Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Đề tài: “Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất và việc vận dụng ở nước ta hiện nay” ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.92 KB, 19 trang )

Tiểu luận Triết học
Luận văn
1
Tiểu luận Triết học
Đề tài: “Quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất và việc vận dụng ở
nước ta hiện nay”MỤC LỤC
. L i m uờ ởđầ
Xã hội loài người trong quá trình phát triển từ thời kỳ chiếm hữu nô
lệ, phông kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa đã đánh dấu sự phát
triển mạnh của Lực lượng sản xuất và vai trò quan trọng của nó trong tiến
trình phát triển của xã hội. Đặc biệt là quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất”. Đây là quy luật hết sức phổ
biến trong công cuộc xây dựng của mỗi quốc gia, mỗi xã hội. Sự mâu thuẫn
hay phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có ảnh hưởng rất
lớn tới nền kinh tế. Sự tổng hòa mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất là một điều kiện tất yếu cho sự phát triển của xã hội.
Hay nói cách khác, Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất là một điều kiện tất yếu để phát triển một
nền kinh tế. Do đó, nghiên cứu về quy luật này và việc vận dụng quy luật
này ở nước ta hiện nay sẽ giúp cho sinh viên chúng ta, đặc biệt là sinh viên
của khối kinh tế có được một nhận thức về sản xuất xã hội, hiểu được quy
luật vận động của nền kinh tế từ đó có thể góp một phần bé nhỏ của mình
vào sự nghiệp cây dựng đất nước.
2
Tiểu luận Triết học
Thấy được ý nghĩa quan trọng của vấn đề nên em đã chọn đề tài:
“Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất và việc vận dụng ở nước ta hiện nay”. Tuy nhiên do trình độ nhận
thức và hiểu biết còn hạn chế, do đó không tránh khỏi nhiều sai sót. Nên em


rất mong được sự chỉ bảo, phê phán của thầy để có thể sửa chữa, khắc phục
những mặt kiến thức còn hạn chế để bài viết này được hoàn thiện hơn.
B - Nội dung
Dưới sự vận động của lịch sử loài người, cũng như sự vận động trong
mỗi xã hội cụ thể, sự thay đổi và phát triển của phương thức sản xuất bao
giờ cũng là sự thay đổi mang tính cách mạng. Khái quát lịch sử phát triển
của nhân loại. C.Mác đã kêt luận: “Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt
vật chất trực tiếp và chính tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các
thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả các
quan niệm tôn giáo của con người ta”. Trong quá trình sản xuất vật chất, con
người không ngừng làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm
biến đổi bản thân mình. Sản xuất vật chất không ngừng phát triển. Sự phát
triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của các mặt của
đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp tới cao.
Trong sự thay đổi đó, các hình thái kinh tế, xã hội được chuyển sang
một chất mới. Mỗi một phương thức sản xuất luôn đi cùng với một hình thái
kinh tế nhất định, mà phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực
lượng sản xuất ở một trình độ nhất định với một quan hệ sản xuất tương ứng.
Đó cũng chính là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
3
Tiểu luận Triết học
Để nắm bắt được quy luật này thì trước hết ta cần phải hiểu được
những nét cơ bản trong khái niệm của từng vấn đề.
I- Sự nhận thức về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
1. Khái niệm về lực lượng sản xuất , quan hệ sản xuất.
a. Lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự

nhiên trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực
tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng
xản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liện sản
xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động
của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với
nhau tạo thành lực lượng sản xuất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, “lực lượng sản xuất hang
đầu của nhân loại là công nhân, là người lao động”. Chính người lao động là
chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động
của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động
vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản
của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công
cụ lao động do con người sáng tạo ra, là “sức mạnh của tri thức đã được vật
thể hoá”, nó “nhân” sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản
xuất. Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày
càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học cộng nghệ đã tạo ra những thiết bị máy móc mới, công nghệ mới,
nguyên liệu mới,…Nó đã cho thấy sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa
học cộng nghệ trong sản xuất, trở thành yếu tố không thể thiếu của sản xuất
4
Tiểu luận Triết học
làm cho lực lượng sản xuất có những bước tiến nhảy vọt, tạo thành cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại. Có thể nói khoa học công nghệ hiện đại
là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
b. Quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ
về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất,

quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất làm ra.
- Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất là quan hệ giữa người đối
với tư liệu sản xuất, nói cách khác tư liệu sản xuất thuộc về ai ? Tính chất
của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất - Biểu hiện thành chế độ sở hữu. Trong ba mặt của quan hệ sở
hữu, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản,
đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất quyết định về quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối
sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác.
- Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất là quan hệ giữa người với người
trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như phân công chuyên môn hoá
và hợp tác hoá lao động, quan hệ giữa quản lý với công nhân.
- Chế độ phân phối sản xuất, sản phẩm tức là quan hệ chặt chẽ với
nhau và cùng một mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu
sản xuất mở rộng, nâng cao phúc lợi người lao động. Đóng góp ngày càng
nhiều cho nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sản xuất
nhưng cũng có thể kìm hãm sản xuất kìm hãm sự phát triển của xã hội. Nếu
xét trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định thì tính chất sở hữu quyết
định tính chất quản lý và phân phối. Mặt khác trong mỗi hình thái kinh tế xã
hội nhất định quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các
5
Tiểu luận Triết học
quan hệ sản xuất khác. Ít nhiều cải biến chúng để chẳng những chúng không
đối lập mà còn phục vụ đắc lực cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế mới.
II – Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
1. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là mâu thuẫn hay phù
hợp.
C.Mác đã từng viết trong tác phẩm phê phán khoa kinh tế - chính trị

năm 1853 rằng: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người
ta có những quan hệ nhất định, tất yếu không phụ thuộc ý muốn của họ, tức
những quan hệ sản xuất. Những quy luật này phù hợp với một trình độ phát
triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ”. Người ta thường coi
tư tưởng này của C.Mác là tư tưởng về “Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”.
Cho đến nay, quy luật này hầu như đã được khẳng định cũng như các
nhà nghiên cứu Triết học Mác xít. Khái niệm “phù hợp” được hiểu với nghĩa
chỉ phù hợp mới tốt, mới hợp quy luật, không phù hợp là không tốt, là trái
quy luật. Có nhiều vấn đề mà nhiều lĩnh vực đặt ra với từ “phù hợp” này.
Các mối quan hệ trong sản xuất bao gồm nhiều dạng thức khác nhau mà
nhìn một cách tổng quát thì đó là những dạng của quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất, từ đó hình thành những mối liên hệ chủ yếu cơ bản là mối
liên hệ giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất. Nhưng mối liên hệ giữa hai yếu tố này là gì ? Phù hợp hay không phù
hợp ? Thống nhất hay mâu thuẫn ? Trước hết cần xác định khái niệm phù
hợp với các ý nghĩa sau:
- Phù hợp là sự cân bằng, sự thống nhất giữa các mặt đối lập hay sự
“yên tĩnh” giữa các mặt ?
- Phù hợp là một xu hướng mà những người lao động không cân bằng
sẽ đạt tới ?
6
Tiểu luận Triết học
Trong phép biện chứng sự cân bằng chỉ là tạm thời và sự không cân
bằng là tuyệt đối. Đây chính là nguồn gốc tạo nên sự vận động và phát triển.
Ta biết rằng trong phép biện chứng cái tương đối không tách khỏi cái tuyệt
đối nghĩa là giữa chúng không có mặt giới hạn xác định. Nếu nhìn nhận theo
một cách khác thì có thể hiểu sự cân bằng như một sự đứng yên, còn sự
không cân bằng là sự vậ động. Tức sự cân bằng trong sản xuất chỉ là tạm
thời, còn sự không cân bằng không phù hợp giữa chúng là tuyệt đối. Chỉ có

thể quan niêm được sự phát triển chừng nào người ta thừa nhận tính chân lý
vĩnh hằng của sự vận động. Cũng vì vậy chỉ có thể quan niệm được sự phát
triển chừng nào người ta thừa nhận, nhận thức được sự phát triển trong mâu
thuẫn của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chừng nào ta thừa nhận
vĩnh viễn sự không phù hợp giữa chúng.
Tóm lại, có thể nói thực chất của quy luật về mối quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là quy luật mâu thuẫn. Sự phù hợp giữa
chúng chỉ là cái trục, chỉ là trạng thái yên tĩnh tạm thời, còn sự vận động,
dao động trong mâu thuẫn là vĩnh viễn chỉ có khái niệm mâu thuẫn mới vạch
ra động lực của sự phát triển, mới có thể cho ta hiểu được sự vận động của
quy luật kinh tế.
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt (yếu tố, bộ phận,
…) hợp thành phương thức sản xuất xã hội. Trong đó lực lượng sản xuất là
nội dung của nền sản xuất còn quan hệ sản xuất là hình thức của sản xuất.
Nội dung luôn quy định hình thức, tuy nhên hình thức cũng không đóng vai
trò thụ động, mà nó luôn tác động đến nội dung, thúc đẩy hay kìm hãm sự
phát triển của nó. Sự tác động qua lại lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất biểu hiện mối quan hệ mang tính chất biện chứng.
Lực lượng sản xuất là yếu tố cách mạng, năng động nhất, thường
xuyên biến đổi và phát triển. Bởi lẽ, trong sản xuất vật chất con người luôn
7
Tiểu luận Triết học
muốn cải thiện công cụ lao động, sáng tạo ra công cụ mới, tích luỹ kinh
nghiệm, áp dụng kỹ thuật,… để nâng cao năng suất lao động. Chính từ
những nguyên nhân này mà lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, đến
một giới hạn nhất định nào đó sẽ đặt ra nhu cầu xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ,
hiện có để thay bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn. Việc xoá bỏ quan
hệ sản xuất cũ và thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới cũng đồng nghĩa

với việc xoá bỏ một phương thức sản xuất đã lỗi thời lạc hậu và thay thế nó
bằng một phương thức sản xuất mới phù hợp hơn. Sự xoá bỏ các hình thức
Quan hệ sản xuất hiện có không phải là tự thân mà phải thông qua
một phương thức chính trị, pháp quyền mà phương thức pháp quyền là trực
tiếp. Những quan hệ sản xuất cũ từ chỗ là hình thức kinh tế cần thiết để đảm
bảo duy trì khai thác, phát triển của lực lượng sản xuất giờ đây trở thành
những hình thức kìm hãm sự phát triển đó. Như C.Mác đã nhận định “Từ
một giai đoạn phát triển nào đó của chúng các lực lượng sản xuất vật chất
của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có trong đó từ trước
tới nay các lực lượng sản xuất vẫn tiếp tục phát triển. Từ chỗ là những hình
thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng
xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc Cách
mạng xã hội”. Đó cũng chính là nội dung quy luật về sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Một vấn đề quan trọng đặt ra trong quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ: Sự phù hợp hay không
phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển nhất định của lực lượng
sản xuất. Cần nhận thức một cách sâu sắc rằng, lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất là hai mặt đối lập biện chứng cùng trong một bản chất – phương
thức sản xuất. Vì vậy chúng luôn liên hệ, quy định, rằng buộc và thích ứng
với nhau. Lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có một quan hệ sản
xuất phù hợp, đồng bộ với nó. Quan hệ sản xuất lạc hậu hơn, hoặc “vượt
trước”, “cao quá” so với lực lượng sản xuất sẽ dẫn đến sự không phù hợp
8
Tiểu luận Triết học
(không thích ứng) giữa chúng và tất yếu là sẽ cản trở sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
đã bộc lộ gay gắt đòi hỏi phải giải quyết nhưng lực lượng sản xuất không
phát hiện được hay phát hiện nhưng không giải quyết được cũng như giải
quyết sai lầm thì tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố

phá hoại đối với lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên bên cạnh đó, chúng ta không nên tuyệt đối hoá vai trò của
lực lượng sản xuất mà bỏ qua sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối
với nó khi giữa chúng có sự phù hợp. Đôi khi sự phát triển chệch hướng của
quy luật quan hệ sản suất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất là do yếu tố chủ quan, chứ không phải do tính chất đặc thù của quy luật
đó.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh vai trò quyết định của lực
lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất, song nó cũng chỉ ra rằng quan hệ
sản xuất bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, nó là yếu tố quyết định
là tiền đề cho lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Nó làm nhiệm vụ chỉ ra mục tiêu bước đi và tạo
quy mô thích hợp cho lực lượng sản xuất hoạt động, cũng như đảm bảo lợi
ích chính đáng cho người lao động phát huy tính tích cực sáng tạo cho con
người là nhân tố quan trọng và quyết định trong lực lượng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất tác động mạnh mẽ trở lại lực lượng sản xuất vì
nó quyết định mục đích sản xuất, quy định hệ thống quản lý sản xuất và
quản lý xã hội, quy định phân phối và phân phối của cải ít hay nhiều mà
người lao động được hưởng. Do đó nó tạo ra những điều kiện hoặc kích
thích hoặc hạn chế sự phát triển của công cụ sản xuất áp dụng thành tựu
khoa học công nghệ và sản xuất hợp tác phân công lao động.
III - Sự vận dụng của Đảng ta trong đương lối đổi mới ở Việt Nam
9
Tiểu luận Triết học
Trong công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trước
thời kỳ đổi mới, có lúc có nơi, chúng ta còn lúng túng trong việc xậy dựng
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, và cả trong việc giải quyết mối quan
hệ giữa chúng; có lúc có nơi đã quy toàn bộ quan hệ sản xuất vào quan hệ sở
hữu, và đồng nhất hợp tác xã, quốc hữu hoá với xã hội hoá, đồng thời tuyệt

đối hoá vai trò “đi trước”, “mở đường” của quan hệ sản xuất (mà thực chất
lúc đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu). Điều đó đã làm cho
khoảng cách giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ngày càng rộng ra,
và do đó làm cho nền kinh tế nước ta rơi vào khủng hoảng trầm trọng trong
những năm cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80 của thế kỷ XX.
Ngày nay sự nghiệp đổi mới của Việt Nam đã được triển khai mạnh
mẽ trên tất cả các lĩnh vực. Quá trình đổi mới đã đưa lại nhiều thành tựu to
lớn, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều lý luận quan trọng mà việc áp dụng
quy luật quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất vào việc giải quyết chúng một cách đúng đắn sẽ là cơ sở hết sức cần
thiết cho việc tiếp tục hoạch định và đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới, cũng như
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Việt Nam đã xây dựng chủ nghĩa xã hội được hơn 30 năm ở miền
Bắc và 10 năm trên phạm vi toàn quốc nếu tính đến thời kỳ băt đầu đổi mới.
Nhưng do chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nghèo, chậm phát
triển, lại trải qua chiến tranh kéo dài, nên gặp rất nhiều khó khăn. Hơn hết
trong quá trình đi lên chúng ta đa vấp phải những thiếu sót, cũng như sai lầm
trong đường lối. Đến Đại hội lần thứ VI của Đảng, với tư duy mới, chúng ta
nhận ra rằng, quan hệ sản xuất là vật cản của lực lượng sản xuất không chỉ
trong trường hợp quan hệ sản xuất đi sau mà còn cả trong trường hợp vượt
lên trước, tách rời lực lượng sản xuất. Nguyên lý quan hệ sản xuất phải phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất bao giờ cũng đúng trên
mỗi bước phát triển. Chính vì vậy, từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng đến
nay, chúng ta luôn luôn cố gắng thiết lập sự đồng bộ giữa các yếu tố trong
10
Tiểu luận Triết học
quan hệ sản xuất, trong lực lượng sản xuất và giữa quan hệ sản xuất với lực
lượng sản xuất. Điển hình nhất là những sự thay đổi trong lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp. Cơ chế “khoán 100” và “khoán 10” đã làm cho quan hệ sản
xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự tiến bộ vượt bậc của nền

nông nghiệp nước ta. Trong kinh tế nhà nước, ở tất cả các ngành nghề, từ
trên 12.000 doanh nghiệp, nay sắp xếp lại còn 4.000 doanh nghiệp. Một lộ
trình thay đổi, điều chỉnh đã được vạch ra liên quan đến doanh nghiệp nhà
nước sẽ làm cho số lượng tuyệt đối của chúng giảm hơn nữa, nhưng hiệu
quả kinh doanh và tính cạnh tranh của chúng thì tăng lên. Với các hình thức
đa dạng của quan hệ sản xuất đã thiết lập trong khu vực kinh tế nhà nước
như cổ phần hoá; giao, bán, khoán, cho thuê; công ty trách nhiệm hữu hạn;
công ty mẹ, công ty con; tập đoàn kinh tế, đã đem lại cho khu vực kinh tế
này một luồng sinh khí mới, sống động, nhờ đó mà lực lượng sản xuất của
khu vực kinh tế nhà nước sẽ không ngừng tăng lên.
Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ và tính
chất của lực lượng sản xuất đã được thể hiên trên rất nhiều mặt của đời sống
xã hội, thể hiện chủ trương và sách lược đúng đắn cũng như vai trò lãnh đạo
của Đảng ta. Điều đó được thể hiện trong:
1. Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế hang hoá nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay.
Sau khi giành được độc lập từ tay đế quốc Pháp, nền kinh tế nước ta
đã đi theo con đường tự cung tự cấp, nền sản xuất nhỏ, trình độ khoa khọc
kém phát triển, quan hệ giữa lực lượng sản xuất với trình đọ sản suất rời rạc.
Tuy nhiên nó cũng có phần phù hợp với tình tình lúc đó, khi nước ta phải
trải qua chiến tranh kéo dài từ đế quốc Pháp cho đến Mỹ. Và khi độc lập
chúng ta chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội với một xuất phát thấp.
Điều đó đòi hỏi phải có một chế độ kinh tế xã hội phù hợp với nhà nước và
khi đó nền kinh tế hang hoá nhiều thành phần ra đời.
11
Tiểu luận Triết học
Nhìn vào sự thật chúng ta thấy rằng, trong thời gian này do cường
điệu vai trò của quan hệ sản xuất, do quan niệm không đúng về mối quan hệ
giữa sở hữu và quan hệ khác, đồng nhất chế độ công hữu với chủ nghĩa xã

hội, lẫn lộn đòng nhất giữa hợp tác hoá và tập thể hoá. Khong thấy rõ các
bước đi có tính quy luật trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, nên đã
tiến hành ngay cuộc cải cách xã hội đối với nền kinh tế quốc dân và xét về
thực chất là theo đường lối “đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa quanh
hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Thiết lập
chế độ công hữu thuần nhất giữa hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể”.
Quan niệm cho rằng có thể đưa quan hệ sản xuất đi trước để tạo địa bàn rộng
rãi, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đã bị bác bỏ. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất xã hội này đã mâu thuẫn với những cái phân tích trên. Trên
con đường tìm tòi lối thoát của mình từ trong lòng nền xã hội đã nảy sinh
nhiều hiện tượng trái với ý muốn chủ quan của chúng ta, có nhiều hiện
tượng tiêu cực nổi lên trong đời sống kinh tế như quản lý kém, tham ô,…
Nhưng thực ra mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất với
những hình thức kinh tế - xã hội lạ được áp đặt một cách chủ quan. Kinh tế
thích hợp cần thiết cho lực lượng sản xuất mới nảy sinh và phát triển. Khắc
phục nhữn hiện tượng tiêu cực trên là cần thiết, về mặt này trên thực tế
chúng ta chưa làm hết nhiệm vụ phải làm. Phải giải quyết đúng đắn mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, từ đó khắc phục những
khó khăn và tiêu cực của nền kinh tế. Thiết lập quan hệ sản xuất mới với
những hình thức và bước đi phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất luôn luôn thúc đẩy sản xuất phát triển với hiệu quả kinh tế cao.
Quan điểm từ Đại hội VI cũng đã khẳng định không những khôi phục
thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể, mà phải phát triển chúng
theo chính sách rộng rãi của Đảng và Nhà nước. Nhưng điều quan trọng là
phải nhận thức được vai trò quan trọng của thành phần kinh tế nhà nước
trong thời kỳ quá độ. Để thực hiện vai trò này một mặt nó phải thông qua sự
12
Tiểu luận Triết học
nêu gương về mặt năng xuất, chất lượng và hiệu quả. Thực hiện đầy đủ đối
với nhà nước. Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể,

thực hiện chính sách khuyến khích phát triển. Tuy nhiên với thành phần kinh
tế này phải có những biện pháp để cho quan hệ sản xuất thực hiện phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ. Vì như
thế mới thực sự thúc đẩy sự phát triển của lực lượng lao động.
2. Công nghiệp hoá - vận dụng tuyệt vời của quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong sự
nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Thuộc phạm trù của lực lượng sản xuất và vận động không ngoài biện
chứng nội tại của phương thức sản xuất, vấn đề công nghiệp hoá - hiện đại
hoá trước hết phải được xem từ tư duy triết học. Trước khi đi vào công
nghiệp hoá - hiện đại hoá và muốn thành công trên đất nước thì phải có tiềm
lực về kinh tế con người, trong đó lực lượng lao động là một yếu tố quan
trọng. Ngoài ra phải có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất – nhân tố cơ bản.
Đất nước ta đang trong giai đoạn tiến hành công nghiệp hoá - hiệnđại
hoá với tiềm năng lao động lớn, cần cù, sáng tạo và có kinh nghiệm lao động
sang tạo nhưng công cụ lao động còn thô sơ. Đảng ta đã triển khai mạnh mẽ
một số vấn đề về công nghiệp hoá - hiện đại hoá, điều đó đã đánh ta được
mối lo tụt hậu của đất nước so với khu vực, trước hết là trên cơ sở một cơ
cấu sở hữu hợp quy luật gắn liền với các cơ cấu của các thành phần kinh tế,
cũng như cơ cấu một xã hội hợp giai cấp. Cùng với thời cơ lớn, những thử
thách ghê gớm phải vượt qua để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa -
hiện đại hóa đất nước, vì đân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh
hãy còn ở phía trước mà nội dung cơ bản trong việc thực hiện là phải nhận
thức đúng đắn về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện nay.
13
Tiểu luận Triết học
3. Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội cơ sở lý luận của
sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.

Chúng ta đều biết rằng, từ trước tới nay, công nghiệp hóa – hiện đại
hóa là khuynh hướng phát triển tất yếu của các nước. Và mỗi nước lại có
những cách thức khác nhau trong quá trình thực hiện đường lối phát triển
của mình. Đối với nước ta, đi lên từ một nền kinh tế tiểu nông muốn thoát
khỏi nghèo nàn lạc hậu, nhanh chóng đạt tới trình độ của một nước phát
triển thì nhiệm vụ tất yếu phải có là đẩy minh sự nghiệp cong nghiệp hóa -
hiện đại hóa như là một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc. Đại hội đại
biểu lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Xây dựng nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật - chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao. Quốc phòng an ninh vững chắc, dân
giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh”.
Theo quan điểm của các nhà sang lập chủ nghĩa Mác - Lịch sử sản
xuất vật chất của nhân loại đã hình thành mối quan hệ khách quan phổ biến:
một mặt con người phải quan hệ với giới tự nhiên nhằm biến đổi giới tự
nhiên đó, quan hệ này được biểu hiện ở lực lượng sản xuất, mặt khác con
người phải quan hệ với nhau để tiến hành sản xuất, âun hệ này được biểu
hiện ở quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt
đối lập nhau, hai mặt biện chứng của một thể thống nhất không thể tách rời.
Tuy nhiên nếu lực lượng sản xuất là cái cấu thành của toàn bộ lịch sử nhân
loại thì quan hệ sản xuất là cải tạo thành cơ sở kinh tế của xã hội, là cơ sở
hiện thực của hoạt động sản xuất tinh thần và những thiết chế tương ứng
trong xã hội.
C.Mác đưa ra kết luận rằng xã hội loài người phát triển trải qua nhiều
giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển đó là một
hình thái kinh tế - xã hội nhất định – xã hội khác mà gốc rễ sâu xa của nó
chính là sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Rằng sự vận
14
Tiểu luận Triết học
động và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là do tác động của các

quy luật khách quan. C.Mác và Ph. Ănghen đã đưa ra nhiều lý luận, nhiều tư
tưởng. Những lý luận tư tưởng cơ bản đó trong học thuyết Mác về hình thái
kinh tế - xã hội chính là cơ sở lý luận cho phép chúng ta khẳng định sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay là phù hợp với quy luật khách quan trong quá trình phát
triển đi lên của đất nước.
Đối với nước ta để phù hợp với lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất Đảng ta đã nêu công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa, kêt hợp
với những bước tiến tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ hội đi
tắt, đón đầu. hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của
khoa học công nghệ trên trhế giới. Mặt khác chúng ta cần phải chú trọng đến
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự điều tiết của Nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là hai nhiệm vụ được thực hiện đồng thời. Chúng luôn tác động hỗ trợ
thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Bởi lẽ “nếu công nghiệp hóa - hiện đại
hóa tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới thì việc xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ
sản xuất phù hợp đưa nước ta tiến lên từng ngày như Đảng và Nhà nước ta
đang thực hiện”.
15
Tiểu luận Triết học
16
Tiểu luận Triết học
C. Kết luận
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử
của nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã
nguyên thuỷ, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản
chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống
cac quy luật. Sự phát triển của nhân loại đã khẳng định quy luật quan hệ sản

xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ
bản nhất.
Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi và phát triển.
Ngược lại, quan hệ sản xuất thường có tính ổn định trong một thời gian dài,
song sự ổn định đó cũng chỉ là tạm thời và cũng cần có sự thay đổi cho phù
hợp. Và đặc biệt vấn đề then chốt trong quan hệ biện chứng giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất mà ta cần phải nắm được đó là: Sự phù hợp
(hay không phù hợp) của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển nhất định
của lực lượng sản xuất. Và một trong những tiêu chuẩn quan trọng của sự
phù hợp (hay không phù hợp) này là năng xuất lao động.
Đối với nước ta, việc nắm bắt sự phù hợp và không phù hợp qua từng
tiến trình phát triển có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Chúng ta cần nắm bắt
chính xác để có được những hoạch định đúng đắn, tránh những sai lầm. Cần
có chủ trương đúng đắn trong việc xác lập hoàn thiện, cũng như thay đổi
quan hệ sản xuất để phù hợp với lực lượng sản xuất hiện có. Đây là cơ sở lý
luận trực tiếp của việc xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và cải cách
các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay.
Với vị trí là một sinh viên, em chỉ phần nào đề cập đến được khía
cạnh của một số vấn đề. Em mong được sự góp ý của Thầy nhắm giúp em có
được hiểu biết một cách đúng đắn nhất về vấn đề này.
17
Tiểu luận Triết học
D. Các danh mục tài liệu tham khảo
- Giáo trình Triết học Mác – LêNin. (Nhà xuất bản chính trị quốc gia).
- Những chuyên đề triết học. (PGS.TS. Nguyễn Thế Nghĩa – Nhà xuất
bản Khoa học xã hội).
- Tạp trí cộng sản.
- Tạp trí triết học (2002).
- Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần VI, VIII.
18

Tiểu luận Triết học

19

×