Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Luận văn : KHẢO NGHIỆM ĐẶC TÍNH NÔNG HỌC, NĂNG SUẤT, PHẨM CHẤT CỦA 15 GIỐNG LÚA QUỐC GIA A2 TẠI TRẠI GIỐNG BÌNH ĐỨC - AN GIANG VỤ ĐÔNG XUÂN 2004 -2005 part 2 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.07 KB, 10 trang )

do diện tích lúa không thể mở rộng thêm, sản lượng gạo xuất khẩu chỉ có thể
xoay quanh con số 3,8 - 4 triệu tấn mỗi năm, đọc từ website.http://www.
sonongnghiep.angiang.gov.vn.”. Chất lượng thóc gạo chưa đạt yêu cầu là do
nhiều nguyên nhân, trong đó chất lượng lúa giống và giống lúa là 1 trong
những yếu tố rất quan trọng góp phần tăng năng suất, chất lượng, sản lượng
nhằm giúp cho nông dân tăng thêm thu nhập. Vì vậy, việc tìm ra những giống
mới năng suất cao, phẩm chất tốt đáp ứng cho nhu cầu sản xuất theo hướng
xuất khẩu là điều rất cần thiết. Đề tài “Khảo nghiệm đặc tính nông học,
năng suất, phẩm chất của 15 giống lúa quốc gia A2 tai trại giống Bình
Đức - An Giang vụ Đông Xuân 2004 -2005” nhằm tìm ra những giống
có khả năng đáp ứng được các yêu cầu trên trong giai đoạn hiện nay và
những năm tiếp theo.
1
Chương 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1. Sơ lược nguồn gốc, phân loại và sinh trưởng cây lúa
2.1.1. Nguồn gốc
Từ xa xưa cây lúa đã hiện diện trong cuộc sống của con người. Gắn
liền với lịch sử phát triển của nhân loại cây lúa cũng trải qua một lịch sử tiến
hóa phức tạp và lâu dài với nhiều thay đổi rất lớn về đặc điểm hình thái, nông
học, sinh lý và sinh thái. Hiểu biết về nguồn gốc cây lúa trồng giúp ta hình
dung được quá trình tiến hóa và hiểu được điều kiện môi trường cùng những
yêu cầu sinh thái tự nhiên mà cây lúa cần cho nhu cầu sinh trưởng và phát
triển đặc biệt của nó.
Về nguồn gốc thì có nhiều tác giả đề cập đến nhưng cho tới nay vẫn
chưa có dữ liệu nào chắc chắn và thống nhất, có nhiều ý kiến chưa thống
nhất, nhưng căn cứ vào các tài liệu lịch sử, di tích khảo cổ, đặc điểm sinh thái
học của cây lúa trồng và sự hiện diện rộng rải của các loài lúa hoang dại trong
khu vực, nhiều người đồng ý rằng nguồn gốc cây lúa là ở vùng đầm lầy Đông
Nam Á, rồi từ đó lan dần đi các nơi.
Theo Chowdhury và Ghosh được Nguyễn Ngọc Đệ (1994) trích dẫn
thì những hạt thóc hóa thạch cổ nhất của thế giới đã được tìm thấy ở


Hasthinapur (Bang Uttar Pradesh - Ấn Độ) vào khoảng năm 1000 – 750 trước
công nguyên, tức cách nay hơn 2500 năm.
Sampath và Kao được trích dẫn bởi Nguyễn Ngọc Đệ (1994) thì cho
rằng sự hiện diện của nhiều loại lúa hoang ở Ấn Độ và Đông Nam Á chứng tỏ
rằng Ấn Độ, Miến Điện hay Đông Dương là nơi xuất xứ của lúa trồng.
2.1.2. Phân nhóm lúa
Tên khoa học của hai loại lúa trồng hiện nay là Oryza sativa L. tiêu
biểu cho nhóm lúa trồng ở châu Á có tổ tiên trực tiếp là Oryza nivara, một
loại lúa hoang hằng niên và Oryza glaberrima Steud. cũng tiến hóa từ một lúa
hoang hằng niên khác. Hiện nay, có nhiều cách phân nhóm lúa trồng: Phân
nhóm theo vùng địa lý, theo đáp ứng với quang kỳ, phân nhóm theo thời gian
sinh trưởng…
1
Bảng 1: Phân nhóm giống lúa theo thời gian sinh trưởng (ngày)
Nhóm giống
Các tỉnh phía nam
Tên gọi Thời gian sinh trưởng
Cực ngắn ngày Ao < 90
Ngắn ngày A1 90 – 105
Trung ngày A2 106 – 120
Dài ngày B > 120
(Nguồn: Quy phạm khảo nghiệm giống lúa, 2004)
2.1.3. Sinh trưởng
Trong quá trình canh tác, nếu hiểu rõ cấu tạo và đặc tính sinh trưởng
của các bộ phận cây lúa chúng ta mới có thể có những biện pháp kỹ thuật
thích hợp, điều khiển sự sinh trưởng của cây lúa trong từng giai đoạn để đạt
năng suất cao nhất. Nhìn chung, đời sống của cây lúa bắt đầu từ lúc nẩy mầm
cho đến khi lúa chín. Có thể chia làm 3 giai đoạn: giai đoạn tăng trưởng, giai
đoạn sinh sản và giai đoạn lúa chín.
+ Giai đoạn tăng trưởng: bắt đầu từ khi hạt nẩy mầm đến khi cây lúa

phân hoá đòng. Giai đoạn này cây phát triển về thân lá, biểu hiện bởi sự đâm
chồi tích cực, tăng dần chiều cao cây.
+ Giai đoạn sinh sản: bắt đầu từ lúc làm đòng đến khi trổ hoa. Thời
gian của gia đoạn này kéo dài khoảng 27 - 35 ngày, trung bình 30 ngày và
giống lúa dài ngày hay ngắn ngày thường không khác nhau nhiều. Giai đoạn
này biểu hiện bởi sự vươn dài của các lóng trên cùng làm cho chiều cao cây
lúa tăng lên rỏ rệt, giảm số chồi và xuất hiện lá cờ, làm đòng và trổ bông.
+ Giai đoạn lúa chín: bắt đầu từ lúc trổ hoa đến khi thu hoạch. Giai
đoạn này trung bình khoảng 30 ngày đối với hầu hết các giống lúa ở vùng
nhiệt đới. Giai đoạn này cây lúa có thể trải qua các thời kỳ sau: chín sửa, chín
sáp, chín vàng và chín hoàn toàn.
2.2. Vai trò của giống trong sản xuất nông nghiệp
Trong điều kiện đất nước ta còn nghèo việc áp dụng những thành tựu
khoa học vào sản xuất nông nghiệp là rất quan trọng, sản xuất lai tạo giống
tốt là biện pháp ít tốn kém mang lại hiệu quả cao nhất so với các biện pháp kỹ
thuật khác. Tạo những giống ngắn ngày năng suất cao phẩm chất tốt là vấn đề
cấp bách của đất nước hiện nay. Đinh Văn Lữ (1978) cho rằng công tác lai
1
tạo lúa ngắn ngày năng suất cao kháng sâu bệnh đã nâng cao năng suất đáng
kể trên một số diện tích trồng lúa ở nước ta.
Sự đóng góp của giống mới đã làm cho sản xuất nông nghiệp phát
triển. Theo kết quả thí nghiệm của I. Shizuka (1969) được trích dẫn bởi Lê
Minh Tuệ (1988) cho thấy rằng: các giống lúa mới sản lượng đã tăng 50 – 60
% so với các giống cổ truyền.
Chandra Mohan (1984) được Lê Minh Tuệ (1988) trích dẫn thì cho
rằng giống là yếu tố then chốt cho năng suất cao nhưng năng suất cao chỉ đạt
khi nào giống có tiềm năng năng suất cao. Giống là sản phẩm của sức lao
động của con người là tư liệu sản xuất và là một trong những yếu tố quyết
định trong việc tăng năng suất, không có giống chúng ta sẽ không sản xuất ra
được nông phẩm. Cuộc cách mạng xanh trong vùng nhiệt đới đã được đánh

dấu bằng những giống lúa năng suất cao. Trong những năm đầu của thập niên
1960 chỉ có ít chuyên gia chú ý tới việc chọn giống, nhưng sự ra đời của các
giống lúa cải tiến đã thay đổi tình thế đó. Ngày nay khắp vùng nhiệt đới ngày
càng có nhiều nhà chọn giống trẻ tuổi tham gia vào công việc làm ra giống
lúa mới.
Trong sản xuất nông nghiệp các điều kiện tự nhiên cũng làm ảnh
hưởng đến năng suất và phẩm chất của cây trồng nhất là tình hình sâu bệnh,
vì vậy vấn đề tạo ra giống mới thích nghi với điều kiện tự nhiên ở địa
phương, kháng được một số sâu bệnh phổ biến và có phẩm chất tốt thì rất cần
thiết để đảm bảo năng suất đáp ứng nhu cầu lương thực của nhân dân trong
nước và trên thế giới. Giống là sản phẩm sức lao động sáng tạo của con người
và là một trong những phương tiện tư liệu sản xuất của nông nghiệp rất quan
trọng. Ngay từ ngàn xưa, qua thực tiễn sản xuất nông nghiệp nông dân Việt
Nam cũng đã đánh giá cao về vai trò của giống. Điều đó đã được cô đọng
bằng những câu ca dao, tục ngữ như: “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ
giống”, hoặc “cố công không bằng tốt giống” v.v…
Ngày nay, với phong trào thâm canh tăng năng suất lúa, bằng biện
pháp áp dụng giống mới đưa vào trong sản xuất đã là gia tăng sản lượng,
nâng cao chất lượng nông sản, tăng sức chống chịu với sâu bệnh, giúp ta tăng
1
được nhiều vụ lúa trong năm, giống mới chống chịu được những điều kiện
bất lợi của môi trường như: chịu phèn, chịu mặn, chịu hạn, ngập úng v.v…
tạo ra khả năng cơ giới hoá trong gieo trồng và thu hoạch. Theo Gulinep-
Gujop (1965) được Nguyễn Đức Mẫn (1991) trích dẫn thì “Năng suất ngũ cốc
trên thế giới có tăng hơn 40% là do việc chọn lọc, lai tạo và cải thiện giống”.
Vì vậy, giống là phương tiện để tăng năng suất, chúng ta muốn tăng năng suất
không có con đường nào khác bằng con đường làm cách mạng giống tích
cực. Đây là một biện pháp dễ thực hiện, rẻ tiền nhưng mang lại hiệu quả kinh
tế cao trong sản suất nông nghiệp. Ngoài ra, giống ngắn ngày phải có khả
năng quang hợp cao và sử dụng tốt điều kiện ngoại cảnh đặc biệt là sử dụng

nguồn phân khoáng cao.
2.3.Công tác nghiên cứu lúa trên thế giới và Đồng Bằng Sông Cửu Long
2.3.1. Công tác nghiên cứu lúa trên thế giới
Các điều kiện sinh thái vùng nam và đông nam Châu Á đã sản sinh ra
những giống lúa thuộc loại hình INDICA thường có tiềm năng năng suất
thấp, phản ứng không tốt với đạm, đẻ nhánh mạnh, vươn cao nhanh, đổ sớm.
Còn giống lúa thuộc loại hình JAPONICA có lá ngắn, hẹp, thẳng và xanh,
dày thân ngắn và cứng, phản ứng với lượng đạm tăng lên và làm tăng năng
suất.
Năm 1962 các nhà chọn giống ở IRRI đã lai tạo giống DEO – GEO –
WOO – GEN và giống PETA. Giống PETA có đặc tính cho cây đẻ nhánh
nhiều, có nguồn gốc Indonesia và được trồng phổ biến ở Philippin. Đến năm
1966, giống IR8 đã chọn từ cặp lai này và đã được đưa ra trồng trong sản
xuất. Giống IR8, có lá thẳng, đẻ nhánh cao, không mẫn cảm với quang kỳ,
thân cao khoảng 100cm và cứng cây. Giống IR8 phản ứng với đạm cao và
cho năng suất khoảng 6 tấn/ha trong mùa mưa và 9 tấn/ha trong mùa khô.
Giống IR8 được coi là giống lúa INDICA có năng suất cao đầu tiên thích
nghi với khí hậu nhiệt đới.
Do yêu cầu về giống lúa thâm canh, đòi hỏi khá cao về chế độ dinh
dưỡng, khó thích nghi với hoàn cảnh sản xuất quảng canh, kèm theo đó cơ sở
vật chất nghèo nàn, thủy lợi không chủ động, phân bón thiếu thốn, phòng trừ
sâu bệnh không hiệu quả cho nên năng suất các giông lúa mới giảm dần. Từ
1
năm 1970 – 1973 do bênh đạo ôn, bệnh Tungro cùng với phẩm chất xấu của
gạo đã buột phải loại dần IR8. Cũng từ năm 1970 – 1973 do dịch rầy nâu phát
triển mạnh, các nhà chọn giống đã lai tạo, chọn ra những giống kháng lại rầy
nâu như giống IR26, IR34, IR36, v.v…
Do tình hình trên từ năm 1970 đến nay các nhà lai tạo giống ở IRRI
ngoài mục tiêu chọn giống cho năng suất cao, ngắn ngày chống đổ ngã cũng
chú trọng đến các mục tiêu khác như khả năng thích nghi rộng rãi với điều

kiện bất lợi của môi trường và có khả năng kháng một số loại sâu bệnh.
2.3.2. Công tác nghiên cứu lúa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long
Trồng lúa là một nghiề cổ truyền của hơn 80% dân số Việt Nam. Qua
nhiều năm trồng lúa, nông dân ĐBSCL đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm
trồng lúa và chọn nhiều giống lúa rất phong phú. Bà con nông dân đã chọn
giống lúa thích hợp với điều kiện sinh thái nơi mình trồng lúa như vùng phèn
có giống Cà Dung, vùng ngập sâu có Nàng Tây, Trường Hưng, v.v…. Năm
1986 du nhập các giống lúa mới ngắn ngày, năng suất cao, không quang cảm
như IR5, IR8, IR30, v.v…. từ đó đến nay công tác nghiên cứu giống lúa ở
ĐBSCL đã phát triển mạnh mẻ ở các trung tâm nghiên cứu, các viện, các
trường và ngay cả các nông dân tiên tiến.
* Sơ lược một số giống lúa đã được trồng và phổ biến hiện nay.
+ OMCS 2000
Thời gian sinh trưởng 90 – 95 ngày, chiều cao từ 90 – 100cm.
Rầy nâu hơi nhiễm, đạo ôn nhiễm.
Năng suất: vụ Đông Xuân 6 – 8 tấn/ha, vụ Hè Thu 4 – 5 tấn/ha.
Đặc tính: bông to, chịu phèn nhẹ, ít đổ ngã.
Phẩm chất gạo: gạo trong, ít bạc bụng.
+ OM2517
Thời gian sinh trưởng 85 – 90 ngày, chiều cao biến động từ 90 –
95cm.
Rầy nâu nhiễm trung bình, đạo ôn hơi nhiễm.
Năng suất: vụ Đông Xuân 6 – 8 tấn/ha, vụ Hè Thu 4 – 6 tấn/ha.
Đặc tính: thấp cây, nẩy chồi khá, nhiễm bệnh lúa von, ít đổ ngã.
1
Phẩm chất gạo: gạo dài, trong, ít bạc bụng.
+ JASMINE
Thời gian sinh trưởng biến động từ 95 – 105 ngày, chiều cao đạt từ
95 – 100cm.
Rầy nâu và đạo ôn: nhiễm.

Năng suất: vụ Đông Xuân 6 – 8 tấn/ha, vụ Hè Thu 4 – 5 tấn/ha.
Đặc tính: lá cờ đứng, nở bụi tốt, nhiễm bênh cháy lá, lúa von, thích
hợp vụ Đông Xuân, ít đổ ngã.
Phẩm chất gạo: gạo trong, htơm, dẻo.
+ OM2514
Thời gian sinh trưởng từ 90 – 95 ngày, chiều cao đạt được từ 95 –
100cm.
Rầy nâu nhiểm trung bình, đạo ôn hơi nhiễm.
Năng suất: vụ Đông Xuân 6 – 8 tấn/ha, vụ Hè Thu 4 – 6 tấn/ha.
Đặc tính: bông to đùm, lá cờ đứng, dạng hình đẹp, đổ ngã ít.
Phẩm chất gạo: gạo dài, trong.
Ngoài ra, còn một số giống có năng suất cao, phẩm chất gạo tốt đang
được trại giống Bình Đức – An Giang giới thiệu và bán cho nông dân sản
xuất như: VND95-20, VĐ20 (thơm nút), OM4088, L274, IR64, v.v…
2.4. Yêu cầu cơ bản của giống lúa tốt
Ngày nay, nền nông nghiệp ngày càng phát triển mạnh mẽ, việc áp
dụng những thành tựu khoa học tiên tiến vào trong sản xuất nông nghiệp là
một vấn đề quan trọng và cần phải xúc tiến. Do đó cùng với việc lai tạo, chọn
lựa những giống mới, tốt để đưa vào sản xuất đại trà, đòi hỏi các nhà khoa
học nghiên cứu về giống phải chú ý tiếp tục bình chọn, xác định giống lúa tốt
thích hợp cho từng vùng sinh thái, từng địa phương. Muốn đánh giá một
giống lúa tốt hoặc xấu dựa vào những tiêu chuẩn cơ bản nhất định:
* Giống tốt phải có năng suất cao và ổn định
Năng suất bao giờ cũng là kết quả tổng hợp của quá trình sinh trưởng
và phát triển cây trồng. Năng suất của một giống cao hoặc thấp sẽ quyết định
giống đó xấu hoặc tốt. Đối với lúa năng suất trên một đơn vị diện tích quyết
1
định bởi số cây và năng suất từng cây. Số cây trên một đơn vị diện tích ta có
thể điều khiển bằng cách cấy dày hoặc thưa, còn năng suất từng cây do đặc
điểm giống qui định.

Ngoài ra tính ổn định về năng suất là một tiêu chuẩn quan trọng đối
với giống trong sản xuất. Nó đảm bảo cho sản lượng nông sản thu hoạch hàng
năm không bị biến động lớn, nhất là không bị giảm sút nhiều khi điều kiện
ngoại cảnh thay đổi không thuận lợi.
* Giống phải thích hợp với những điều kiện canh tác cao như
Chống chịu được điều kiện bất lợi của môi trường, kháng được một
số sâu bệnh quan trọng, chống đổ ngã, phản ứng tốt với phân bón, nước tưới,
v.v…
* Do nhu cầu về tiêu thụ sản xuất và xuất khẩu đòi hỏi giống tốt
Phải có phẩm chất tốt như sau: gạo trắng trong, tỉ lệ hạt nguyên cao,
thơm ngon, v.v…
Muốn xác định giống tốt còn phải dựa vào đặc điểm của thời vụ, kỹ
thuật canh tác và mức đầu tư của từng địa phương để có kế hoạch tuyển chọn,
bồi dưỡng, sản xuất giống nhiều để phục vụ cho sản xuất trên một diện tích
rộng lớn hơn. Việc đánh giá giống tốt cần phải kết hợp với những đặc tính
cứng cây, không bị ngã, ít rụng hạt … để dễ dàng trong khâu thu hoạch bằng
cơ giới.
2.5. Kiểu hình cây lúa năng suất cao
Cây lúa của thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật ngày nay là một
thành quả lao động của nhiều nhà khoa học thuộc nhiều ngành chuyên môn
và nhiều nông dân tiến bộ đã chọn lựa. Để cây lúa sống và tăng trưởng cho
năng suất theo ý muốn của con người, các nhà khoa học, các cơ quan nghiên
cứu đã căn cứ vào đặc tính hình thể, kiểu cây lúa, đặc tính chống chịu sâu
bệnh và khả năng thích nghi với điều kiện canh tác để tìm ra một giống lúa
mới có kiểu hình thích hợp cho năng suất cao trên đồng ruộng.
Quan điểm của một số tác giả về kiểu hình cây lúa lý tưởng cho năng
suất cao trong điều kiện nhiệt đới là:
1
Theo Matsushima (1976) do Nguyễn Đức Mẫn (1991) trích dẫn mô
tả cây lúa năng suất cao có 6 đặc điểm nổi bật sau:

* Có tổng hạt cần thiết và vừa đủ trên đơn vị diện tích. Muốn có năng
suất 9 tấn/ha, cây lúa phải có tổng số hạt chắc cao và ít hạt lép. Với 1 giống
có trọng lượng 1.000 hạt là 23 gram, tổng số hạt cần là 40.000 hạt/m
2
. Số hạt
lép không vượt quá 10 – 20%. Nói cách khác, trong điều kiện lúa cấy, cây lúa
phải đẻ nhánh nhiều .
* Thân thấp có nhiều bông nhưng bông ngắn.
Cây lúa lý tưởng phải thấp giàn (tức là 3 lóng dưới ngắn lại) để tránh
đổ ngã. Các kết quả nghiên cứu cho biết: nếu tăng số hạt/m
2
bằng nhau, thì
những cây có số hạt trên bông ít hơn thường là có tỉ lệ hạt chắc cao hơn. Do
đó, ruộng lúa cao sản cần có nhiều bông mà yếu tố hạt trên bông càng ít thì tỉ
lệ hạt chắc càng cao
* Hai hoặc 3 lá trên cùng phải ngắn, dày và thẳng đứng. Những cây
lúa có cùng diện tích lá nhưng cây nào có nhiều lá ngắn hơn sẽ có khả năng
đồng hoá Cacbon cao hơn. Lá lúa có thể quang hợp được cả hai mặt và lá
càng dày càng có khả năng đồng hoá cacbon cao hơn. Góc lá thẳng, nhất là 3
lá trên cùng có thể tận dụng được ánh sáng khuyếch tán, sự đồng hoá Cacbon
cao hơn. Mặc khác, chiều dài của 3 lá trên cùng, nhất là lá cờ có tương quan
nghịch với tỉ lệ hạt chắc. Ruộng lúa xum xuê quá, tổng chiều dài 2 hoặc 3 lá
trên cùng lớn thì tỉ lệ hạt chắc càng giảm.
* Giữ màu xanh sau khi trổ. Đối với lúa khoảng 2/3 lượng tinh bột
tạo thành năng suất sau này là do sự đồng hóa Cacbon cao sau khi trổ. Tuy
nhiên, đối với các giống lúa cao sản, tác giả nhận thấy khoảng 90% năng suất
lúa do sự quang hợp của cây lúa sau thời kỳ trổ gié. Như vậy, chúng ta cần
tạo cho cây lúa khỏe, tăng hoạt động của rễ, tăng lượng đạm trong phiến lá,
giữ cho lá luôn xanh không bị phai màu sau khi trổ bông đến lúc lúa bắt đầu
chín vàng.

* Giữ càng nhiều lá xanh trên bông càng tốt. Trong giai đoạn từ khi
trổ bông đến lúc lúa chín, lá xanh tươi biểu hiện tình trạng khỏe mạnh của bộ
rễ cũng như của toàn cây lúa.
1
* Trổ vào lúc có thời tiết tốt suốt 40 ngày từ 15 ngày trước khi trổ
đến 25 ngày sau khi trổ gié. Vì 90% năng suất tạo thành do quang hợp sau khi
trổ nên lượng bức xạ mặt trời có ảnh hưởng rất lớn trong giai đoạn này. Nếu
lượng ánh sáng không đủ vào giai đoạn giãm nhiễm thì số lượng hạt cũng
như trọng lượng hạt giảm dẫn đến năng suất thấp. Do đó, chúng ta phải xác
định thời vụ thích hợp để lúa trổ vào lúc có nắng tốt, không mưa.
Theo Võ Tòng Xuân (1986). Ngoài những đặc tính ngắn ngày, không
quang cảm, có bộ lá thẳng (nhất là lá cờ) để ánh sáng dọi vào 2 mặt lá, lá có
màu xanh đậm v.v Cây lúa năng suất cao phải:
Có ít nhất 3 lá còn xanh khi trổ và giữ màu xanh cho tới khi hạt chín
đều.
Chiều cao trung bình 80 –110 cm, lóng ngắn, cứng rạ, bẹ ôm sát thân,
chống đổ ngã.
Chống sâu bệnh nhất là rầy nâu.
Hạt có trọng lượng cao, dạng hạt dài, gạo trắng, phẩm chất ngon.
2.6. Tiến trình chọn tạo giống lúa
2.6.1. Chọn vật liệu ban đầu
Điều tra, sưu tập đánh giá các nguồn gien để làm nguồn vật liệu ban
đầu.
2.6.2. Lai tạo và chọn lọc
Tùy mục đích đề ra, sử dụng các phương pháp lai và chọn lọc phù
hợp.
Chọn lọc theo phương pháp cổ truyền, quá trình chọn lọc có thể kéo
dài từ 5-7 vụ.
2.6.3. Thí nghiệm quan sát sơ khởi
Dùng 100-200 giống/dòng tốt được chọn từ các tổ hợp lai để trắc

nghiệm sơ khởi. Các giống/dòng được cấy từ 4-6 hàng, mỗi hàng 5m, không
lặp lại, cứ 10-20 giống cấy 1 giống đối chứng là giống tốt phổ biến ở vùng
đó. Sau đó tuyển chọn 30-50 giống/dòng có năng suất cao hơn giống đối
chứng để trắc nghiệm hậu kỳ.
2

×