹ.

Thứ ba, chúng ta có một lượng tương đối lớn người Việt sống ở nước ngoài, tập
trung chủ yếu ở châu Âu, châu Mỹ và Ôxtraylia; trong đó tỉ lệ người có trình độ cao về
chuyên môn và nghiệp vụ là đáng kể ( trên 300000 người). Đây là một nguồn lực quan
trọng góp phần phát triển đất nước, là cầu nối giữa Việt Nam và thế giới về mặt chuyển
giao tri thức, công nghệ và các quan hệ quốc tế.
Thứ tư, đó là bản tính hiếu học, thông minh cần cù lao động của con người Việt
Nam. Truyền thống đó cần được nuôi dưỡng và phát huy làm cơ sở cho việc nắm bắt,
tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng, sáng tạo những phát minh, sáng kiến khoa
học của nhân loại phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế-x• hội của đất nước. Tính
cộng đồng, ý thức trách nhiệm với cộng đồng được phát huy mạnh mẽ sẽ có thể hỗ trợ
đắc lực không chỉ cho việc truyền bá tay nghề, kinh nghiệm nghề nghiệp mà còn có thể
giúp nhau cả về vốn liếng, tạo dựng và phát triển cơ nghiệp, hỗ trợ nhau tìm kiếm công
ăn việc làm, góp phần làm giảm sức ép về lao động hiện nay. Dân tộc Việt Nam còn có

truyền thống biết chịu đựng gian khổ để tiết kiệm, tích luỹ cho đầu tư mở rộng, tạo
dựng cơ đồ cho mình và cho nền kinh tế nước nhà nói chung.
Nhưng bên cạnh đó, nguồn nhân lực ở Việt Nam có những hạn chế,những điểm
yếu kém sau đây:
Thứ nhất, số người lao động được đào tạo quá ít chỉ chiếm 20% tổng số lao động.
77,71% lao động sản xuất nông nghiệp đồng nghĩa với con số trên là tỷ lệ qua đào tạo
hết sức hạn chế . Ước tính hiện nay nước ta số lao động chưa qua đào tạo chiếm
51,74% (học vấn từ tiểu học trở xuống). Vì vậy trong nông nghiệp một lao động của ta
chỉ nuôi được 3 đến 5 người, trong khi chỉ số này ở các nước phát triển là 20 đến 30
người. Đây là trở ngại lớn nhất khi tiến hành công nghiệp hoá trong nông nghiệp trong
kinh tế nông thôn nói riêng và trong cả nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ khoa học trẻ quá ít. Qua điều tra ở 17 trường đại học thì số
cán bộ giảng dạy dưới 35 tuổi chỉ có 8%. Phần lớn những tri thức có trình độ trên đại
học đang là những chuyên gia đầu ngành đ• ở độ tuổi 55 đến 60. Hơn 60% phó tiến sĩ
và tiến sĩ, hơn 70% giáo sư và hơn 90% giáo sư đều ở độ tuổi này.Trong khi đó sinh
viên giỏi sau khi tốt nghiệp đều không muốn ở lại trường. Vì vậy việc chuẩn bị cho đội

ngũ trí thức kế cận sẽ gặp không ít khó khăn.
Thứ ba, việc bố trí sử dụng cán bộ còn nhiều việc bất hợp lý giữa các vùng, các
ngành: 80% cán bộ khoa học công nghệ làm việc tại Hà Nội, ở thành phố Hồ Chí Minh
chỉ có 12%. Đa số các cán bộ khoa học của ta làm việc trong các viện nghiên cứu, các
trường học, còn trong các ngành sản xuất vật chất thì rất ít Chẳng hạn, trong các ngành
nông lâm ngư nghiệp chỉ có 8,1% cán bộ có trình độ đại học và 6,49% cán bộ có trình
độ sau đại học. Trong khi có tới 34% cán bộ có trình độ đại học và 55,47% trình độ sau
đại học làm việc trong các ngành khoa học tự nhiên và khoa học x• hội. Nhìn vào một

số nước trong khu vực, cán bộ khoa học làm việc trong các ngành sản xuất chiếm tỉ lệ
rất cao như Thái Lan: 58%, HànQuốc: 48%, Nhật Bản: 64%. Chính việc phân bố lực
lượng lao động không hợp lý này gây nên hiện tượng thừa thiếu giả tạo, gây ra nạn
thất nghiệp đặc biệt trong lao động tri thức. Qua điều tra, trên cả nước số sinh viên ra
trường có việc làm chiếm 70%. Trong khi đó nhiều vùng, nhiều miền nhất là miền núi
vùng sâu vùng xa lại thiếu cán bộ khoa học kỹ thuật. Nguyên nhân chủ yếu là một mặt
do sinh viên ra trường muốn ở lại công tác tại các thành phố, khu công nghiệp, nơi kinh
tế phát triển để có thu nhập cao hơn và điều kiện việc làm tốt hơn, mặt khác chúng ta
chưa có chính sách thu hút để điều chỉnh sự phân bố này.
Thứ tư, thể chất, sức khoẻ của thanh niên Việt Nam còn rất nhiều hạn chế. Sự phát
triển về phương diện sinh lý và thể lực dường như chững lại.
Thứ năm, người lao động nước ta nói chung chưa có nếp lao động công nghiệp,
quen theo kiểu sản xuất nhỏ, lao động giản đơn còn gò bó trong nếp sống phương
đông, cha truyền con nối. Chính vì thế mà cho tới tận thế kỷ 20 công cụ làm việc ở các
bễ lò rèn Bắc Ninh vẫn không khác bao nhiêu với công cụ đ• rèn cày cuốc và vũ khí
đánh giặc Ân thời Thánh Gióng, các cô gái Hà Đông vẫn dệt lụa trên các khung cửi mà
cách đây 900 năm các cô gái triều Lý đ• sử dụng.
Trên đây là những điểm trong nguồn lực con người ở Việt Nam với những thế
mạnh cũng như các mặt hạn chế. Phải có những nố lực phi thường bằng hành động
thực tiễn trong việc huy động và sử dụng nguồn lực này thì công nghiệp hoá hiện đại
hoá mới có thể thành công. Đó cũng là lý do vì sao nhiều nhà khoa học kêu gọi phải

tiến hành một cuộc “cách mạng con người” mà thực chất là cách mạng về chất lượng
nguồn lao động. “Cách mạng con người” với công nghiệp hoá hiện đại hoá là hai mặt
của một quá trình thống nhất, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Bởi

vậy, mỗi bước tiến lên của cuộc “cách mạng con người” sẽ đem lại những thành tựu to
lớn cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá và ngược lại.
Thực chất căn bản của chủ nghĩa Mác về con người là sự phát triển tự do của mỗi
con người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người. X• hội loài người chỉ
được phát triển khi phát triển tối đa từng cá nhân. Vấn đề phát triển cá nhân không còn
là vấn đề lý thuyết mà là nhu cầu thiết yếu trong thực tiễn x• hội ta ngay từ hôm nay.
Cụ thể để công nghiệp hoá hiện đại hoá cần phải tiến hành một cuộc “cách mạng con
người” nhằm tạo ra một số lượng lớn các nhà khoa học một đội ngũ đông đảo các nhân
viên kỹ thuật có trình độ tri thức tương đối cao và những người lao động lành nghề.
Điều đó đòi hỏi sự nghiệp giáo dục bồi dưỡng nhân tài phải phát triển tương ứng.
Thử nhìn vào lịch sử kinh tế của một số nước tư bản phát triển, ta thấy nói chung
những nước này đều rất coi trọng công tác giáo dục. Chẳng hạn thời kỳ đầu sau chiến
tranh, kinh tế Nhật bản bị phá hoại nặng nề, tài chính quốc gia vô cùng nguy ngập
nhưng chính phủ Nhật bản không hề giảm chi phí giáo dục, tỷ trọng kinh phí giáo dục
luôn chiếm 20% trở lên trong kinh phí hành chính của Nhật còn ở Mỹ năm 1985 chi
tiêu nhà nước cho giáo dục chiếm 4,2% GDP và chiếm 12,8% chi0 tiêu của nhà nước.
Thực tế đ• chứng minh, ở Mỹ nếu đầu tư cho giáo dục 1$ thì sẽ l•i 4$, còn ở Nhật thì
1$ sẽ l•i 10$.
Thực ra không chỉ có các nước tư bản phát triển nhìn thấy vai trò của giáo dục
trong phát triển kinh tế mà một số nước Đông nam á cũng đ• nhận thức được vấn đề
này. Và kết quả là sự ra đời của những nước công nghiệp mới ở châu á. Suốt 40 năm
qua, các nước này đ• đầu tư cho giáo dục ngày một tăng. Tỷ lệ chi tiêu cho giáo dục
trong ngân sách nhà nước ở cộng hòa Triều Tiên năm 1972 là 13,9%, năm 1981 tăng
17,9%, năm 1983 tăng lên 21,6%. Trong 30 năm từ 1952 đến 1981 ở Đài Loan tổng giá

×