Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Đề tài "Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam, lý luận thực trạng và giải pháp thực hiện ở nước ta" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.54 KB, 22 trang )

Đề tài
"Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam, lý luận
thực trạng và giải pháp thực hiện ở
nước ta"
1
1
MỤCLỤC
2
2
LỜIMỞĐẦU
Hiện nay, thời kì quáđộ từ chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới vẫn
nói chung đang tiếp diễn và con đường “phát triển quáđộ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chếđộ tư bản chủ nghĩa” tại các nước chủ nghĩa xã hội nói riêng cũng có cơ sở
lịch sử, thực tiễn sâu xa, vững chắc, mang tính quy luật khách quan, tất yếu và
hoàn toàn khả thi. Việt Nam trong xu thế chung của thế giới cũng đang tiến hành
quáđộ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là quá trình lâu dài và cũng có nhiều khó khăn. Có
nhiều tài liệu đã nghiên cứu về vấn đề này nhưng ở mỗi tài liệu thì mới đề cập đến
một khía cạnh của con đường quáđộ lên chủ nghĩa xã hội. Là một sinh viên đang
theo học trong lĩnh vực kinh tế em muốn đi tìm hiểu những vấn đề chung, khái
quát về con đường quáđộ của nước ta. Việc nghiên cứu đề tài này sẽ cung cấp cho
em thêm những thông tin quý báu về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước
để bước đầu hình thành cho mình những tư duy kinh tế. Cùng với việc tích luỹ
những kiến thức trong những năm tiếp theo tại trường em mong muốn sau này sẽ
góp được phần nhỏ bé của mình để hoàn thành những nhiệm vụ kinh tế của thời kì
quáđộ.
Trong quá trình tìm hiểu vềđề tài: "Quáđộ lên CNXH bỏ qua chếđộ tư bản
chủ nghĩa ở Việt Nam, lý luận thực trạng và giải pháp thực hiện ở nước ta", do
vốn kiến thức của em và do thời gian có hạn nên em sẽ gặp phải những thiếu sót.
Em rất mong thầy và các bạn tham gia góp ý cho em để bài viết của em được hoàn
thiện hơn.


3
3
NỘIDUNG
I. Lý luận chung về quáđộ lên Chủ nghĩa xã hội.
1.Khái niệm cơ bản về quáđộ lên chủ nghĩa xã hội
Muốn hiểu được rõ thế nào là quáđộ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) trước
hết ta phải hiểu được thế nào là thời kì quáđộ. Theo lý luận Mac- Lênin đã khẳng
định muốn tiến từ một phương thức sản xuất thấp lên một phương thức sản xuất
cao hơn cần bắt buộc phải trải qua thời kì quáđộ. Mác đã khái quát về mặt lý luận
và chỉ rõ: “ Thời kì quáđộ là thời kì cải biến Cách mạng không ngừng, triệt để và
toàn diện từ phương thức sản xuất này sang phương thức sản xuất khác. Trong thời
kì quáđộ xét cả về mặt kinh tế, chính trị, xã hội đó là một thời kì có nhiều mâu
thuẫn đặt ra đòi hỏi lý luận phải giải quyết triệt để”.
2. Tính tất yếu và các loại hình quáđộ lên CNXH.
2.1.Tính tất yếu của quáđộ lên CNXH.
C.Mac cho rằng thời kì này bao gồm những cơn đau đẻ kéo dài có nghĩa là
tiến trình quáđộ không dễ dàng, nhanh chóng và có thể phải trải qua nhiều khúc
quanh; những quãng cách mới đi đến kết quả cuối cùng. Điều đó cũng được Lênin
khẳng định rằng: Trong thời kì quáđộ, sự nghiệp xây dựng CNXH có khi phải “
làm lại nhiều lần” mới xong và trong thực tế diễn biến của tiến trình quáđộ trong
gần 90 năm qua với những thất bại thăng trầm cũng đã chứng minh điều đó.
Theo V.I. Lênin tất yếu xảy ra quáđộ lên CNXH là do đặc điểm ra đời
phương thức sản xuất Cộng sản chủ nghĩa và cách mạng vô sản quy định, sự hình
thành chếđộ mới có thể ví như một cơn đau đẻ kéo dài do đó nó cần phải có thời
gian, có những sự chuẩn bị và những tích luỹ vật chất cần thiết đủ cho nó lọt lòng
và phát triển.
Thứ nhất: Cách mạng vô sản cóđiểm khác biệt căn bản so với Cách mạng tư
sản. Đối với Cách mạng tư sản quan hệ sản xuất phong kiến và quan hệ sản xuất
Tư bản chủ nghĩa đều dựa trên chếđộ tư hữu về tư liệu sản xuất nên quan hệ sản
xuất Tư bản chủ nghĩa có thể ra đời từ trong lòng xã hội phong kiến; nhiệm vụ của

4
4
nó chỉ là giải quyết về mặt chính quyền Nhà nước làm kinh tế thị trường thích ứng
với cơ sở hạ tầng của nó.
Thứ hai: Sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một
thời kì lâu dài, không thể ngay một lúc có thể hoàn thiện được. Để phát triển lực
lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, xây dựng chếđộ công hữu xã hội chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất, xây dựng kiểu xã hội mới, cần phải có thời gian, hay tất
yếu phải có thời kì quáđộ lên CNXH.
2.2. Tính tất yếu của quáđộ lên CNXH ở Việt Nam.
Thời kì quáđộ là thời kì lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên CNXH
cũng đều phải trải qua ngay cảđối với những nước có nền kinh tế phát triển. Con
đường phát triển quáđộ lên CNXH bỏ qua chếđộ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam mà
chủ tịch Hồ Chí Minh vàĐảng ta đã lựa chọn là con đường phát triển rút ngắn theo
phương thức quáđộ gián tiếp. Đó là con đường phát triển tất yếu khách quan, hợp
quy luật theo tiến trình phát triển lịch sử tự nhiên của Cách mạng Việt Nam vì:
Thứ nhất là do bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ: thế giới bước vào thời kì quáđộ
từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên CNXH. CNTB lúc đó là xã hội đã lỗi thời về mặt
lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sản
chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa. CNTB không
phải là tương lai của loài người, nó không vượt qua những mâu thuẫn mà mâu
thuẫn cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; mâu
thuẫn này càng ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc hơn; CNXH mà con người
đang vươn tới là hình thái kinh tế xã hội cao hơn CNTB đó là xã hội vì sự nghiệp
giải phóng con người, sự phát triển tự do và toàn diện của loài người. Chúng ta
quáđộ thẳng lên CNXH nghĩa làđi theo dòng chảy của thời đại nghĩa làđi theo quy
luật tự nhiên của lịch sử.
Thứ hai là do sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc của Đảng. Ngay khi ra
đời Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân tộc là quáđộ lên CNXH bỏ
qua chếđộ. Từ sau khi Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng cộng sản

lãnh đạo đã thành công thì chúng ta đã cởi bỏđược hai vòng xích, đã thoát khỏi
5
5
cảnh một cổ hai tròng, Đảng và Nhà nước thêm vững mạnh, nhân dân đã thêm
niềm tin vào Đảng, quyết tâm đi theo Đảng. Thành quả của cuộc Cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân cần được giữ vững, cuộc sống vật chất cũng như tinh thần
của nhân dân phải được cải thiện, nâng cao nhiều so với những năm chiến đấu hy
sinh. Có hàng loạt vấn đề kinh tế, xã hội và chính trị cần được giải quyết cấp bách
sau khi Cách mạng dân tộc dân chủ thành công. Nhưng điều đó không ngăn cản
việc tiến lên CNXH; hơn nữa, việc giải quyết nó chỉ có thể bằng con đường xây
dựng CNXH. Việc đưa miền Bắc tiến lên CNXH cóý nghĩa rất lớn lao trong những
năm đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Chính điều đóđược Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong hội nghị cán bộ văn hoá ngày 30/10/1958 “
Miền Bắc tiến lên CNXH để làm cơ sở vững chắc cho việc đấu tranh thống nhất
nước nhà. Muốn đấu tranh thống nhất nước nhà thắng lợi thì nhất định phải xây
dựng miền Bắc tiến lên CNXH”. Trong thời đại ngày nay chỉ cóđộc lập dân tộc gắn
liền với CNXH mới đem lại nhiều lợi ích và hạnh phúc thực sự cho toàn thể nhân
dân lao động.
Vì những lẽđó, Đảng tất yếu lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến thẳng
lên CNXH không trải qua giai đoạn phát triển TBCN.
2.3. Khả năng tiến hành quáđộ lên CNXH ở Việt Nam.
Về khả năng khách quan: Yếu tố khách quan quan trọng đầu tiên giúp chúng
ta tiến lên CNXH là Liên Xô lúc đóđã tiến hành thành công cuộc Cách mạng xã
hội chủ nghĩa và sẵn sàng giúp đỡ chúng ta cả về vật chất và tinh thần. Sau đó hệ
thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô vàĐông Âu tan rãđãđưa ra cho chúng ta tấm
gương khá sinh động về sự thành công và thất bại đã sâu sắc và chi tiếtđến mức có
thể từđóđưa ra những giải pháp điển hình cho sự lãnh đạo và thực hiện tiến trình
cách mạng. Còn đến ngày nay, xu thế quáđộ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới
đãđóng vai trò tích cực, không những làm cho quáđộ bỏ qua CNTB là tất yếu mà
còn đem lại điều kiện và khả năng khách quan cho sự quáđộ này. Quá trình quốc tế

hoá sản xuất, toàn cầu hoá với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệđã tạo khả năng cho những nước kém phát triển đi sau tiếp thu, vận dụng đưa
6
6
vào nước mình lực lượng sản xuất hiện đại và kinh nghiệm của những nước đi
trước cũng như tạo khả năng khách quan cho việc khắn phục khó khăn về nguồn
vốn, kĩ thuật hiện đại. Điều kiện đó giúp chúng ta tranh thủđược cơ hội, tận dụng,
khai thác, sử dụng có hiệu quả những thành tựu mà nhân loại đãđạt được để rút
ngắn thời kì quáđộ lên CNXH ở nước ta.
Về khả năng chủ quan: Mọi thành công của chúng ta đạt được phải kểđến
yếu tố quan trọng bậc nhất là sự lãnh đạo của Đảng và liên minh công nông vững
chắc. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac – Lênin luôn luôn nhấn mạnh vai trò
của Đảng vô sản trong việc lãnh đạo cách mạng nói chung và trong việc thực hiện
quá trình phát triển rút ngắn ở các nước tiền tư bản nói riêng thìở Việt Nam, Đảng
cộng sản Việt Nam là một nhân tố có vai trò quyết định đối với việc đẩy nhanh sự
phát triển đất nước .Và trong công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo
đã thu được những kết quả khả quan như: đã củng cố và khẳng định con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta làđúng đắn. Sự lựa chọn con đường quáđộ lên
CNXH bỏ qua TBCN của nước ta là phù hợp với sự lựa chọn của nhân dân ta. Các
tầng lớp lao động công nhân, nông dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng đã
cùng nhau chiến đấu, hy sinh để giành lại độc lập dân tộc và cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc. Do đó họ sẵn sàng liên minh chặt chẽ với nhau và cùng với Đảng
để vượt qua mọi khó khăn, xây dựng thành công CNXH.
Ngoài ra, khả năng và nguồn lực trong nước có thểđáp ứng được yêu cầu của
thời kì quáđộ lên CNXH. Chúng ta có lực lượng lao động dồi dào, chăm chỉ, khéo
léo, dễđào tạo, sẵn sàng đáp ứng được yêu cầu của thời đại mới. Tài nguyên thiên
nhiên của nước ta cũng hết sức giàu có và phong phú tạo điều kiện hoàn thành sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước tạo tiền đề xây dựng xã hội cộng sản
chủ nghĩa
3.Một sốđặc điểm cơ bản của thời kì quáđộ lên CNXH ở Việt Nam

Nước ta quáđộ lên CNXH có những đặc điểm chung của quáđộ lên CNXH
của các nước trên thế giới như: Đó là thời kì xét trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội đều do nhiều thành phần không thuần nhất cấu tạo lên; là thời kì mà sự phát
7
7
triển cái cũ của những trật tự cũđôi khi lấn át những mầm mống của cái mới của
trật tự mới. Thời kìđó có nhiều khó khăn phức tạp, phải trải qua những lần thử
nghiệm để rút ra những kinh nghiệm, những bước đi đúng đắn và trong quá trình
thử nghiệm.
Bên cạnh những đặc điểm chung đó chúng ta tiến hành quá còn có những
đặc điểm khác biệt với các quốc gia khác như :chúng ta bắt đầu tiến hành quáđộ
khi đất nước vẫn còn bị chia cắt hai miền với những chiến lược và nhiệm vụ khác
nhau (Đại hội Đảng III năm 1960). Trong quá trình tiến hành quáđộ từĐại hội
Đảng III đến Đại hội Đảng VI chúng ta luôn nhận được sự viện trợ giúp đỡ hợp tác
của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới màđặc biệt là Liên Xô thời đó. Nhưng
đặc điểm to lớn nhất của chúng ta trong thời kì quáđộ là “ từ một nước nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa”. Đó tuy không phải la một quy luật bình thường nhưng rất phù hợp
với điều kiện nước ta lúc bấy giờ.
II. Thực trạng nền kinh tế quáđộở nước ta
1. Những thành tựu đãđạt được
1.1. Về kinh tế
Như ta đã biết dưới ách thống trị của thực dân Pháp nền kinh tế nước ta phụ
thuộc hoàn toàn vào chủ nghĩa đế quốc, kinh tế hết sức nghèo nàn, lạc hậu, nạn đói
xảy ra triền miên và kéo dài, nghiêm trọng nhất là vào năm 1945 có tới hàng vạn
người có nguy cơ chết đói. Nhưng từ khi cuộc kháng chiến trường kì kết thúc
thắng lợi, miền Bắc bước vào thời kì quáđộ thì dưới sự lãnh đạo của Đảng tính chất
nền kinh tếđã thay đổi. Từ nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến, chúng ta đã xây
dựng được nền kinh tế mang tính độc lập mang tính chất dân chủ nhân dân, thoát
khỏi sự phụ thuộc hoàn toàn vào chủ nghĩa đế quốc.

Trong giai đoạn từ 1945 đến 1975 kinh tếđã có những bước phát triển nhất
định nhưng kết quả thực sựđáng lưu ý là từ năm 1986 đến nay (thời kìđổi mới).
Sau gần 20 năm đổi mới kinh tếđã có những bước chuyển biến đáng mừng.
8
8
Thứ nhất: Nền kinh tế trong những năm qua tăng trưởng liên tục và có tốc độ
cao. Mức tăng GDP năm 2002 đạt 6,79%, năm 2003 đạt 7,26% và năm 2004 đạt
7,5% cao nhất từ năm 1997 trở lại đây. Cụ thể mức tăng của một số ngành như sau.
Ngành nông nghiệp: Mặc dù trong những năm qua thời tiết khắc nghiệt,
thiên tai và hạn hán thường xuyên xảy ra, nạn cúm gia cầm trong hai năm vừa qua
đã gây ảnh hưởng lớn nhưng tổng sản phẩm ngành nông, lâm, thuỷ sản vẫn tăng
3,5% góp 0,7% vào tốc độ tăng trưởng chung. Sản xuất lương thực, thực phẩm vẫn
giữ vai trò lớn nhất trong sản xuất nông nghiệp. Nhờáp dụng khoa học công nghệ
mà sản xuất lúa đã chuyển dịch mạnh theo hướng tăng năng suất lao động, tăng
chất lượng lúa gạo để phù hợp nhu cầu thị trường, tăng sức cạnh tranh của gạo Việt
Nam trên trường quốc tế. Chúng ta vẫn giữ vững vị trí thứ hai về xuất khẩu gạo,
ngoại tệ thu được từ xuất khẩu gạo tăng từ 734 triệu USD lên 900 triệu USD năm
2004.
Ngành công nghiệp: sản xuất vẫn phát triển ổn định và tăng trưởng cao. Sản
xuất công nghiệp và xây dựng tăng 10,2% chiếm tỷ trọng 3,9% trong tốc độ tăng
trưởng chung. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp năm 2004 đạt 354 nghìn tỷđồng,
tăng 16% so với năm 2003 trong đó tăng cao nhất là khu vực ngoài quốc doanh
(22,8%), khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 15,7%.
Thứ hai: Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế với sự chuyển dịch ngành và chuyển
các thành phần kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tếđã có sự chuyển dịch theo hướng khu vực I (gồm nông
nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản) tuy vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục nhưng tỷ
trọng đã giảm xuống trong đó tỷ trọng khu vực II (công nghiệp và xây dựng cơ
bản) và khu vực III (gồm các ngành dịch vụ) đã tăng lên. Đến năm 2003 tỷ trọng
của khu vực I là 22%, khu vực II là 39%, khu vực III là 39%; năm 2004 thì tỷ

trọng các khu vực tương ứng là 21.8%; 40.1%; 32.2% .Các thành phần kinh tế
trong GDP cũng có sự chuyển dịch từ chủ yếu là quốc doanh, hợp tác xã sang đa
thành phần nhung vai trò chủđạo của kinh tế quốc doanh vẫn được tăng cường.
9
9
Thứ ba: Về cơ chế quản lý kinh tế mới đã bước đầu được hình thành. Nhà
nước đã xoá bỏ về cơ bản kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, xây
dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình hình
thành cơ chế thị trường, Nhà nước đã dần dần cải tổ bộ máy và các công cụ quản
lý. Từ chỗ chủ yếu sử dụng phương pháp hành chính coi kế hoạch hoá với các chỉ
tiêu pháp lệnh là công cụđể quản lý, điều hành nền kinh tế sang chủ yếu quản lý
bằng pháp luật kết hợp chính sách và các công cụđiều tiết vĩ mô như chính sách tài
chính, tiền tệ, thu nhập và chính sách kinh tếđối ngoại.
Thứ tư: Kinh tế nước ta đãđạt thành công lớn trong việc kiềm chế vàđẩy lùi
lạm phát. Trong những năm từ 1986 đến 1988 lạm phát tới ba con số (cao nhất là
774,7% năm 1986) nhưng đến năm 1989 lạm phát đãđược chặn lại ở hai con số sau
đó giảm xuống một con số (năm 1997 là 3,7%; năm 1999 là 0,1%; năm 2001 là
0,8%; năm 2002 là 4%; năm 2003 là 3% thậm chí còn có giảm phát vào năm 2000
là - 0.6%. Năm 2004 vừa qua lạm phát đã tăng lên 9,5%.
Thứ năm:Về kinh tếđối ngoại. Trong thời kì quáđộ cũng phát triển mạnh mẽ.
Chúng ta đã tham gia vào các tổ chức khu vực cũng như trên thế giới: gia nhập
ASEAN năm 1995, gia nhập AFTA năm 1996, gia nhập APEC năm 1998, ký hiệp
định thương mại Việt – Mĩ, nộp đơn gia nhập WTO năm 1994 và hiện nay đang
xúc tiến đàm phán để thực hiện mục tiêu gia nhập WTO trong năm nay. Tháng 10
năm 2004 vừa qua chúng ta đã tổ chức thành công Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu
lần thứ 5 (ASEM 5). Vàđến tháng 11 năm 2004 Việt Nam đã kí 86 hiệp định
thương mại song phương, 46 hiệp định khuyến khích và bảo hộđầu tư, 40 hiệp định
chống đánh thuế hai lần đối với các nước, vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại
với 160 nước và nền kinh tế, thiết lập quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ như

WB, FDI, IMF, ODA…
1.2. Về xã hội
Trong suốt thời kì quáđộ chúng ta đãđạt được những chuyển biến tốt về mặt
xã hội. Nhìn chung đời sống vật chất, tinh thần của phần lớn nhân dân được cải
10
10
thiện một bước rõ rệt. Số hộ có thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng lên ( hiện
nay lớn hơn 10%), GDP bình quân đầu người trong cả nước đạt 484,8 USD, khu
vực thành thịđạt tới 794,8%, khu vực Đông Nam Bộđạt 820,8 USD. Tỷ lệ hộ
nghèo giảm từ 30% năm 1992 xuống còn 10,8% năm 2003 và 9,03% năm 2004.
Một thành quả to lớn về xã hội phải kểđến là sự phát triển của hệ thống y tế,
giáo dục. Mạng lưới y tế bây giờđã rộng khắp luôn kịp thời chăm lo sức khoẻ cho
nhân dân. Ở hầu hết các xã phường thị trấn đều có các trạm xá với những cán bộ y
tếđãđược qua đào tạo. Thành công về y tế lớn nhất trong năm vừa qua là chúng ta
đã nhanh chóng kìm chế, khoanh vùng được dịch Sar cũng như dịch cúm gia cầm,
rồi những ca phẫu thuật cấy ghép tuỷ, thận…
Về giáo dục: Giáo dục ở Việt Nam trong những năm vừa qua luôn được coi
là quốc sách hàng đầu. Đảng và Nhà nước luôn có những chính sách hỗ trợ vàđầu
tư cho phát triển giáo dục nhưđầu tư cơ sở hạ tầng kĩ thuật, trợ cấp cho học sinh,
sinh viên…Kết quả là số người tham gia xóa mù chữở tất cả các cấp tăng lên 12%.
Về cơ bản nước ta đã phổ cập được tiểu học. Đến tháng 6 năm 2004 đã có 19 tỉnh
trong cả nước được công nhận phổ cập trung học cơ sở. Tính năng động sáng tạo
của người dân được khơi dậy và phát huy. Người lao động ngày càng chủđộng hơn
trong tìm kiếm việc làm tìm cách tăng thu nhập, tự cải thiện đời sống, tham gia ý
kiến đóng góp vào các sinh hoạt chung của cộng đồng, xã hội. Không còn nhiều
hiện tượng ỷ lại, thụđộng, trông chờ Nhà nước, dựa dẫm tập thể.
1.3. Về chính trị
Thứ nhất đã thực hiện tốt Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là một tất yếu lịch
sử và là tất yếu khách quan. Từ khi giành được thắng lợi trong cuộc cách mạng

Tháng 8 năm 1945, Đảng cộng sản Việt Nam về thực chất đã trở thành một Đảng
cầm quyền. Trong suốt mấy chục năm qua Đảng đã thành công trong việc vừa lãnh
đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệđộc lập và
xây dựng một xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Đảng luôn là lực lượng chính
trị duy nhất lãnh đạo cách mạng và lãnh đạo nhân dân, Đảng lãnh đạo toàn diện đối
11
11
với Nhà nước và mọi mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên, Đảng không tự biến
mình thành Nhà nước.
Thứ hai: Trong suốt thời kì quáđộ vừa qua nhìn chung chúng ta tiếp tục giữ
vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ chếđộ, chủ quyền đất
nước. Mặc dù những kẻ thùđịch không ngừng chống phá cách mạng trong nước,
mặc dù xảy ra khủng hoảng kinh tế, xã hội vào thời kì những năm 1996 – 2000
nhưng chính trị của nước ta vẫn được ổn định. Thành quả này là kết quả tổng hợp
của công cuộc đổi mới trong đó quốc phòng an ninh giữ vai tròđặc biệt quan trọng.
Các nhu cầu củng cố quốc phòng, cải thiện đời sống của lực lượng vũ trang luôn
được quan tâm đáp ứng. Chất lượng và sức mạnh quân đội luôn được nâng lên.
Thế trận quốc phòng toàn dân luôn được củng cố vững chắc, chủ quyền đất nước
càng được khẳng định rõ ràng. Như vậy, chúng ta đã thực hiện tốt chính sách kết
hợp kinh tế và an ninh quốc phòng.
Thứ ba: chúng ta thực hiện có kết quả nhiều bước quan trọng về hệ thống
chính trị.
Về củng cốĐảng: Trong thời gian qua Đảng đã từng bước bổ sung, cụ thể
hoáđường lối đổi mới, làm rõ dần con đường đi lên CNXH ở nước ta, củng cố về
chính trị, tư tưởng, tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo và tăng cường vai trò
lãnh đạo của Đảng trong xã hội.
Về phát huy quyền làm chủ của nhân dân: Tuy thực hiện cơ chếĐảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý nhưng Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền dân chủ, do
dân và vì dân. Điều đó thể hiện rõ nhất trong các cuộc bầu cửĐại biểu hội đồng
nhân dân các cấp theo chếđộ phổ thông đầu phiếu, chính người dân đã trực tiếp

được cầm phiếu đi bầu người đại diện cho mình – những người sẽ thay mặt họ
trình bày lên cơ quan cấp trên có thẩm quyền những vấn đề bất cập trong cuộc
sống hàng ngày, sẽ thay mặt họđòi hỏi những quyền lợi hợp pháp mà họđược
hưởng. Bên cạnh đó, đời sống của nhân dân các vùng dân tộc cũng được đặc biệt
chúý quan tâm, Đảng và Nhà nước đã tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi
lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển của cộng đồng
12
12
các dân tộc Việt Nam . Đảng luôn luôn tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hoá, tập
quán, tín ngưỡng tôn giáo của các dân tộc, luôn thực hiện nhất quán chính sách tôn
trọng vàđảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo nhưng cũng đồng thời chống
việc lợi dụng tín ngưỡng để xâm hại đến lợi ích quốc gia dân tộc.
Thứ tư: chúng ta phát triển mạnh mẽ quan hệđối ngoại, phá vỡ thế bao vây,
cô lập, tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế. Chúng ta đã triển khai
tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng
hoá. Chúng ta đã khắc phục và tăng cường quan hệ với các nước công nghiệp phát
triển như Mỹ, Nhật, bình thường hoá quan hệ Việt – Mỹ, mở rộng quan hệ với các
nước Nam á, Châu Phi, Mỹ Latinh, Trung Đông, với các tổ chức quốc tế, khu vực,
đã tham gia vào các tổ chức ASEAN, AFTA, APEC…và sắp tới đây sẽ gia nhập
WTO . Chúng ta đã nối lại quan hệ với các quỹ tiền tệ như IMF, ODA… nên
chúng ta đãđược hỗ trợ rất nhiều về vốn – một yếu tốđầu vào quan trọng của sản
xuất. Đồng thời, chúng ta tiếp tục duy trì phát triển quan hệđoàn kết hữu nghị với
các Đảng cộng sản và công nhân các phong trào độc lập, các tổ chức và phong trào
cách mạng tiến bộ trên thế giới; thiết lập quan hệ với các Đảng cầm quyền.
Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ
vững hoà bình, phá bỏ thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện môi trường quốc tế, nâng
cao vị thế nước ta trên trường quốc tế.
2. Những hạn chế
Tuy đãđạt được những thành tựu to lớn nhưng trong thời kì quáđộ và trong
công cuộc đổi mới đất nước chúng ta đã còn mắc không ít khuyết điểm và yếu

kém.
2.1.Những hạn chế tồn tại trong kinh tế của thời kì quáđộ.
Một là: Nước ta đã có nhiều biện pháp thúc đẩy phát triển cơ chế thị trường
nhưng cho đến nay cơ chế thị trường vẫn còn sơ khai. Hệ thống quản lý kinh tế
nước ta còn đang trong quá trình chuyển đổi, luật pháp, cơ chế, chính sách chưa
đồng bộ, nhất quán và tác động cùng chiều để thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh
mẽ, nâng cao hiệu quả vàđúng hướng. Các kế hoạch định hướng phát triển kinh
13
13
tếvề quy hoạch, xây dựng, quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên thiên nhiên…, thủ
tục hành chính có nhiều tiến bộ nhưng còn chậm chạp. Thường có sai sót mới sửa
đổi bổ sung chứ chưa đưa ra được từ khi ban hành nên còn nhiều bất cập trong hệ
thống hành chính quốc gia. Về thương nghiệp thì Nhà nước còn “bỏ trống” một số
“trận địa” quan trọng, chưa phát huy tốt được vai trò chủđạo trong lưu thông hàng
hoá, ổn định giá cả thị trường, bảo vệ sản xuất và tiêu dùng làm cho giá cả năm
vừa qua tăng lên tới 9,5%, xảy ra cả ngộđộc thực phẩm, người tiêu dùng mua phải
hàng giả, hàng kém chất lượng. Khâu quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở,
tiêu cực như nhập lậu, trốn thuế, nhận hối lộ… gây ra những tác động xấu không
nhỏ cho đối với sản xuất trong nước.
Ngoài tích luỹ nội bộ thấp thì vấn đề sử dụng vốn đầu tư cũng là vấn đề nan
giải. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tưđược phản ánh qua chỉ số ICOR. Vào đầu thập
kỉ 90 của thế kỉ XX chỉ số ICOR khoảng 0,4:1 – 0,5:1 thì năm 2001 là 4,12:1, năm
2003 là 4,92:1 chỉ số ICOR tăng cho thấy tốc độ phát triển của vốn lớn hơn giá trị
tăng thêm suy ra chúng ta sử dụng vốn đầu tư còn rất kém hiệu quả.
Ba là: Kinh tế tăng trưởng khá nhanh nhưng năng suất hiệu quả còn thấp.
Nhìn chung tốc độ tăng trưởng nền kinh tế chưa xứng với mức tăng đầu tư và thấp
hơn so với kế hoạch, tính bền vững vàđộđồng đều chưa cao, cơ cấu kinh tế chuyển
dịch còn chậm. Khu vực dịch vụ tuy được đầu tư khá xong tỷ trọng tăng chậm
trong cơ cấu GDP thậm chí năm 2004 còn giảm so với năm 2003 là 6,8%. Hệ
thống dịch vụ hỗ trợ sản xuất vừa thiếu vừa yếu và kém hiệu quả. Cơ cấu lao động

chuyển dịch chậm không tương ứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhất là trong
khu vực nông nghiệp nông thôn ( năm 2003 còn chiếm lớn hơn 60% lao động).
Bốn là cạnh tranh còn yếu và trình độ kĩ thuật lạc hậu. Sức cạnh tranh và
năng lực quản lý của các doanh nghiệp còn yếu, thiếu sự chuẩn bịđểứng phó hiệu
quả với quá trình hội nhập đang diễn ra ngày càng sâu rộng (thể hiện rõở việc các
doanh nghiệp chưa thực sự chúýđến việc đăng kí nhãn hiệu cho sản phẩm của
mình). Xét về tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm như giá cả, chất lượng, mạng lưới
tổ chức tiêu thụ thì hàng hoá của Việt Nam cũng có sức cạnh tranh yếu. Những mặt
14
14
hàng xuất khẩu chưa cóđược hàm lượng công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, hàng
xuất khẩu chủ yếu là thô hoặc sơ chế ví dụ như dầu khí, than… và chất lượng thấp.
Bên cạnh đó chưa xây dựng và sử dụng các biện pháp bảo vệ thị trường nội địa.
Một trong những nguyên nhân khiến cho cạnh tranh yếu là hàm lượng công nghệ
trong sản phẩm, trình độ lao động của Việt Nam còn thấp. Theo con số thống kê
Việt Nam có gần 40 triệu lao động thì có tới 83% lao động không có trình độ
chuyên môn kĩ thuật, số lượng công nhân được đào tạo nghề chiếm chưa tới 26 %.
III. Giải pháp cho con đường quáđộ lên CNXH ở Việt Nam.
Nhìn lại chặng đường quáđộ trong thời gian qua, chúng ta có quyền tự hào
về những thành tựu đãđạt được. Tuy nhiên đến nay vẫn còn một số mặt chưa được
củng cố vững chắc. Chính từ những thành tựu và những hạn chế còn tồn tại chúng
ta có thểđưa ra được những giải pháp để trong thời gian tới chúng ta đạt được
những thành tựu quan trọng hơn để hoàn thành nhiệm vụ của thời kì quáđộ lên
CNXH của Việt Nam để tiến đến một tương lai tươi đẹp xã hội xã hội chủ nghĩa.
1. Giải pháp về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Xu thế toàn cầu hoá hiện nay đang tạo cho chúng ta những thời cơ, những
thách thức. Do đó chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoáđể tạo ra
cơ sở vật chất kĩ thuật để chuyển dịch cơ cấu, để sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực khan hiếm của đất nước, tạo năng suất lao động xã hội cao, thúc đẩy tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao, bền vững. Muốn thực hiện thành công sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá chúng ta cần phải có giải pháp đểđẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoáđất nước.
Trước hết, công nghiệp hoá, hiện đại hoáđòi hỏi nguồn vốn rất lớn do đó
chúng ta phải huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. Chúng ta có thể huy động
vốn từ trong nước hay nước ngoài. Nguồn vốn trong nước được tích luỹ từ nội bộ
nền kinh tế quốc dân, muốn huy động được nguồn vốn trong nước điều kiện cần là
phải nâng cao hiệu quả sản xuất trên cơ sởứng dụng khoa học công nghệ, hợp lý
hoá sản xuất như thế sẽ làm tăng nhanh thu nhập của người lao động thì họ sẽ
cócác khoản dưđể tiết kiệm. Nhưng để cóđược tiết kiệm lớn thì Nhà nước và các
15
15
ngân hàng phải có những chính sách khuyến khích tiết kiệm như giảm thuếđánh
vào lãi suất, nâng lãi suất tiết kiệm, đấu tranh triệt để với nạn tham nhũng, lãng
phí. Nhưng nền kinh tế nước ta còn nghèo nàn nên tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh
tế là hết sức khó khăn, do đó cần tận dụng mọi khả năng để thu hút vốn đầu tư
nước ngoài. Muốn thu hút được vốn đầu tư nước ngoài buộc chúng ta phải có
những chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài, giảm bớt rườm rà trong thủ tục hành
chính, cải thiện được môi trường đầu tư theo hướng giảm giáđầu vào của sản xuất
thuộc độc quyền nhà nước như làđiện, viễn thông, dịch vụ cảng biển, phí cầu
đường…
Về nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ lao động :Vấn đề thiếu lao
động có tay nghềđang là một vấn nạn chung. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực đáp ứng mục tiêu phát triển và hội nhập của đất nước thìĐảng, Nhà nước vàđịa
phương cần phải có chiến lược đào tạo nghề, chuẩn đội ngũ lao động có kĩ năng
tay nghề, trình độ chuyên môn kĩ thuật cao. Cần phải chuyển dần việc đào tạo
nghềđơn giản sang đào tạo đội ngũ lao động có nghề, có kĩ năng và có trình độ
chuyên môn kĩ thuật cao, có khả năng thích ứng nhanh với thị trường lao động. Cụ
thể làưu tiên đào tạo những ngành nghề mũi nhọn có tỷ trọng kinh tế cao, đòi hỏi
kĩ thuật, công nghệ mới như ngành cơ khí, chế tác, sinh học và dịch vụ tiên tiến…
Muốn nâng cao được trình độđội ngũ lao động thìđầu tiên cần phải phát triển giáo

dục phải tăng mức chi phí giáo dục bình quân đầu người lên (hiện nay Việt Nam
đang đứng gần cuối bảng xếp hạng của ngân hàng Deustche thấp hơn 24 lần so với
Singapo) và cũng phải đưa ra được chiến lược giáo dục hướng tới các kĩ năng mà
thị trường đang cần.
Về phát triển khoa học công nghệ: Khoa học công nghệ cũng là một nhân tố
của lực lượng sản xuất. Để phát triển kinh tế buộc phát triển mạnh mẽ hơn nữa về
khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ sẽđáp ứng được yêu cầu nâng cao năng
suất lao động, chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh…
Phát triển khoa học công nghệ thì phải đi thẳng vào công nghệ hiện đại đối với các
mũi nhọn, lựa chon công nghệ thích hợp, khai thác được lợi thế của lao động.
16
16
Cùng với việc nhập công nghệ của nước ngoài chúng ta phải khẩn trương đổi mới
tổ chức, sắp xếp hợp lý các viện, trung tâm, các cơ sở nghiên cứu trong cả nước.
Phải dành vốn đầu tư thích đáng cho nghiên cứu cơ bản trong các ngành khoa học,
phải phát triển khoa học công nghệ, tạo môi trường cạnh tranh, bảo hộ sở hữu trí
tuệ. Phải đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng vàđãi ngộ trí thức để tránh chảy máu
chất xám. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mở rộng giao lưu và hợp
tác quốc tế về khoa học công nghệ, thu hút chuyên gia giỏi của thế giới.
Về mở rộng quan hệ kinh tếđối ngoại: Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay,
quan hệ kinh tếđối ngoại càng phát triển rộng rãi và có hiệu quả bao nhiêu thì sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước càng được thuận lợi và nhanh chóng
thành công bấy nhiêu. Trong suốt thời gian qua, chúng ta luôn tích cực tham gia
vào xu thế chung của quốc tế, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Trong thời gian tới
chúng ta phải tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tếđối ngoại theo hướng đa dạng hoá,
đa phương hoá, chủđộng hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều
kiện của nước ta. Nhà nước phải có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành
phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ, nâng
cao được sức cạnh tranh, phát triển mạnh sản phẩm, xây dựng được quỹ hỗ trợ
xuất khẩu; đẩy mạnh các lĩnh vực thu ngoại tệ như du lịch, xuất khẩu lao động, vận

tải, thu hút kiều hối…
2. Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường
2.1.Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Để phát triển được kinh tế thị trường thì việc đầu tiên là phải phát triển các
thành phần kinh tế và thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Khi
đó, mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo các hình thức do
pháp luật quy định và bảo vệ.
Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế Nhà nước để thực hiện tốt vai trò
chủđạo trong nền kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền chủ sở hữu và
quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp Nhà nước kinh
doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.
17
17
Thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ
100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động, thúc
đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.Ưu tiên cho người lao động được mua cổ
phần và từng bước mở rộng bán cổ phần cho nhàđầu tư trong nước và nước ngoài.
Phát triển kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác đa dạng, chuyển đổi hợp
tác xã cũ theo Luật hợp tác xãđạt hiệu quả thiết thực. Phát triển hợp tác xã kinh
doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành để kinh doanh phù hợp quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá .
Kinh tế cả thể và tiểu chủở nông thôn và thành thị cần được Nhà nước tạo
điều kiện để phát triển
Kinh tế tư bản tư nhân phải được khuyến khích phát triển không hạn chế về
quy mô trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm, cần được khuyến khích
hợp tác liên doanh với nhau và liên doanh với doanh nghiệp Nhà nước để chuyển
thành doanh nghiệp cổ phần hay bán cổ phần cho người lao động.
Kinh tế tư bản Nhà nước cần được phát triển dưới các hình thức liên doanh,
liên kết giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước phát triển
đa dạng.

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Là một bộ phận của kinh tế Việt Nam Khu
vực kinh tế này ngày càng phát triển mạnh mẽở Việt Nam, điều đó rất phù hợp với
mong muốn của Đảng và Nhà nước nhưng bên cạnh việc khuyến khích phát triển
thì chúng ta cũng cần phải chúýđến quyền công dân của lao động trong các doanh
nghiệp này đồng thời phải cảnh giác những âm mưu chính trịđược nguỵ trang trong
việc đầu tư kinh tếở Việt Nam.
2.3.Giữ vững chính trị và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Để giữ vững chính trị thìĐảng và Nhà nước phải quan tâm nhiều hơn nữa
đến đời sống hàng ngày của nhân dân, phải luôn chúýđến những kẻ sống lưu vong
trong nước nhằm gây dựng các tổ chức chống phá cách mạng nước ta ví dụ như tổ
chức tôn giáo. Đảng phải thường xuyên duy trìđược khối liên minh công - nông –
trí thức, phải cùng với các tổ chức chính trị, các đoàn thể như hội cựu chiến binh,
18
18
hội phụ nữ, đoàn thanh niên, mặt trận tổ quốc… thường xuyên tổ chức các hoạt
động văn hoá nhằm tuyên truyền vềđường lối chính sách đúng đắn của Đảng, phải
tạo được lòng tin ngày càng sâu sắc của dân vào Đảng.e
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi pháp luật phải được thực hiện nghiêm chỉnh và
thống nhất: “Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật” phải trở thành đạo đức
hàng đầu, thành nếp sống tốt đẹp của mọi người. Do đó, để hệ thống pháp luật
được hoàn chỉnh hơn thì cùng với việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật thì
chính nhân dân phải nghiêm túc chấp hành pháp luật.
3. Hoàn thiện bộ máy Nhà nước và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước
của Đảng
Muốn hoàn thiện bộ máy Nhà nước và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước
thì chúng ta phải thực hiện cải cách bộ máy hành chính, phải tăng cường khả năng
kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước, phải đổi mới pháp chế và phải hoàn thiện chính
sách về thuế, tiền lương, tiền tệ, tín dụng và ngân hàng.
Về cải cách bộ máy hành chính: Bộ máy hành chính của Nhà nước Việt Nam
còn chứa nhiều bất cập, để phù hợp với điều kiện nền kinh tế qua độ hiện nay buộc

Nhà nước ta phải tiến hành cải cách bộ máy hành chính, các cơ quan quản lý. Đảng
và Nhà nước phải tăng cường quản lýđội ngũ cán bộ, đảng viên. Phải chăm lo công
tác đào tạo, kể cả việc đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ, công chức Nhà nước theo yêu
cầu, nhiệm vụ của tình hình mới. Đảng phải lãnh đạo công tác quy hoạch và chiến
lược phải thực hiện tinh chế cơ quan Nhà nước để tránh cồng kềnh mà kém hiệu
quả.
Đối với chính sách về lương thì phải có những chính sách đãi ngộ hợp pháp
và thoảđáng để người lao động an tâm gắn bó với công sở. Phải có thay đổi về mức
lương tối thiểu vì chính sách này chưa thay đổi từ tháng 7 năm 1997
Chính sách tiền tệ, tài chính, ngân hàng: những chính sách này có tác động
trực tiếp đến việc huy động vốn cho đầu tư – nhân tốđầu vào quan trọng của sản
xuất. Do đó phải bám sát vào diễn biến của thị trường, phải thông qua cho vay, huy
động tiền gửi định ra các chính sách tiền tệđểđiều tiết giá cả và nhu cầu tiền tệđể
19
19
hỗ trợ thêm vào việc tăng trưởng nhanh vàổn định nền kinh tế. Ngân hàng Nhà
nước phải tham gia xây dựng những chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội
và các chính sách có liên quan đến hoạt động tiền tệ, tín dụng cho phù hợp nhất với
điều kiện kinh tế nước ta hiện nay.
20
20
KẾTLUẬN
Qua cơ sở lý luận và qua thực tiễn đã nêu ở trên, có thể khẳng định lại một
lần nữa rằng con đường quáđộ lên CNXH bỏ qua TBCN ở Việt Nam là hoàn toàn
đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan. Đó là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo
chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong tiến trình thực hiện
quáđộở nước ta thìĐảng và Nhà nước đóng một vai trò quan trọng hàng đầu, Đảng
lãnh đạo và Nhà nước quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội . Muốn thực
hiện thành công nhiệm vụ của thời kì quáđộ thìĐảng và Nhà nước phải đưa đất
nước phát triển theo con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá có như thế chúng ta

mới xây dựng được cơ sở vật chất cho nền kinh tế quáđộ sssmới giảm bớt khoảng
cách lạc hậu về khoa học công nghệ và kĩ thuật so với các nước tiên tiến trong khu
vực và thế giới. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước
trong thời kì quáđộ, chúng ta đãđạt được những thành tựu quan trọng cả về kinh tế,
chính trị và xã hội. Nhưng bên cạnh đó cũng chưa tránh khỏi những hạn chế, lúng
túng trong quản lý, trong thực hiện cơ chế, chính sách và những tiêu cực của nền
kinh tế thị trường. Nhưng em hy vọng với những giải pháp thích hợp thì những hạn
chếđó sẽ sớm được khắc phục để nước ta có những bước tiến nhanh hơn trên con
đường quáđộ lên CNXH.
21
21

TÀILIỆUTHAMKHẢO
Giáo trình kinh tế chính trị .
Giáo trình lịch sử kinh tế quốc dân,lịch sử các học thuyết kinh te .á
Lênin toàn tập:”Bàn về thuế lương thực”-chính sách kinh tế mới (NEP)
Tạp chí lí luận cộng sản.
Tạp chí cộng sản.
Tạp chí kinh tế và thời đại.
Tạp chí triết học.
Văn iện đậi hội Đảng.
Và một số sách báo khác.
22
22

×