Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Đề tài: Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam hiện nay, các giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.8 KB, 27 trang )

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài
Thực trạng cổ phần hoá các doanh
nghiệp nhà nước ở Việt nam hiện nay,
các giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá
1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
I . Tính cấp thiết của đề tài :
Tháng 11-2006 vừa qua đã đánh dấu một bước ngoặt lớn của nền kinh tế Việt
Nam.Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO. Là thành viên của tồ
chức,Việt Nam có được những thuận lợi cơ hội để phát triển nền kinh tế của mình,
song nó cũng là những thức thách cực kì lớn đối với một đất nước có nền kinh tế đang
phát triển như Việt nam.
Gia nhập WTO Việt Nam cần có cái nhìn sâu hơn rộng hơn về kinh tế trong nước
và quốc tế , đặc bịêt là các vấn đề còn tồn tại cần được giải quyết một cách triệt để ,
giúp Việt Nam tự tin hơn trên trường quốc tế .Việt Nam đã đổi mới cơ chế từ năm
1996 đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều thành tựu quan trọng : trong thời kì
thực hiện chiến lược 10 năm 1991 đến 2000, nền kinh tế thoát ra khỏi khủng hoảng ;
trong thời kỳ 5 năm đầu tiên thực thực hiện chiến lược 10 năm 2001_2010 , nền kinh
tế dường như “ không chệch hướng “ khỏi quỷ đạo đạt tốc độ tăng trưởng hằng năm
tương đối cao . Ngoài ra còn thành tích khá ấn tượng về ổn định kinh tế vĩ mô , về tốc
độ tăng giá trị xuất khẩu hằng năm, về xoá đói giảm nghèo … chính những thành tích
đạt được và vượt kế hoạch ấy đôi khi đã làm dịu đi nỗi băn khoăn về một số chỉ tiêu khác
của đổi mới kế hoạch ,một trong nhưỡng chỉ tiêu đó là cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước .
Chính phủ đã đề ra chính sách thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
được 15 năm , tuy nhiên tiến trình vẫn còn rất chậm chạp đến nay gây cản trở không
nhỏ tới việc phát triển nền kinh tế , tăng thêm thử thách cho Việt Nam khi là thành
viên WTO bởi vì số lượng các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam là khá lớn mà
những doanh nghiệp này hiện đang kinh doanh kết quả không mấy lợi nhuận ,chưa kể


2
đến các doanh nghiệp bị thua lỗ nặng nề ,nhà nước đã phải bù lỗ với lượng tiền không
nhỏ làm cho nền kinh tế không những không phát triển được mà còn bị trì trệ ,là mối
lo ngại lớn của Việt Nam khi đứng trước một thị trường “mở" như hiện nay.
II . Mục đích ý nghĩa của việc chọn đề tài :
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà
Nước nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước. đây là một vấn
đề đang được đẩy mạnh ở nước ta , đặc biệt khi mà Việt Nam đã gia nhập WTO thì
việc nghiên cứu nó lại có ý nghĩa to lớn hơn .
Nghiên cứu vấn đề nóng này để có được sự hiểu biết cần thiết về nó, để đưa ra
lí luận thực sự đúng đắn, góp phần nhỏ kiến thức của bãn thân vào việc làm sáng tỏ
vấn đè thực trạng và giải pháp. Góp thêm một tiếng nói, một sự nhận định ,giúp tuyên
truyền phần nào mọi người thấy được lợi ích của việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước, để đồng lòng chung sức, ủng hộ chính sách của đảng và nhà nước .
Sau khi trình bày về tính cấp thiết, mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu đề
tài: “Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam hiện nay, các
giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá” làm đề tài đề án kinh tế chính trị.
3
PHẦN NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ CỔ PHẦN HOÁ CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC HIỆN NAY .
1. Bản chất kinh tế của hình thái cổ phần .
So với các hình thái sở hữu khác trong khuôn khổ của kinh tế thị trường, hình
thái cổ phần ra đời muộn hơn cả. Điều đó tự nó hàm nghĩa rằng, sự ra đời của hình thái
cổ phần phải dựa trên những tiền đề vật chất và thiết chế kinh tế nhất định. Đó là sự
phát triển ở mức độ cao của sức sản xuất xã hội cũng như mức độ hoàn thiện của cơ
chế của các quan hệ hàng hóa - tiền tệ tương ứng với nó. Về mặt lô-gíc, có thể tóm tắt
các bước phát triển của các hình thái sở hữu tiến đến hình thái cổ phần đại thể là: từ
hình thái kinh doanh một chủ, phát triển lên hình thái kinh doanh chung vốn (hình thái
kinh doanh hợp tác xã của những người sản xuất hàng hóa nhỏ và hình thái công ty

chung vốn của các nhà tư bản), và cuối cùng là hình thái công ty cổ phần. Các bước
phát triển trên cũng diễn ra một cách tuần tự về phương diện lịch sử, tuy rằng giữa các
bước chuyển tiếp của các giai đoạn không hề có một ranh giới rạch ròi nào cả. Và do
sự phát triển không đều giữa các nền kinh tế cũng như giữa các lĩnh vực khác nhau của
mỗi nền kinh tế, ngày nay ở bất cứ quốc gia nào cũng có một kết cấu đa sở hữu với sự
có mặt của tất cả mọi loại hình thức sở hữu nói trên. Song điều đặc biệt đáng chú ý là,
càng ở những nền kinh tế có trình độ phát triển cao thì vai trò của hình thái cổ phần
càng lớn. Ở những nền kinh tế này, tuy số lượng những công ty cổ phần nhỏ hơn rất
nhiều so với các loại hình công ty khác, nhưng nó lại chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng
nguồn vốn đầu tư và quy mô kinh tế mà nó chi phối trong toàn bộ nền kinh tế.
Ngay từ thế kỷ trước, Ph.Ăng-ghen (năm 1895) - trong phần bổ sung cho tập III
bộ Tư bản của C.Mác - đã đánh giá về vai trò và triển vọng của hình thái cổ phần như
sau: “Hãng cá thể thông thường ngày càng chỉ là một giai đoạn chuẩn bị nhằm đưa xí
nghiệp tới một trình độ đủ lớn để trên cơ sở xí nghiệp đó mà “thành lập” công ty cổ
phần. Hơn nữa, điều đó không chỉ đúng với các ngành công nghiệp mà còn diễn ra ở
khắp mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế: thương nghiệp, ngân hàng và các cơ quan tín
dụng, nông nghiệp và “hết thảy mọi khoản đầu tư tư bản ra nước ngoài đều tiến hành
dưới hình thức cổ phần”.
Mức độ phổ biến của hình thái cổ phần trong điều kiện của nền kinh tế thị
trường không phải chỉ là do nó có ưu thế tuyệt đối trong việc tập trung vốn của xã hội
cho những mục tiêu kinh doanh, mà còn bao hàm trong đó những điểm nổi bật sau:
- Dưới hình thức cổ phần những người đồng sở hữu công ty (những cổ đông)
chỉ được hưởng lợi và chỉ phải chịu trách nhiệm có giới hạn ở khuôn khổ số tiền mà họ
đã bỏ ra để mua cổ phiếu của công ty. Như vậy, một mặt về pháp lý, họ chỉ có quyền
nhân danh cá nhân mình chịu trách nhiệm về phần tài sản của mình đã góp vào công ty
theo luật định. Mặt khác, qua thị trường chứng khoán, sự di chuyển của các cổ phiếu
với tư cách là hàng hóa vốn đầu tư, công chúng (các cổ đông) đã “bỏ phiếu tín nhiệm”
có sự bảo đảm “bằng vàng” của mình cho những ngành, những lĩnh vực, những công
ty mà họ cho là có triển vọng nhất. Đồng thời, cơ chế này còn giúp mỗi người đầu tư
4

phân tán được nguồn vốn có hạn của mình vào nhiều lĩnh vực để tránh những rủi ro
khó tránh trong kinh doanh. Vậy là sự tham gia có tính chất xã hội của công chúng vào
các quan hệ sở hữu và quá trình quản lý, lựa chọn cơ cấu ngành đã trở thành những
gợi ý thực tiễn thiết thực đối với những nhà hoạch định chính sách kinh tế ở tầm vĩ
mô.
- Hình thái cổ phần đã thực hiện việc tách quyền sở hữu với quyền quản lý và
sử dụng vốn kinh doanh nên đã tận dụng được một cách tốt nhất nguồn tài nguyên
kinh doanh khan hiếm của xã hội thông qua chế độ “thuê” các nhà quản trị doanh
nghiệp chuyên nghiệp, do các cổ đông, tức các chủ nhân thật sự của vốn đầu tư tiến
hành lựa chọn. Do vậy, tính chất vô danh hay nặc danh của hình thái cổ phần hoàn
toàn khác với tính chất vô chủ ở một trong những điểm quan trọng là nó gắn với cơ
chế sử dụng được triệt để nguồn tài nguyên kinh doanh của xã hội thay vì để lãng phí
chúng, và do đó mà đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn.
- Việc đầu tư tư bản ra nước ngoài dưới hình thái cổ phần đã trực tiếp mở rộng
tính chất xã hội hóa của nền sản xuất xã hội vượt ra khỏi phạm vi mỗi quốc gia, khiến
cho xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế mở rộng ngay từ trong bản thân quá trình
sản xuất.
Như vậy, trong mối tương quan với các hình thức kinh tế khác trong khuôn khổ
của kinh tế thị trường, hoàn toàn có thể coi hình thái cổ phần là loại hình tổ chức đạt
trình độ xã hội hóa cao nhất, thích ứng với trình độ phát triển rất cao của sức sản xuất
xã hội. Về điều này, C.Mác đã từng nhận xét rằng, với việc thành lập những công ty cổ
phần “có những xí nghiệp trước kia là của chính phủ, nay trở thành những xí nghiệp xã
hội” và các công ty cổ phần “trực tiếp mang hình thái tư bản xã hội (tư bản của những
cá nhân trực tiếp liên hiệp lại với nhau) đối lập với tư bản tư nhân; còn những xí
nghiệp của nó biểu hiện ra là những xí nghiệp xã hội đối lập với những xí nghiệp tư
nhân”. Thêm nữa, đây “là điểm quá độ tất nhiên để tư bản lại trở thành sở hữu của
những người sản xuất, nhưng không phải với tư cách là sở hữu tư nhân của những
người sản xuất riêng lẻ nữa, mà với tư cách của những người sản xuất liên hiệp, thành
sở hữu xã hội trực tiếp. Mặt khác, các công ty cổ phần cũng là điểm quá độ để biến tất
cả những chức năng trong quá trình tái sản xuất cho đến nay còn gắn liền với quyền sở

hữu tư bản, đơn thuần thành những chức năng của những người sản xuất xã hội”. Điều
này có nghĩa là, theo cách tiếp cận của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ
nghĩa Mác thì “chế độ cổ phần là sự thủ tiêu công nghiệp tư nhân trên cơ sở chính
ngay bản thân chế độ tư bản chủ nghĩa; nó càng lan rộng ra và càng bao trùm những
ngành sản xuất mới, thì càng thủ tiêu công nghiệp tư nhân”. Nhân khi biên tập để xuất
bản bản thảo tập thứ III bộ Tư bản của C.Mác, đến vấn đề này, ngay từ năm 1894,
Ph.Ăng-ghen đã viết thêm vào: “Từ khi Mác viết những dòng này cho đến nay, người
ta đều biết rằng nhiều hình thái mới về xí nghiệp công nghiệp đã phát triển, đấy là
công ty cổ phần ở bậc 2 và bậc 3. Tốc độ mỗi ngày một lớn mà ngày nay, người ta có
thể đẩy nhanh sản xuất ở trong tất cả các ngành của nền đại công nghiệp ”
5
Với lô-gíc ấy, thật không khó khăn gì khi thấy rằng, trong các sách báo kinh tế
hiện đại, nhiều khi người ta bắt gặp các phân tích, đánh giá về một thứ “chủ nghĩa tư
bản nhân dân” như là một đặc điểm quan trọng của nền kinh tế thị trường hiện đại. Vì
nhiều lý do, không nhất thiết phải sẻ chia với uyển ngữ này, nhưng lại không phải vì
thế mà phủ nhận được một thực tế là, việc đầu tư ở quy mô quảng đại công chúng
thông qua thể thức của loại hình “công ty vô danh có cổ phần” là rất có ý nghĩa đối với
thu nhập và cuộc sống của bản thân những người tham gia đầu tư vào công ty này.
Tóm lại, trong khuôn khổ của cơ chế kinh tế thị trường, hình thái cổ phần mang
trong mình nó tính chất xã hội hóa sản xuất sâu sắc, là kiểu tổ chức sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển rất cao của lực lượng sản xuất và chiếm vị trí ưu thế, phổ biến
trong các nền kinh tế thị trường hiện đại. Theo nghĩa này, bất kỳ kiểu tổ chức nào nhân
danh sự xã hội hóa của lực lượng sản xuất, đều cần phải xem hình thái cổ phần như
một trong những hình thái tổ chức sản xuất quan trọng chủ yếu của chế độ kinh doanh.
2. Những vấn đề của cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước
a. Điều kiện cổ phần hoá
- Đối tượng cổ phần hóa. Nói đến đối tượng cổ phần hóa là nói đến việc lựa chọn
doanh nghiệp nhà nước nào để thực hiện cổ phần hóa. So với quy định ban đầu, chúng
ta đã bổ sung đối tượng cổ phần hóa là các doanh nghiệp có quy mô lớn, các tổng công
ty nhà nước. Tuy vậy cho đến nay, 77% số doanh nghiệp đã cổ phần hóa chỉ có quy

mô vốn dưới 10 tỉ đồng. Riêng đối với loại doanh nghiệp cổ phần hóa mà Nhà nước
không giữ tỷ lệ nào trong vốn điều lệ thì đều là doanh nghiệp nhỏ có vốn nhà nước
dưới 1 tỉ đồng và kinh doanh kém hiệu quả. Loại doanh nghiệp nhỏ này chiếm gần
30% số doanh nghiệp mà Nhà nước thực hiện cổ phần hóa.
Sự lựa chọn các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa như vậy đã làm chậm tiến độ
thực hiện chủ trương cổ phần hóa; các doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện được rõ
những ưu thế của doanh nghiệp đã cổ phần hóa với những doanh nghiệp chưa cổ phần
hóa, chưa thực hiện được các mục tiêu cổ phần hóa đề ra.
- Cơ cấu vôn điều lệ. Tỷ lệ cổ phần do Nhà nước giữ ở các doanh nghiệp đã cổ
phần hóa như sau: nắm giữ cổ phần chi phối trên 50% ở 33% số doanh nghiệp; dưới
50% số vốn ở 37% số doanh nghiệp và không giữ lại tỷ lệ % vốn nào ở gần 30% số
doanh nghiệp.
Xem xét cụ thể hơn có thể thấy: số vốn nhà nước đã được cổ phần hóa chỉ mới
chiếm 12%, và ngay trong số vốn này, Nhà nước vẫn nắm khoảng 40%, vì thế số vốn
mà Nhà nước cổ phần hóa được bán ra ngoài mới chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng
3,6%).
Với cơ cấu vốn nhà nước đã cổ phần hóa như trên có thể thấy bức tranh cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay và hiểu rõ hơn khái niệm cổ phần “chi
phối” của nhà nước.
6
- Cơ cấu cổ đông. Cổ đông trong các doanh nghiệp đã cổ phần hóa là cán bộ, công
nhân viên nắm 29,6% cổ phần; cổ đông là người ngoài doanh nghiệp nắm 24,1% cổ
phần; cổ đông là Nhà nước nắm 46,3% cổ phần.
Nét đáng chú ý về cơ cấu cổ đông là các nhà đầu tư chiến lược trong nước khó mua
được lượng cổ phần đủ lớn để có thể tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp, còn
nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng về vốn, công nghệ, có năng lực quản lý kinh
doanh cũng chỉ được mua số lượng cổ phần hạn chế. Điều này làm cho các doanh
nghiệp đã cổ phần hóa rất khó hoạt động có hiệu quả, nhất là trước sức ép cạnh tranh ở
cấp độ quốc tế, khi nước ta đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO).

b. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam có những đặc điểm khác với
tính quy luật chung của các nước
- Các doanh nghiệp mà Việt Nam thực hiện cổ phần hóa được hình thành trong quá
trình thực hiện công hữu hóa, tập thể hóa nền kinh tế trước đây. Điều này khác với các
doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước phát triển: là kết quả của quá trình
phát triển lực lượng sản xuất đã vượt quá tầm của sở hữu tư nhân, đòi hỏi phải mở
rộng quan hệ sở hữu.
- Các doanh nghiệp mà nước ta thực hiện cổ phần hóa vốn tồn tại lâu năm trong cơ
chế bao cấp và kế hoạch của Nhà nước và mới làm quen với cơ chế thị trường, khác
với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước là đã tồn tại và phát triển trong
cơ chế thị trường, cạnh tranh.
- Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa chủ yếu được tổ chức và
hoạt động theo yêu cầu và kế hoạch của Nhà nước, khác với các doanh nghiệp thực
hiện cổ phần hóa ở các nước là tổ chức và hoạt động vì lợi nhuận tối đa của bản thân
và tuân theo quy luật thị trường.
- Lý do chính của chủ trương cổ phần hóa ở nước ta là các doanh nghiệp nhà nước
hoạt động kém hiệu quả, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, khác với lý
do thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp ở các nước phát triển là chuyển từ giai đoạn
tập trung tư bản sang giai đoạn tập trung vốn xã hội (trong và ngoài doanh nghiệp) để
nâng cao chất lượng và quy mô sản xuất trong cạnh tranh.
3. Thành tựu đạt được .
Quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước trên thực tế được triển khai trên
nhiều bình độ, trong đó nổi lên một xu hướng được coi là chủ lưu: đổi mới, sắp xếp lại
các doanh nghiệp nhà nước. Trong chương trình “đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp
nhà nước" thì ai cũng biết, cổ phần hóa các doanh nghiệp là một nội dung được coi là
chủ yếu. Chương trình sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước được khởi động từ đầu
những năm 1990 đến nay đã làm được nhiều việc; trong đó ấn tượng nhất là số lượng
doanh nghiệp nhà nước từ hơn 12 nghìn năm 1992 đã giảm xuống còn gần 2.200 (9-
2006); trong đó, hơn 1.500 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, 355 doanh
7

nghiệp quốc phòng an ninh và sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, số còn
lại là các nông, lâm trường quốc doanh, với tổng số vốn nhà nước gần 260 nghìn tỷ
đồng. Một phần trong số này nằm trong 105 tập đoàn và tổng công ty (trong đó 7 tập
đoàn, 13 tổng công ty 91; 83 tổng công ty thuộc các bộ, ngành, địa phương và 2 tổng
công ty thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than - khoáng sản Việt Nam).
Đóng góp vào mức giảm số lượng gần 10 nghìn doanh nghiệp nhà nước từ năm
1992 đến nay, hình thức cổ phần hóa chỉ chiếm 1/4 (3.060 doanh nghiệp), còn 6.740
doanh nghiệp (3/4 số doanh nghiệp) giảm đi qua các hình thức chuyển đổi, sáp nhập
và một phần không đáng kể bị giải thể.
Theo đánh giá của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, nhìn chung
các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều nâng cao được hiệu quả sản xuất, kinh doanh
với các mức độ khác nhau. Dựa trên báo cáo của các bộ, ngành, địa phương về kết quả
hoạt động của 850 doanh nghiệp cổ phần hóa đã hoạt động trên 1 năm cho thấy, vốn
điều lệ bình quân tăng 44%, doanh thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận thực hiện bình
quân tăng 139,76%. Đặc biệt, có tới trên 90% số doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt
động kinh doanh có lãi, nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%, thu nhập bình quân của
người lao động tăng 12%, số lao động tăng bình quân 6,6%, cổ tức bình quân đạt
17,11%

.
Báo cáo tình hình thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại phiên họp
thứ 43 của ủy ban Thường vụ Quốc hội (ngày 21-9-2006) nhận định:
"Qua hơn 15 năm triển khai, chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã
đạt được những hiệu quả về kinh tế, chính trị, xã hội nhất định, tạo sự rõ ràng về quyền
lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của từng thành phần sở hữu, từng cổ đông; xoá bỏ cơ chế
phân phối bình quân; hình thành phương thức phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ góp vốn,
giảm được sự can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của các cấp chính quyền, các
cơ quan quản lý nhà nước; tạo cơ chế quản lý tự chủ, tự chịu trách nhiệm nhằm thúc
đẩy doanh nghiệp năng động hơn; tạo cơ sở pháp lý và vật chất để người lao động xác
lập và nâng cao vai trò làm chủ, gắn bó máu thịt với doanh nghiệp. Kết quả nổi bật của

cổ phần hoá là năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước được nâng lên
đáng kể. Họ phải tự tìm kiếm cơ hội, đối tác kinh doanh, chủ động đổi mới công nghệ,
tiết kiệm tối đa các chi phí để tăng doanh thu. Cổ phần hoá cũng đã huy động thêm
vốn của xã hội đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh, tạo cơ hội việc làm cho
người lao động. Dưới góc độ phân công lao động trong xã hội, cổ phần hoá đã thật sự
giải phóng sức lao động từ chỗ đông mà không mạnh, ỷ lại, dựa dẫm, thụ động chuyển
sang chủ động, tích cực hơn trong nền kinh tế nhiều thành phần với thái độ đầy đủ
hơn, trách nhiệm hơn, góp phần tăng thu nhập cho xã hội, cho Nhà nước và cho người
lao động".
Và cũng theo đánh giá của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, sau
quá trình thực hiện sắp xếp, số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm nhưng vẫn tiếp tục
giữ vai trò chi phối những ngành, lĩnh vực then chốt. Khu vực doanh nghiệp nhà nước
vẫn đóng góp gần 40% GDP và 50% tổng thu ngân sách nhà nước

.
8
Đặc biệt, Quá trình cổ phần hoá 2005 có những chuyển biến rõ rệt. Số lượng
doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hoá tăng không nhiều nhưng phần đông
trong số đó là các doanh nghiệp làm ăn khá, có quy mô vốn lớn, hấp dẫn công chúng
đầu tư. Trong năm qua, khá nhiều doanh nghiệp “có tên tuổi” hoặc đã lên sàn (chứng
khoán) hoặc đã bước đầu phát hành cổ phiếu: Về điện lực có Thuỷ điện Vĩnh Sơn
(Sông Hinh), Điện lực Khánh Hoà Về công nghệ thực phẩm có Vinamilk, Kinh Đô
Một số Công ty cổ phần cũng đã phát hành thêm cổ phiếu ra công chúng qua thị
trường chứng khoán như: Sacombank, Exibank, Bảo hiểm Dầu khí Nhiều “đại gia”
khác như: Vina Phone, Mobi Fone, Thuỷ điện Thác Bà cũng đang rục rịch chuẩn bị
phát hành cổ phiếu. Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, sau nhiều năm thai nghén,
cũng đã được khai trường. Tất cả những động thái trên đã tạo nên không khí sôi động
cho thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm, chỉ số Vietnam Index được duy trì
ổn định ở mức cao, thị trường OTC có bước khởi phát
Trong một diễn biến mới nhất, cuối tháng 11 vừa qua, Ngân hàng Ngoại thương

Việt Nam - ngân hàng được đánh giá là lớn nhất Việt Nam đã tổ chức họp báo giới
thiệu về đề án phát hành trái phiếu tăng vốn. Đề án này đã được phê duyệt ngày
16/11/2005 bằng Quyết định số 1652/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước. Théo đó, vào trung tuần tháng 12, ngân hàng này sẽ tổ chức đấu thầu lãi suất để
phát hành 1.200 tỷ đồng trái phiếu. Trái phiếu được phát hành là trái phiếu ghi sổ, chi
phát hành cho tổ chức và cá nhân Việt Nam, có mệnh giá (bằng VND), có lãi suất cố
định với thời hạn 7 năm. Người nắm giữ trái phiếu có quyền sử dụng toàn bộ giá trị
trái phiếu để mua cổ phiếu khi Ngân hàng Ngoại thương tiến hành cổ phần hoá. Trái
phiếu lần này dự kiến sẽ được đưa vào giao dịch trên thị trường chứng khoán vào quý
I/2006. Như vậy, bằng sự kiện này, công cuộc cổ phần hoá Vietcombank đã chính thức
được khởi động. Sự kiện này chắc chắn sẽ thu hút sự quan tâm lớn của các nhà đầu tư
trong cũng như ngoài nước. Cùng với Vietcombank, các ngân hàng thương mại lớn
khác như Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng phát
triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long cũng đang ráo riết xúc tiến các công việc chuẩn
bị để tiến hành cổ phần hoá trong một tương lai gần.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, hầu hết các doanh nghiệp nhà nước
sau cổ phần hoá đều làm ăn khấm khá hơn (hơn 90% kinh doanh có lãi). Hiệu quả
quản lý và năng lực kinh doanh được cải thiện rõ rệt. Thu nhập và đời sống cán bộ
công nhân viên từng bước được tăng lên. Đó là những dấu hiệu đáng mừng.
Về phía nhà nước, trong năm 2005, Chính phủ, Bộ Tài chính liên tiếp có những
quyết định, công văn chỉ đạo “sát sạt” nhằm thúc đẩy cổ phần hoá nhanh, mạnh hơn
nữa. Bên cạnh đó, hệ thống các văn bản về cổ phần hoá cũng dần được bổ sung, hoàn
thiện. Đáng đề cập nhất là các văn bản hướng dẫn về xử lý tài chính, xác định giá trị
doanh nghiệp cổ phần hoá (Nghị định 187 và Thông tư 126). Lãnh đạo một số bộ,
ngành cũng đã thể hiện quyết tâm và vạch ra một lộ trình tương đối rõ ràng cho quá
trình cổ phần hoá của ngành mình. Có thể nhắc đến Tổng Công ty Điện lực, VNPT
như những ví dụ.
4. Hạn chế
Gam màu chủ đạo của bức tranh cổ phần hoá vẫn là màu xám hàm chứa trong
nó nhiều vấn đề đáng chú ý.

Thứ nhất, quy mô cổ phần hoá vẫn còn nhỏ, tốc độ vẫn còn chậm và còn
nhiều bất cập
9
- Quy trình cổ phần hóa (từ xây dựng đề án đến thực hiện đề án) chưa sát thực
tế, còn rườm rà, phức tạp nên đã kéo dài thời gian cổ phần hóa. Bình quân thời gian để
thực hiện cổ phần hóa một doanh nghiệp mất 437 ngày, tổng công ty mất 554 ngày.
Sau khi cổ phần hóa, rất nhiều doanh nghiệp vẫn hoạt động như cũ; quản lý nhà nước
vẫn chi phối mọi hoạt động, kể cả trong các doanh nghiệp mà vốn nhà nước chưa tới
30% vốn điều lệ doanh nghiệp; bộ máy quản lý cũ trong nhiều doanh nghiệp vẫn
chiếm giữ đến 80%.
Thực tiễn 15 năm thực hiện chủ trương cổ phần hóa ở nước ta cho thấy: chúng
ta còn chậm trễ trong việc tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế khi chuyển sang kinh tế thị
trường và trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng.
Như vậy, doanh nghiệp nhà nước do chế độ công hữu hóa xã hội chủ nghĩa
trước đây để lại đang là một bài toán khó khi chúng ta chuyển sang kinh tế thị trường.
Những vấn đề này đang trở thành một thách thức đối với công tác lý luận, đổi mới tư
duy, công tác tổ chức và quản lý nền kinh tế quốc dân
Sau hơn 10 năm, chúng ta mới cổ phần hoá được khoảng 10% vốn nhà nước tại
các doanh nghiệp nhà nước. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá
trong thời gian qua là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong số gần 3.000 doanh nghiệp
đã được cổ phần hoá chỉ có khoảng 30% là có quy mô vốn trên 5 tỷ đồng. Như vậy rõ
ràng là tình trạng độc quyền của nhà nước trong quản trị doanh nghiệp về cơ bản vẫn
chưa được xoá bỏ. Đây là nguyên nhân chính tiếp tục kìm hãm sức phát triển của nền
kinh tế, làm giảm hiệu quả đầu tư như chúng ta đã nhiều lần đề cập.
Tiến trình cổ phần hoá ở hầu hết các lĩnh vực then chốt, những Tổng Công ty
“đỉnh” vẫn khá ì ạch. Cổ phần hoá Vietcombank - ngân hàng thương mại lớn nhất,
mạnh nhất Việt Nam luôn được nhắc đến như một “bước đột phá” nhưng tiếc thay vẫn
chưa bước ra khỏi giai đoạn chuẩn bị. Kế hoạch cổ phần hoá của nhiều Công ty, Tổng
Công ty lớn cũng đang trong tình trạng tương tự, nghĩa là liên tiếp bị trì hoãn từ năm
này qua năm khác với nhiều lý do khác nhau. Bên cạnh đó, nếu chịu khó quan sát một

chút sẽ thấy cổ phần hoá các Công ty “màu mỡ” hầu như vẫn là cuộc “độc diễn” của
các đại gia, chưa có “đất” cho các nhà đầu tư đại chúng. Hay nói cách khác đi là có
tình trạng cổ phần hoá “khép kín” ở một số đơn vị mà báo giới đã không ít lần phản
ảnh như nhan đề của một bài viết đăng trên website của Đảng (ngày 21-9-2006). Bản
báo cáo nêu rõ: những năm gần đây, đặc biệt từ năm 2001, số lượng doanh nghiệp nhà
nước được cổ phần hóa tăng đáng kể, nhưng nhìn chung việc triển khai còn chậm. Số
doanh nghiệp được cố phần hóa tăng nhiều, nhưng số vốn mới chiếm 12% tổng số vốn
trong các doanh nghiệp nhà nước; nếu trừ đi phần vốn nhà nước còn giữ lại gần 50%
trong các doanh nghiệp cố phần hóa, thì thực chất tỷ lệ trên chỉ chiếm khoảng 6%. So
với mục tiêu của Nghị quyết Trung ương 9 khoá IX thì còn chậm, nhất là các doanh
nghiệp có quy mô lớn, các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Tiến độ
cổ phần hóa không đồng đều giữa các bộ, ngành, địa phương; một số bộ, ngành chưa
hoàn thành theo đề án đã được phê duyệt
Như vậy, tuy số lượng doanh nghiệp có thể nhiều, nhưng xét về chỉ tiêu vốn đã
được cổ phần hóa thì coi như không đáng kể, thậm chí chưa xứng với một chương
10
trình lớn ở tầm quốc gia, bởi vì cổ phần hóa dường như ít ảnh hưởng tới nguyên tắc thị
trường của các doanh nghiệp nhà nước nói riêng và toàn bộ cơ chế vận hành của nền
kinh tế nói chung. Điều này cũng có nghĩa là, mục tiêu chính của sắp xếp lại các doanh
nghiệp nhà nước là góp phần thúc đẩy nhanh sự chuyển đổi cơ chế của nền kinh tế,
làm cho nguyên tắc thị trường thay thế nguyên tắc kế hoạch hóa tập trung, vẫn chưa
đạt được như mong đợi.
Thứ hai, bộc lộ một số “vấn đề” ở một số doanh nghiệp hậu cổ phần hoá
Một số doanh nghiệp sau cổ phần hoá vẫn nằm trong tình trạng “bình thì mới
nhưng rượu vẫn cũ”, nghĩa là ít có sự thay đổi về cơ cấu và cơ chế quản lý, năng lực
điều hành đó là : “Sau khi cổ phần hóa, khoảng 81,5% giám đốc, 78% chức danh
phó giám đốc và kế toán trưởng không có sự thay đổi. Điều này cho thấy trên thực tế
là nhiều doanh nghiệp sau cổ phần hóa vẫn hoạt động như trước cả về tổ chức, tư duy,
công nghệ, quản lý và triết lý kinh doanh vẫn mang dáng dấp của doanh nghiệp nhà
nước. Nếu có thay đổi chỉ là giám đốc doanh nghiệp nhà nước cũ trở thành lãnh đạo

mới của công ty cổ phần, chưa có doanh nghiệp nào sử dụng cơ chế thuê giám đốc
điều hành”và tất nhiên là hiệu quả kinh doanh cũng không được cải thiện. Vẫn có tới
gần 10% doanh nghiệp hậu cổ phần hoá tiếp tục nằm trong tình trạng thua lỗ. Khá hài
hước nhưng không ngạc nhiên khi có Công ty cổ phần quyết định chia cổ tức bằng
chè, bằng nông sản
Một phần do nhận thức của các cổ đông nhỏ lẻ (cá nhân, cán bộ công nhân
viên ) chưa cao nên có tình trạng là họ hầu như không có thực quyền nào trong việc
kiểm soát phần vốn của mình cũng như thực thi đầy đủ các quyền cơ bản của cổ đông.
Do vậy, ở không ít Công ty cổ phần, thực quyền chi phối doanh nghiệp nằm trong tay
một số ít người có trách nhiệm và nắm được thông tin. Vì thế, hiện tượng lạm dụng
quyền lực vì lợi ích cá nhân là không thể tránh khỏi. Nhiều Công ty cổ phần nhiều năm
không tiến hành đại hội cổ đông, không công khai báo cáo tài chính Bi quan hơn, có
một số doanh nghiệp nhà nước loại “vừa vừa” sau khi được cổ phần hoá đang có nguy
cơ bị “tư hữu hoá”.
Mặt khác, tại nhiều doanh nghiệp nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi
phối những vẫn giữ tới hơn 51% số cổ phần. Vì vậy, sau khi cổ phần hoá, nhà nước
vẫn nắm giữ quyền quản lý doanh nghiệp và những “vết xe cũ” tiếp tục được lặp lại.
Cổ phần hoá chỉ có ý nghĩa thay đổi một phần sở hữu vốn mà chưa tạo ra sự biến đổi
về chất trong quản trị, điều hành. Việc khống chế vốn cổ phần của cổ đông là nhà đầu
tư nước ngoài trong các Công ty nhà nước được cổ phần hoá cũng là một hạn chế.
Thứ ba, Chính sách và quy trình cổ phần hóa ở nước ta, trên thực tế,vẫn dựa
trên quy mô cũ.
Vì vậy, từ khâu định giá tài sản doanh nghiệp, cho đến tổ chức quản lý sau khi
doanh nghiệp đã cổ phần hóa đều tồn tại nhiều vấn đề. Việc giải quyết vấn đề tài
chính trước, trong và sau khi cổ phần hóa còn nhiều bất cập như:
Xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa chưa đúng, gây nên thất thoát và
lãng phí tài sản nhà nước trong và sau quá trình cổ phần hóa. Việc xác định giá trị
doanh nghiệp trải qua hai giai đoạn khác nhau. Trong giai đoạn chưa có Nghị định
187: việc xác định giá trị doanh nghiệp do một Hội đồng hoặc doanh nghiệp tự đảm
nhận. Điều đó dẫn đến việc xác định thấp hoặc quá thấp giá trị doanh nghiệp, do đó,

11
phần lớn cổ phần rơi vào tay một nhóm người. Trong giai đoạn sau khi có Nghị định
187: sự thất thoát tài sản nhà nước đã được hạn chế, nhưng lại nảy sinh tình trạng liên
kết, gian lận trong đấu thầu.
Việc xử lý các khoản nợ tồn đọng gây nhiều khó khăn. Tính đến ngày 31-12-
2005, dư nợ cho vay đối với các công ty cổ phần vào khoảng 51.603 tỉ đồng. Đặc biệt,
việc xử lý nợ xấu đã mất rất nhiều thời gian do thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ
giữa các ngành ngân hàng, thuế, tài chính.
Chất lượng định giá doanh nghiệp của nhiều tổ chức cung ứng dịch vụ thẩm
định giá trị có độ tin cậy thấp. Mặt khác, quy chế lựa chọn, giám sát hoạt động tư vấn
và xác định giá trị doanh nghiệp chưa được quy định rõ, chưa gắn trách nhiệm của tổ
chức tư vấn, định giá với việc bán cổ phần.
Thứ tư, một thị trường chứng khoán chưa hoàn hảo
Chuyện rò rỉ thông tin từ chính các nhân vật có trách nhiệm của các Công ty
sắp niêm yết đang trở thành một vấn nạn nhức nhối. Hiện tượng “làm giá” đối với các
chứng khoán đang và sắp niêm yết cũng là một vấn đề. Có bình thường không khi giá
của những Công ty sắp niêm yết trên thị trường OTC cao gấp 4-5 lần so với mệnh
giá ? Bên cạnh những yếu tố “ngầm” có lẽ còn do “hiệu ứng tâm lý” của các nhà đầu
tư nữa. Nếu không có những liệu pháp thích hợp sẽ dễ dẫn tới hiện tượng “bong bóng
xà phòng” mà nhiều thị trường chứng khoán trên thế giới (và ngày cả thị trường chứng
khoán Việt Nam nữa) đã từng mắc phải.
Có một thực tế khác đang được mặc nhiên thừa nhận là hiện tượng các nhân
viên của Công ty chứng khoán sử dụng thông tin của thị trường, của khách hàng để
kinh doanh cho chính mình thay vì cho Công ty. Thực trạng đó đòi hỏi phải gióng lên
một hồi chuông về quy chuẩn đạo đức cho thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như
phải tiếp tục hoàn thiện các chế tài quản lý.
II. GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT HẠN CHẾ VÀ THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH CỔ
PHẦN HOÁ
1. Nguyên nhân còn tồn tại những hạn chế
+ Bên cạnh một số bộ nganh, địa phương, tổng công ty 91 đã coi trọng công tác cổ

phần hoá thì còn một số bộ ngành, địa phượng , tổng công ty vẫn còn chần chừ, chỉ nói
nhiều về khó khăn , vướng mắc mà ít tổ chức học tập , nghiên cứu kinh nghiệm của
những nơi đã làm tốt để giải thích ,thuyết phục và chỉ đạo các đợn vị trực thuộc cổ
phần hoá .
Các bộ, ngành, địa phương, tổng công ty 91 nhìn chung đều có đề án tổng thể sắp
xếp lại doanh ngiệp nhà nước thuộc phạm vi quản lí của mình, trong đó phân loại các
nhóm doanh nghiệp theo chỉ thị số 20/1998/CT-TTg. Nhưng đa số chưa có lộ trình và
12
kế hoạch hàng năm cụ thể về cổ phần hoá. khi chính phủ yêu cầu , các bộ tổng cục chỉ
đạo thực hiện cổ phần hoá một cách đối phó nặng về hình thức nên kết quả còn hạn
chế .
- Xét về cơ cấu doanh nghiệp được cổ phần hoá việc thực hiện cổ phần hoá chưa
được thực hiện đều khắp trong tất cả các lỉnh vực . Cụ thể là các doanh nghiệp được
cổ phần hoá chủ yếu là thuộc ngành công nghiệp, thương mại và xây dựng , số lượng
các doanh nghiệp cổ phần hoá trong các lỉnh vực khác rất ít . Do số lượng doanh
nghiệp được cổ phần hoá không cao , hơn nữa , các doanh nghiệp này chủ yếu là
doanh nghiệp vừa và nhỏ , trên 90% công ty cổ phần có vốn nhà nước dưới 10 tỷ
đồng , trong đó khoảng trên khoảng trên 75% có vốn dưới 5 tỷ đồng . mặt khác , nhà
nước vẫn còn gữi lại một tỷ lệ đáng kể cổ phần của mình trong các công ty cổ phần ,
nên việc cổ phần hoá nhìn chung chưa có tác động đáng kể đến việc cơ cấu lại vốn của
nhà nước tại các doanh nghiệp . Về cơ bản , chỉ có những doanh nghiệp nhà nước vừa
và nhỏ được cổ phần hoá . các doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn và các tổng công ty
hầu như chưa được đề cập . Chính vì vậy , các công ty cổ phần hình thành trên nên
doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá chủ yếu là công ty cổ phần quy mô nhỏ .
Các phương án cải cách chỉ mới tập trung vào việc thu gọn đầu mối, chỉ cổ phần
hoá những doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước không cần giữ 100% vốn của nhà
nước vẫn hoạt động trong những địa bàn không thật sự cần thiết , trong lúc đó , nhiều
tổng công ty quy mô còn nhỏ , mức nộp ngân sách thấp, vai trò mờ nhạt .
- Một số doanh nghiệp cổ phần hoá chỉ mới tập trung vào tiết kiệm chi phí, giảm
giá thành để tăng lợi nhuận , chia cổ tức , trong khi chưa chú trọng đến nhưng vấn đề

có ảnh hưởng đến hoạt động lâu dài của doanh nghiệp là thực hiện đổi mới công
nghệ, đầu tư vốn xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh , trong số các doanh nghiệp
được cổ phần hoá , bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả vẫn còn có
những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả chẳng hạn trong ngành nông nghiệp , có
một số doanh nghiệp nhiều năm không dám hoạt động vì càng hoạt động càng lỗ
.Không những thế ,gần đây ,các nhà quản lí đã nhận thấy có một số doanh nghiệp sau
khi được cổ phần hoá đã biến mất trên thương trường mặc dù số lượng doanh nghiệp
này không lớn song đây là hiện tượng tiêu cực, ảnh hưởng nhiều đến uy tín của doanh
nghiệp nhà nước cổ phần hoá .
- Việc thực hiện chính sách đối với người lao động có những bất cập .thực tế là
nhiều doanh nghiệp không đủ kinh phí để giải quyết chinh sách cho người lao động ,
không lo được việc làm cho họ . Ngược lại , ở một số đơn vị làm ăn có hiệu quả , có
phúc lợi để giải quyết chính sách trợ cấp mất việc do sắp xếp lại thì lao động không
muôn nghỉ theo chế độ . Chính vì vậy, tỷ lệ người lao động được giải quyết nghỉ theo
chế độ, sau khi doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ phần vẩn còn rất thấp
so với số lượng cần giải quyết . trong một số doanh nghiệp đã được cổ phần hoá, đặc
biệt là trong những doanh nghiệp có những lợi thế về vị trí địa lí đã xuất hiện một số
kẻ đầu cơ đã tìm cách mua lại những cổ phần mà những người lao động trong các
doanh nghiệp đã được mua với giá ưu đãi . người lao động do chưa có ý thức được ý
nghĩa của việc sở hữu cổ phần trong doanh nghiệp , đồng thời cũng không nắm được
giá trị thực của cổ phần mà mình sở hữu , nên đã bán cổ phần của mình lại cho những
13
kẻ đầu cơ để hưởng chênh lệch . điều này không những gây thiệt hại cho nhà nước ,
cho bãn thân những người lao động mà còn ảnh hưởng đến một trong những mục đích
quan trọng của cổ phần hoá là tạo động lực quản lí cho doanh nghiệp khi người lao
động trong doanh nghiệp thực sự là người chủ .
- Công tác tuyên truyền , vận động vẫn còn bị xem nhẹ nên chưa tạo ra được sự
quan tâm, hưởng ứng tích cực của xã hội đối với chủ trương cổ phần hoá . tỷ lệ bán cổ
phần ra xã hội còn rất thấp và chưa thành quy định bắt buộc . Ngược lại , pháp luật
còn khống chế tỷ lệ tối đa đợc mua cổ phần . các đối tượng là cán bộ quản lí chỉ được

mua cổ phiếu ưu đải ở mức bình quân cổ phiếu ưu đải trong doanh nghiệp cổ phần hoá
. Quy định về quyền được mua cổ phần lần đầu đối với cá nhân không quá 5-10% ;
đối với pháp nhân không quá 10-20% tổng số cổ phần đang là một hạn chế khả năng
mua cổ phần của cả người lao động trong doanh nghiệp lẫn các cá nhân , tổ chức kinh
tế , xã hội muốn đầu tư vào doanh nghiệp .
- Thủ tục xác định giá trị của doanh nghiệp nói chung còn rườm rà , thường phải
kéo dài, đặc biệt đối với các doanh nghiệp thuộc các bộ và tổng công ty 91. Theo trình
tự đã được quy định , doanh nghiệp tự tiến hành xác định doanh nghiệp xong báo cáo
bộ, tổng công ty .Bộ, tổng công ty đề nghị bộ tài chính thành lập hội đồng thẩm định
giá trị doanh nghiệp. Bộ tài chính yêu cầu các bộ ,tổng công ty 91 gửi danh sách cán
bộ tham gia Hội đồng thẩm định gias trị doanh nghiệp để quyết định . Công việc này
thường kéo dài từ 1-3 tháng như trong trường hợp khách sạn Thanh Nhàn , Công Ty
Bia , nước giải khát thuộc Tổng công ty Than Việt Nam . Từ khi có hội đồng đến khi
bắt đầu làm việc phải mất 5-10 này, thậm chí có doanh nghiệp đến 20 ngày như trong
trường hợp của công ty đường La Ngà , Tổng công ty mía đường II (Bộ Nông
Nghiệp). Sau đó để có quyết định giá trị doanh nghiệp của bộ Tài Chính cũng phải
mất thêm ít nhất 10 ngày nữa , thậm chí có khi đến gần 4 tháng như trường hợp Công
Ty Phát Triển Tin Học củaa tổng công ty Than Việt Nam , hơn 10 tháng như Công ty
Savimex thành phố Hồ Chí Minh . Cơ chế chính sách đối với công ty cổ phần sau khi
thực hiện cổ phần hoá , đặc biệt là về tài chính , tín dụng , ngân hàng , đất đai chưa
được quy địng rõ nên các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương chưa
có điều kiện giải quyết những khó khăn , vướng mắc phát sinh cho doanh nghiệp một
cách kịp thời .
Với tư cách là hình thức chuyển đổi sỡ hữu doanh nghiệp nhà nước chủ yếu , việc
cổ phần hoá chậm đã ảnh hưởng đáng kể tới quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà
nước ở nước ta .
+ Hạn chế về nhận thức và chỉ đạo thực hiện .
Trong thực tế , nhiêu cán bộ quản lý các lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước
chưa thực sự quyết tâm tiến hành cổ phần hoá doanh nghiêp mà mình đang quản lý.
Cản trở này bắt nguồn từ nhận thức không đúng về cổ phần hoá. Có thể nói rằng, đại

bộ phạn các cán bộ quản lý doanh nghiệp ngời lao động cha thấy rõ bản chất ,vai trò
và ưu thế của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đối với sự phát triển của nền kinh tế
, đối với việc cải thiện hoàn cảnh của người lao động . Việc tuyên truyền cổ phần hoá
chưa đạt tới mức làm cho cán bộ, đảng viên trong các doanh nghiệp nhà nước hiểu
14
đúng về cổ phần hoá .Vì thế , ở nhiều doanh nghiệp nhà nước cán bộ ,công nhân viên
đều không muốn doanh nghiệp của mình bị cổ phần hoá , bản thân mình chuyển từ
chế độ tuyển dụng sang chế độ lao động hợp đồng
Cổ phần hoá là giải pháp cải cách doanh nghiệp nhà nước nên việc tiến hành
hoạt động này khá nhạy cản về chính trị . Những giãi pháp cải cách động đến vấn đề
sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước dễ gây sự phản ứng từ nhiều cán bộ , đảng viên
vốn có tư duy đã trở thành “bất di bất dịch “ là chỉ có doanh nghiệp nhà nước , kinh tế
nhà nước mới có thể trơ thành nền tảng của chủ nghĩa xã hội .Vì vậy theo họ, cổ phần
hoá doanh nghiệp nhà nước là làm “giảm sút “ về lượng vai trò củaa doanh nghiệp
nhà nước . Mặc dù , nhiều nghị quyết Đảng đã xác định cổ phần hoá là giải pháp cần
thiết có thể khắc phục sự yếu kém . thiếu hiệu quả song nhận thức này trong nhiều cán
bộ quản lý ,lãnh sạo các cấp vẫn chưa theo kịp với chủ trương này của Đảng. Tư duy
chưa đúng về vị trí nòng cốt của doanh nghiệp nhà nước trong kinh tế nhà nước là cản
trở lớn trong nhận thức về cổ phần hoá . Thực tiển ở các nước cho thấy , ngay cả tư
nhân hoá cũng không đồng nghĩa với việc xoá bỏ thành phần kinh tế “ công “ . Số liệu
thống kê của các nước thuộc tổ chức hợp tác và phát triển (OECD ) cho thấy mặc dù
tỷ trọng doanh nghiệp nhà nước giảm đáng kể, từ 16% xuống 8% song tỷ trọng nhà
nước trong GDP vẫn rất lớn. điều này xảy ra là do thành phần kinh tế công hoạt động
có hiệu quả hơn.
Lợi ích cá nhân của nhiều cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước cũng là một trong
những cản trở việc nhận thức đúng về cổ phần hoá . Những người này rằng khi chuyển
sang hình thức công ty cổ phần , vị trí quản lý của họ bị thay đổi và không có bảo đảm
nào chắc chắn rằng họ sẽ giữ vững cương vị đó trong công ty cổ phần được hình thành
trên nền tảng của doanh nghiệp mà mình đang quản lý . Mối lo này cùng với lợi ích
khác cản trở những cán bộ quản lý hiểu đúng tầm quan trọng của giải pháp cổ phần

hoá doanh nghiệp nhà nước .Một số Bộ , địa phương và phần lớn doanh nghiệp nhà
nước chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa của chủ trương cổ phần hoá , lo ngại quyền lợi bị
ảnh hưởng hoặc chưa thực sự yên tâm là cổ phần hoá sẽ có hiệu quả .Từ đó nảy sinh
tư tưởng chần chừ , né tránh ,sợ trách nhiệm , e ngại chệch hướng , chờ dợi người
khác làm trước , thiếu chủ động thự hiện . Điều đáng ngại hơn là chính lãnh đạo của
các ngành trung ương , các doanh nghiệp trực thuộc trung ương không chuyển biến
nhanh như ở địa phương .
+ Về chỉ đạo củaa Đảng ,Nhà nước : Việc cổ phần hoá là giải pháp cơ bản, toàn
diện trong sắp xếp , đổi mới ,phát triên và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước .
Do động chạm đến nhiều vấn đề phức tạp nên trong quá trình thực hiện , đảng và nhà
nước vừa làm , vừa rút kinh nghiệm . Thực tế cho thấy nơi nào cấp uỷ đảng , chính
quyền địa phương quan tâm chỉ đạo thì mọi khó khăn lúng túng đều có thể khắc phục
được . Khách sạn Sai Gòn ban đầu chỉ có 25% công nhân viên đăng kí mua cổ phần
nhưng qua gần hai năm kiên trì giải thích, thuyết phục , khi cổ phần hoá đã có 100%
người lao động trong công ty mua cổ phần . Tuy nhiên , đây là vấn đề lớn , phức tạp
không thể tránh khỏi những hạn chế , bất cập nhất định . Những hạn chế về chỉ đạo
thực hiện ở một số khía cạnh sau :
15
- Cơ sở cho cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn chưa vững chắc .Việc ban hành
các nghị định , các thông tư , các điều lệ điều chỉnh các vấn đề khác nhau của cổ phần
hoá không giải quyết được mâu thuẫn giữa các văn bản luật có liên quan đến những
vấn đề cụ thể của cổ phần hoá . Đã qua 15 năm thực hiện song chúng ta chưa có được
một văn bản luật có giá trị cao, mang tính hệ thống về cổ phần hoá . mặc dù số lượng
các văn bản về cổ phần hoá được ban hành nhiều , nhất là các thông tư vệ tinh xung
quanh các nghị định , quyết định song số vấn đề được giải quyết trong đó không tăng .
Hơn nữa các văn bản pháp luật đã ban hành chưa xác định đúng loại quan hệ đột phá
trong cổ phần hoá nên tính dàn trải của các quy định điều dễ nhận thấy trong đó .
- Môi trường thật sự bình đảng giữa các thành phần kinh tế chưa được tạo lập.
Doanh nghiệp nhà nước vẫn được nhiều ưu đãi hơn nên và một số cán bộ quản
lý ở các ngành vẫn coi doanh nghiệp đã cổ phần hoá là doanh nghiệp ngoài quốc

doanh nên còn phân biệt đối xử . Mặt khác , do luật công ty trước đây và luật doanh
nghiệp nhà nước đều chưa xác định được một cách đầy đủ vai trò quản lý nhà nước
đối với các doanh nghiệp đa sỡ hữu có vốn của nhà nước góp trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên mỗi nơi vận dụng theo nhận thức riêng . Các
thông tư hướng dẫn nếu có lợi cục bộ cho doang nghiệp , thậm chí cho một nhóm
người nhất định thì thường được ưu tiên áp dụng hơn so với các quy định pháp luật có
hiệu lực cao hơn .ngay cả trong luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 , những ưu đãi
đối với doanh nghiệp nhà nước được tiếp tục khẵng định mà chưa có quy định hướng
dẫn cụ thể để xác định rõ hoàn cảnh nào mới được ưu đãi .
-Về công tác tổ chức .
Cổ phần hoá là một chính sách quốc gia của việc đổi mới , hoàn thiện thành phần
kinh tế công .Việc thực hiện cổ phần hoá cần được tổ chức chặt chẽ .Các vấn đề đã
được giải quyết , các phương án được đưa ra phải được nghiên cứu kỹ lưỡng , rút kinh
nghiệm và liên tục hoàn thiện biện pháp triển khai . Nhiều quốc gia khác khi tiến hành
chương trình cải cách doanh nghiệp nhà nước đều thành lập một cơ quan chuyên thực
hiện việc này .Cơ quan này đảm nhiệm việc quản lí công sản và chỉ và giám sát tiến
trình cải cách doanh nghiệp nhà nước.Khác với thực tiển này , ở Việt Nam lại chưa có
một tổ chức đủ mạnh để thực hiện nhiêm vụ này.
+ Doanh nghiệp cổ phần hoá bị phân biệt đối xử trong lỉnh vực tín dung thuế.
Khi doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá và chuyển sang hoạt động dưới
hình thức công ty cổ phần thì chúng không được coi là thành phần kinh tế nhà nước
nữa mặc dù trong nhiều doanh nghiệp như vậy phần vốn doanh nghiệp nhà nước
chiếm tỉ lệ khá lớn . Sự thay đổi tư cách doanh nghiệp là sự thay đổi lớn đối với các
doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá . Sự thay đổi này có khả năng dẫn đến một
hậu quả bất đắc dĩ là các ngân hàng thương mại nhà nước nhìn các doanh nghiệp cổ
phần hoá với sự e dè , sự nghi vực các doanh nghiệp này khi các đơn vị này tiến hành
vay vốn .Trong lĩng vực đấu thầu , xuất - nhập khẩu , doanh nghiệp cổ phần hoá
không còn những lợi thế như khi còn là doanh nghiệp nhà nước .Doanh nhà nước sau
khi đã cổ phần hoá có thể khó tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng nhà nước .
16

Đây chính là một trong những trở lực củaa cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước , bởi
vì nó tạo ra sự sợ hãi ở lãnh đạo củaa các doanh nghiệp nhà nước đang có ý định
tham gia tiến trình cổ phần hoá Mặt, khác các thay đổi có khả năng xảy ra các ngân
hàng thương mại còn hạn chế sự phát triển đối với các công ty cổ phần được hình
thành trên nền tảng của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá .Từ tình trạng dễ dàng
được đáp ứng nhu cầu vốn, khi rơi vào hoàn cảnh này , hoạt động sản xuất , kinh
doanh của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá dễ bị tổn thương . Kết quả khảo sát của
viện khoa Học Tài Chính, Bộ Tài Chính thực hiện cho thấy có tới 81% công ty cổ
phần hoá muốn được bình đảng trong việc vay vốn từ ngân hàng thương mại quốc
doanh như khi chưa cổ phần hoá , tức là khi còn là doanh nghiệp nhà nước thuần tuý .
Cũng theo kết quả điều tra , khảo sát này thì 90% công ty cổ phần khẳng định có biểu
hiện của sự phân biệt đối xử củaa ngân hàng trong lĩnh vực tín dụng .Sự bất lợi của
các doanh nghiệp nhà nước nhà nước cổ phần hoá còn thể hiện ở sự mất đi nhiều lợi
khác so với khi còn là doanh nghiệp nhà nước . Những điều này làm giảm hẳn tiến độ
cổ phần hoá .
2. Giải pháp
Để nâng cao hiệu quả quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Sau 20 năm chuyển đổi nền kinh tế, nước ta đã đạt được một số thành tựu về tăng
trưởng kinh tế, nhưng hiệu quả, chất lượng tăng trưởng còn chưa cao. Trên nền chung
đó lại diễn ra quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, triển vọng của
quá trình cổ phần hóa sẽ như thế nào có quan hệ chặt chẽ với chất lượng đổi mới nền
kinh tế từ nay trở về sau.
Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước chỉ có hiệu quả khi đồng thời tạo
được các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, điều chỉnh phương hướng đầu tư từ ngân sách nhà nước nhằm sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn này, khai thác những lợi thế của đất nước và các nguồn đầu tư bên
ngoài để đưa đến một mô hình kinh tế hợp lý.
Theo dõi quá trình phát triển kinh tế Việt Nam, giáo sư Đa-vít Đa-pi (David Dapice
đại học Ha-vớt) nêu rõ: thực tế mỗi năm Chính phủ Việt Nam đầu tư khoảng 30%
GDP, nhưng chỉ tăng trưởng 7%-8%. Nếu biết đầu tư đúng thì tăng trưởng phải đạt ở

mức 9%-10% như Trung Quốc. Theo cách tính toán trên, do đầu tư không phù hợp,
chúng ta đã làm tổn thất 2% GDP của đất nước (khoảng 1 tỉ USD mỗi năm). Vì thế,
quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải dựa trên quan điểm tiết kiệm ngân
sách, đầu tư khôn ngoan, chứ không phải chỉ là giải pháp cho những yếu kém trong
kinh tế nhà nước. Trên thế giới, đã có những nước sử dụng rất hiệu quả ngân sách nhà
nước. Ví dụ, Đài Loan vào thập kỷ 1960-1970 chỉ có mức thu nhập bình quân đầu
người như Việt Nam hiện nay, nhưng họ đã đạt được tăng trưởng kinh tế ở mức 11%
trong suốt 10 năm liền, tuy lượng đầu tư chỉ chiếm 25% ngân sách.
Thứ hai, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước phải hướng tới sự thu hút và tập
trung các nguồn vốn xã hội vào phát triển kinh tế, tạo ra hình ảnh nhân dân xây dựng
17
và làm chủ nền kinh tế. Khi điều này được thực hiện thì các khâu của quy trình cổ
phần hóa sẽ thay đổi, từ việc định giá doanh nghiệp, cơ cấu vốn điều lệ doanh nghiệp
cổ phần, cơ cấu cổ đông, tổ chức bộ máy, đến những vấn đề nhân sự khác sẽ không
như hiện nay, mà sẽ bảo đảm cho doanh nghiệp hoạt động tốt hơn trước, có lợi cho
người lao động, nhà đầu tư và cho cả nền kinh tế.
Thứ ba, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải tính tới những yêu cầu đặt ra khi
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO để sau khi cổ phần hóa thì các
doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển. Tác động của việc gia nhập WTO tốt hay xấu
đối với doanh nghiệp đã cổ phần hóa hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm và định
hướng quy trình cổ phần hóa. Ở đây xin nêu lên hai vấn đề quan trọng:
- Cần xác định rõ: ai là chủ sở hữu thực tế của công ty cổ phần và chủ sở hữu phải gắn
liền với trách nhiệm đối với công ty như thế nào?. Trong vấn đề này có một nội dung
phải làm rõ: ai đại diện chủ sở hữu số vốn nhà nước trong công ty cổ phần nhằm chấm
dứt quan hệ sở hữu nhà nước chung chung và không có trách nhiệm, kéo dài nhiều
năm nay.
- Cần vận dụng: “Quy chế quản trị công ty” nhằm tạo ra môi trường đầu tư minh bạch,
lành mạnh. Yêu cầu này chỉ thực hiện được khi có sự lựa chọn những giám đốc phù
hợp với quy chế quản trị công ty, nhất là phải sớm đào tạo và bố trí các giám đốc tài
chính của công ty (có vai trò và phạm vi hoàn toàn khác với kế toán trưởng trong

doanh nghiệp kiểu cũ).
III. PHƯƠNG HƯỚNG , NHIỆM VỤ ĐẾN NĂM 2010 .
Theo số liệu tổng hợp từ các Bộ, địa phương, tổng công ty 91, đến nay, cả nước
còn 2.176 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước với tổng số vốn nhà nước gần 260 nghìn
tỷ đồng. Trong đó, 1.546 doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh, 335 doanh
nghiệp quốc phòng an ninh và sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích và 295
nông, lâm trường quốc doanh. Phân theo cơ quan chủ sở hữu, có 301 doanh nghiệp
thuộc tổng công ty 91; 408 doanh nghiệp thuộc tổng công ty 90; 307 doanh nghiệp
thuộc các Bộ, ngành; 1.160 doanh nghiệp thuộc địa phương.
Với những bối cảnh và yêu cầu nêu trên, phấn đấu đến cuối năm 2009, cơ bản
hoàn thành việc sắp xếp DNNN. Cụ thể là:
a) Tiếp tục cổ phần hóa các công ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ, địa
phương:
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh: tiến hành cổ phần hóa toàn bộ, kể cả
doanh nghiệp hoạt động ở địa bàn khó khăn. Có chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp
không phân biệt thành phần kinh tế, thu hút các nhà đầu tư có tiềm năng đến mua cổ
phần của các doanh nghiệp cổ phần hoá ở địa bàn này. Những doanh nghiệp có khó
khăn về tài chính cần cơ cấu lại trước khi chuyển đổi sở hữu.
Những doanh nghiệp kết hợp kinh tế với quốc phòng, kinh tế với an ninh thuộc
Bộ Quốc phòng và Bộ Công an hoạt động trong lĩnh vực may mặc, xây lắp, thương
mại sẽ cổ phần hóa; trường hợp thật cần thiết Nhà nước mới giữ cổ phần chi phối.
Có chính sách, chế độ lương hợp lý đối với số sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp làm
việc trong các doanh nghiệp cổ phần hoá.
18
Những công ty không còn vốn nhà nước thì bán, giải thể hoặc phá sản.
Đối với những doanh nghiệp quy mô nhỏ, có cùng ngành nghề hoặc có mối
quan hệ về công nghệ, thị trường với các doanh nghiệp khác thì xem xét sáp nhập,
hợp nhất, không phụ thuộc vào doanh nghiệp do địa phương hay do Trung ương quản
lý để hình thành những doanh nghiệp quy mô lớn hoạt động theo mô hình công ty mẹ -
công ty con.

Sau khi tổ chức lại sẽ tiến hành cổ phần hóa công ty mẹ. Việc sáp nhập, hợp
nhất không được làm ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất, kinh doanh, tài chính của
đơn vị nhận sáp nhập, hợp nhất; phải tiến hành xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính,
lao động trước khi thực hiện phương án sáp nhập, hợp nhất. Tránh tình trạng thực hiện
sáp nhập một số DNNN quản lý yếu kém, kinh doanh thua lỗ vào các DNNN đang
kinh doanh có hiệu quả làm giảm sức mạnh của đơn vị tiếp nhận.
Đối với doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích: Chuyển
thành công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên các doanh nghiệp quốc phòng, an ninh
thực hiện sản xuất, cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích, nhiệm vụ quốc phòng an
ninh
Thực hiện cổ phần hóa với lộ trình phù hợp, trước mắt Nhà nước giữ cổ phần
chi phối đối với các doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích theo
phương thức đặt hàng, giao kế hoạch quy định tại Nghị định số 31/2005/NĐ-CP ngày
11 tháng 3 năm 2005.
Cổ phần hóa, Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần hoặc chỉ nắm giữ cổ phần
ở mức thấp (< 35%) tại các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích theo
phương thức đấu thầu, đặt hàng quy định tại Nghị định nói trên.
b) Đẩy mạnh sắp xếp, cổ phần hóa các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước:
Các tổng công ty nhà nước là lực lượng chủ lực trong nền kinh tế quốc dân,
chiếm tới 87% tổng vốn nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp, riêng các tổng công ty
91 chiếm 71,6%. Những năm trước đây chúng ta chủ yếu sắp xếp, cổ phần hóa những
doanh nghiệp quy mô nhỏ, có một số ít doanh nghiệp quy mô vừa và lớn nhằm thu gọn
đầu mối. Để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Luật
Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, cần
thực hiện mạnh việc sắp xếp, cổ phần hóa các tổng công ty nhà nước, coi đây là khâu
đột phá trong cơ cấu lại, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước, thực hiện đổi mới quản trị công ty, cải cách hành chính, góp phần phòng và
chống tham nhũng có hiệu quả.
Việc cổ phần hóa các tập đoàn, tổng công ty là vấn đề mới mẻ, hệ trọng, khó
khăn và phức tạp. Vì vậy, cần phải có quan điểm, phương pháp, bước đi phù hợp, chắc

chắn, giữ vững ổn định sản xuất, không gây tác động đến môi trường đầu tư, đời sống
người lao động và xã hội. Khẩn trương phân loại rõ những tập đoàn, tổng công ty nhà
nước cần nắm giữ 100% vốn; những tập đoàn, tổng công ty cần cổ phần hoá. Nhà
nước chỉ nắm giữ 100% vốn đối với các tập đoàn, tổng công ty hoạt động có hiệu quả,
được Nhà nước giao quản lý, khai thác và phân phối một bộ phận tài nguyên quốc gia,
làm công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô.
Các tổng công ty nhà nước là những doanh nghiệp có quy mô lớn, đa số hoạt
động có hiệu quả, tuy nhiên, vẫn còn một số tổng công ty kết quả sản xuất, kinh doanh
còn thấp. Để cổ phần hóa một cách hiệu quả, cần phân thành hai loại: loại hoạt động
có hiệu quả thì tiến hành cổ phần hóa ngay, loại hiệu quả chưa cao thì cần làm rõ
19
nguyên nhân để có biện pháp nâng cao hiệu quả trước khi cổ phần hóa như: đầu tư, sắp
xếp lại, lành mạnh hóa tình hình tài chính, đổi mới tổ chức cán bộ.
c) Cổ phần hoá các ngân hàng thương mại, các công ty bảo hiểm:
Ngân hàng thương mại nhà nước là loại doanh nghiệp đặc thù, là một kênh
cung cấp vốn quan trọng nhất cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp
nhà nước nói riêng. Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại nhà nước có vốn điều lệ và
hệ số an toàn vốn còn thấp, năng lực quản lý, trình độ công nghệ còn yếu, các sản
phẩm, dịch vụ của ngân hàng còn nghèo, mới tập trung chủ yếu vào hoạt động cấp tín
dụng. Ngân hàng thương mại nhà nước nhìn chung chưa thật sự đáp ứng nhu cầu vay
vốn, mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp chưa thật sự bình đẳng, vừa là đối
tác, vừa là bạn hàng, gắn bó chặt chẽ với nhau để hoạt động và phát triển. Trong các
năm 2007 - 2010, cần tập trung chỉ đạo đổi mới và phát triển ngân hàng thương mại
nhà nước theo các hướng sau:
Đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển nhà đồng
bằng sông Cửu Long, cần khẩn trương thực hiện các công việc mà Thủ tướng Chính
phủ đã quyết định, hoàn chỉnh trình Thủ tướng Chính phủ đề án cổ phần hóa ngay
trong năm 2006 để hoàn thành cổ phần hóa trong năm 2007.
Đối với ba ngân hàng thương mại còn lại (Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn Việt Nam) thì thực hiện cổ phần hóa theo 2 bước:
+ Bước 1: nâng cao năng lực tài chính theo hướng đạt các chỉ số lành mạnh tài
chính theo chuẩn quốc tế vào cuối năm 2006 đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam, Công thương Việt Nam và cuối năm 2007 đối với Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn Việt Nam.
+ Bước 2: từ năm 2007 tiến hành cổ phần hoá Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam; từ năm 2008 cổ phần hoá Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
Đối với Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, cần khẩn trương thực hiện đề án cổ
phần hóa Tổng công ty này và hình thành Tập đoàn Tài chính bảo hiểm Bảo Việt mà
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt. Đối với Công ty Bảo hiểm Dầu khí, cần xây dựng
đề án cổ phần hóa, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt ngay trong đầu năm 2007 và đi
vào thực hiện. Việc cổ phần hóa hai công ty bảo hiểm nhà nước này phải chú trọng tới
ổn định và phát triển thị trường bảo hiểm trong nước, đồng thời có biện pháp nhanh
chóng vươn ra thị trường quốc tế.
Đối với các công ty dịch vụ tài chính, cần tiến hành rà soát để đề ra và thực
hiện lộ trình cổ phần hóa phù hợp với đặc thù của loại hình doanh nghiệp này và yêu
cầu phát triển thị trường tài chính.
Tổng hợp lại, theo phương án trên, từ nay đến hết năm 2010, sẽ cổ phần hóa
khoảng 1.500 doanh nghiệp và đến cuối năm 2010 cả nước có 554 doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước, trong đó 26 tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn; 178 doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ thiết
yếu; 200 nông, lâm trường; 150 doanh nghiệp thành viên các tập đoàn, tổng công ty
nhà nước.
20
21
Phần ba
PHẦN KẾT
Triển vọng cổ phần hóa ở Việt Nam
Như trên đã trình bày, hình thái cổ phần là một hình thái tổ chức sản xuất chứa

đựng tính chất xã hội hóa rất cao trong khuôn khổ của kinh tế thị trường, nên việc cổ
phần hóa ở nước ta hiện nay với nội dung chủ yếu là chuyển một phần các doanh
nghiệp nhà nước (hay còn gọi là các doanh nghiệp quốc doanh) sang hình thức công ty
cổ phần về thực chất là sự chuyển đổi hình thức xã hội hóa quá trình sản xuất từ dạng
doanh nghiệp quốc doanh sang dạng công ty cổ phần. Sự thay đổi ở đây không phải là
bản chất xã hội hóa của sản xuất mà là phương cách tổ chức sản xuất kinh doanh, phù
hợp với sự chuyển đổi cơ chế kinh tế từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế
thị trường. Vì thế, sự trì trệ của tiến trình cổ phần hóa ở nước ta sẽ là không có lý do
chính đáng nếu cho rằng nguyên nhân của tình hình chủ yếu do sự “ách tắc” về
phương diện quan điểm tư duy lý luận. Thật vậy, tuy chưa phải là mọi vấn đề cơ bản
về cổ phần hóa đã được giải quyết, song đã bước đầu có được một số kết luận quan
trọng từ những nghiên cứu lý luận và thực tiễn để làm cơ sở cho việc đẩy nhanh quá
trình thực hiện cổ phần hóa. Hai trong số những vấn đề có ý nghĩa then chốt nhất là:
- Dưới góc độ của kinh tế thị trường, cổ phần hóa không phải là tư nhân hóa.
Về điều này, sự phân tích về tính chất xã hội hóa của hình thái cổ phần so với các hình
thái công ty khác ở phần trên đã rất rõ. Điều còn “chưa hoàn toàn rõ” ở đây chỉ là
tương quan giữa hình thái cổ phần và doanh nghiệp quốc doanh, mà cụ thể là, liệu rằng
việc chuyển một phần các doanh nghiệp quốc doanh sang dạng công ty cổ phần có làm
cho tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế bị suy yếu đi không? Trong vấn đề này,
ít nhất có một điều đã rõ là, không phải tỷ lệ kinh tế thuộc doanh nghiệp quốc doanh
càng lớn về mặt lượng thì tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế càng cao. Đây là
một sự nhầm lẫn về nhận thức đã được thực tiễn lịch sử kiểm chứng và xác nhận. Kết
luận rút ra từ đây là, chưa có căn cứ xác đáng để khẳng định rằng, giảm bớt số lượng
doanh nghiệp quốc doanh, trong đó có việc cổ phần hóa một số bộ phận của chúng thì
tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế sẽ bị xói mòn. Song, thách thức về mặt lý
luận lại là ở chỗ, cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp quốc doanh sẽ có tác động
ảnh hưởng gì đến tính chất xã hội chủ nghĩa (hay chính xác hơn là tính chất định
hướng xã hội chủ nghĩa), trong đó, điều đáng được kỳ vọng hơn cả là quá trình này
chẳng những sẽ không làm cho tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế bị suy yếu
đi, mà trái lại, có thể còn nâng cao hơn so với hiện trạng được không? Chúng tôi nghĩ

rằng, câu trả lời sẽ tuỳ thuộc vào cách tiếp cận hay chỗ đứng để giải quyết vấn đề. Mặc
dù, cùng xuất phát từ một điểm chung: tính chất xã hội hóa của sản xuất mâu thuẫn với
chế độ sở hữu tư nhân, nhưng ở đây có hai cách tiếp cận khác nhau, một là từ cơ chế
kế hoạch hóa tập trung (trước đây), và hai là từ kinh tế thị trường (hiện đại).
- Theo quan niệm “truyền thống” của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, doanh nghiệp
quốc doanh được coi là hình thức mang tính chất xã hội hóa trực tiếp và cao nhất, bởi
22
nó được nhà nước nhân danh toàn xã hội mà lập ra. Trước đây, quan niệm này không
chấp nhận kinh tế thị trường nên cũng vì thế mà không chấp nhận các dạng thức xã hội
hóa khác nhau của kinh tế thị trường. Thành ra, doanh nghiệp quốc doanh đã trở thành
hình thái độc quyền biểu thị tính chất xã hội hóa của sản xuất, là hoàn toàn xã hội chủ
nghĩa, (còn hợp tác xã thì chỉ là xã hội chủ nghĩa có một nửa). Từ đó, dẫn đến sự chỉ
đạo về mặt chính sách là bằng mọi cách, làm cho kinh tế quốc doanh càng chiếm tỷ
trọng cao càng tốt với điều tâm niệm rằng: doanh nghiệp quốc doanh chính là hiện
thân của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nghĩa là càng nhiều doanh nghiệp quốc
doanh thì càng có nhiều chủ nghĩa xã hội. Chính cách hiểu này đã khiến cho có thời kỳ
quá trình quốc doanh hóa trở thành xu hướng chủ đạo trong nền kinh tế, và như đã nói,
đã bị thực tiễn bác bỏ.
- Ngược lại, nếu đứng từ góc độ của kinh tế thị trường, như đã trình bày ở phần
trên, cả trên phương diện lô-gíc lẫn lịch sử, hình thái cổ phần chính là một hình
thái biểu hiện tính chất xã hội hóa sản xuất cao nhất, và tính hiệu quả của nó
cũng đã được thử thách qua thời gian với độ dài tính bằng thế kỷ. Và theo lô-
gíc, không thể chuyển sang kinh tế thị trường mà lại không chấp nhận hình thức
tổ chức kinh tế chủ yếu đã tạo ra chính bản thân nó.
- Vì thế, chúng ta có thể đi đến nhận xét rằng: nếu đứng từ góc độ của kinh tế kế
hoạch hóa tập trung mà cho rằng, cổ phần hóa một bộ phận các doanh nghiệp
quốc doanh là một quá trình tư nhân hóa, rằng vì thế mà tính chất xã hội chủ
nghĩa của nền kinh tế bị xói mòn, thì ngay cả khi đó là một kết luận hợp lô-gíc
đi nữa, nó cũng đã trở nên không còn giá trị phương pháp luận, một khi bản
thân cơ chế kinh tế đó đã phải thay đổi để chuyển sang một cơ chế kinh tế khác.

Huống chi, theo lô-gíc của cơ chế kinh tế thị trường thay thế nó, cổ phần hóa
không phải là tư nhân hóa, mà là hình thái tổ chức sản xuất mang tính chất xã
hội hóa cao nhất, đối lập với kinh tế tư nhân.
Rõ ràng là không thể chối bỏ được những lý do chính đáng khi đặt vấn đề xem
xét lại một cách nghiêm túc vai trò của các doanh nghiệp quốc doanh, bởi tính chất xã
hội chủ nghĩa của nền kinh tế chỉ có thể trông cậy vào những doanh nghiệp quốc
doanh có hiệu quả cao hoặc bất khả thay thế chứ không phải vào bất kỳ mọi doanh
nghiệp nào mang danh doanh nghiệp quốc doanh. Vì thế, chúng tôi chia sẻ quan điểm
cho rằng không nên đặt vấn đề: làm thế nào để mở rộng các doanh nghiệp quốc doanh
(hay doanh nghiệp nhà nước), mà phải là: làm thế nào để tăng cường (nâng cao) sức
mạnh kinh tế của Nhà nước. Sở dĩ như vậy là vì, bản thân các doanh nghiệp nhà nước
chỉ là một trong số nhiều công cụ khác nhau trong tay Nhà nước để điều hành nền kinh
tế theo ý chí của mình chứ không phải là một công cụ duy nhất hay có khả năng thay
thế cho tất cả mọi loại công cụ khác. Trong điều kiện của kinh tế thị trường, để điều
hành nền kinh tế, ngoài cách thông qua các doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước còn
dùng (và chủ yếu là dùng) các loại công cụ khác như hệ thống luật, các chính sách
kinh tế vĩ mô, bộ máy quản lý hành chính về kinh tế, v.v Để có khả năng hướng nền
kinh tế đi theo những mục tiêu đã định, Nhà nước rất cần có thực lực sức mạnh kinh tế
của mình. Để tăng cường sức mạnh kinh tế của mình, việc sử dụng các công cụ với tư
23
cách của cả hệ thống đồng bộ và nhất quán chắc chắn sẽ có kết quả tốt hơn so với việc
chỉ dựa vào việc đề cao một loại công cụ nhất định. Đặc biệt là trong trường hợp sử
dụng các doanh nghiệp nhà nước, khi mà việc gia tăng số lượng loại công cụ này chưa
hẳn đã làm cho chính nó mạnh hơn. Ấy là chưa kể tới việc không hiếm khi những nỗ
lực mở rộng khu vực kinh tế này đã lấy đi mất quá nhiều nguồn lực có hạn của quốc
gia mà lẽ ra có thể dành cho việc cải thiện sức mạnh kinh tế của Nhà nước theo quan
điểm hệ thống và xét từ góc độ hiệu quả.
Tóm lại, cần phân biệt sự khác nhau giữa doanh nghiệp nhà nước với sức mạnh
kinh tế của Nhà nước. Trong đó, cái cần tăng cường để bảo đảm giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế là sức mạnh kinh tế của Nhà nước được nhìn nhận

một cách tổng thể chứ không phải chỉ là bộ phận công cụ các doanh nghiệp nhà nước
được nhìn nhận một cách cục bộ. Nói cách khác, trong việc giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa của nền kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước tự bản thân nó chỉ là công
cụ (phương tiện) chứ không phải là mục đích. Do vậy, sự thể hiện trong hành động
chính sách sẽ là không hợp lý khi lấy cái này thay thế cho cái kia.
- Với tư cách đặt vấn đề như vậy, rõ ràng việc tinh gọn hơn về số lượng và nâng
cao hiệu quả kinh doanh trở thành nội dung chính của cuộc cải cách các doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Cổ phần hóa là một trong số nhiều biện
pháp để thực hiện mục tiêu này. Đây cũng là điều đã được khẳng định trong các
Nghị quyết Đại hội của Đảng.
Như vậy, về phương diện học thuật, hoàn toàn có thể khẳng định rằng, trên
quan điểm của kinh tế thị trường, việc cổ phần hóa ở nước ta hiện nay có ý nghĩa như
là một trong những biểu hiện bằng hành động thực tiễn của sự nhận thức lại về bản
chất của tính chất xã hội hóa của sản xuất; rằng đó là quá trình chuyển đổi hình thức
xã hội hóa sản xuất từ dạng doanh nghiệp quốc doanh trong khuôn khổ của cơ chế kế
hoạch hóa tập trung sang dạng công ty cổ phần (trong đó có loại tuyệt đối 100% cổ
phần của Nhà nước) thích hợp với khuôn khổ của kinh tế thị trường.
Vậy thì vấn đề còn lại của việc tiến hành cổ phần hóa chủ yếu sẽ là những biện
pháp mang tính chất kinh tế - kỹ thuật, và với những kinh nghiệm đã có, với quyết tâm
chính trị cao của Đảng và Chính phủ, tiến trình cổ phần hóa trong những năm sắp tới
nhất định sẽ đạt được kết quả như mong đợi, đặc biệt là khi có sự hỗ trợ không thể
thiếu của một số giải pháp cụ thể sau:
- Cần phải làm cho đông đảo công chúng hiểu rõ rằng, vì hình thái cổ phần là
một hình thái tổ chức sản xuất phổ biến trong nền kinh tế thị trường hiện đại, nên trong
quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta, vấn đề cổ phần hóa không nên
chỉ bó hẹp trong quan niệm như là “một trong những phương tiện quan trọng để cơ cấu
lại doanh nghiệp nhà nước”. Không phải là chia các doanh nghiệp nhà nước hiện có ra
làm mấy loại, trong đó loại thì bị đem ra “cổ phần hóa”, loại thì được giữ lại là doanh
24
nghiệp nhà nước như cũ. Cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi chế độ kinh doanh của

nền sản xuất được xã hội hóa từ dạng thức doanh nghiệp quốc doanh (doanh nghiệp
nhà nước) hiểu theo nghĩa của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây sang dạng
thức công ty cổ phần thích hợp với cơ chế thị trường. Cổ phần hóa không phải là một
phong trào hay chiến dịch làm một lần là xong. Có lẽ chỉ trừ một số rất ít trường hợp,
còn lại nói chung có thể có rất nhiều doanh nghiệp nhà nước (hiểu theo nghĩa 100% cổ
phần do nhà nước nắm giữ) vẫn có thể thực hiện “cổ phần hóa” rộng rãi trong công
chúng trong tương lai khi có điều kiện thích hợp. Đồng thời ngược lại, cũng có thể có
những công ty cổ phần được nhà nước mua lại toàn bộ số cổ phần trong những trường
hợp cần thiết phải làm như vậy.
- Vì các doanh nghiệp nhà nước vốn từ đầu đã thuộc sở hữu toàn dân nên rất
cần công khai hóa các thông tin kinh tế cần thiết về các doanh nghiệp thực hiện cổ
phần hóa, không những chỉ với những người làm việc trong các doanh nghiệp đó mà
với toàn xã hội.
- Đứng trước thách thức và cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế, sự vận hành của
cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải theo kịp tiến trình hội nhập. Do vậy,
cần phải quy định bắt buộc tất cả các doanh nghiệp nhà nước (kể cả cổ phần hóa lẫn
không cổ phần hóa) phải tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán. Tính cần thiết
của quy định này dựa trên các ưu điểm cụ thể của thị trường chứng khoán, mà đại thể
là:
+ Thị trường chứng khoán là một kênh thu hút vốn quan trọng từ xã hội để đầu
tư phát triển. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp nhà nước
nói riêng hiện đang rất thiếu vốn, đặc biệt là đứng trước nhu cầu đầu tư để hiện đại hóa
công nghệ sản xuất, cần phải và không nên bỏ qua kênh tạo vốn ngày càng có ý nghĩa
quan trọng này.
+ Thị trường chứng khoán là loại hình thị trường phổ biến và có ý nghĩa như
một trong những chỉ số quan trọng biểu thị mức độ phát triển của bất kỳ nền kinh tế thị
trường nào. Vì vậy, cùng với quá trình hội nhập, hình thái buôn bán trên thị trường
chứng khoán cũng sẽ trở nên phổ cập ở Việt Nam. Các doanh nghiệp nhà nước với tư
cách là bộ phận giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế, không thể không trở thành lực
lượng đi tiên phong trong việc góp phần tạo ra thị trường chứng khoán bằng cách trực

tiếp tham gia vào hoạt động của thị trường này. Tính chất chủ đạo của doanh nghiệp
nhà nước không phải là ở chỗ chiếm tỷ trọng lớn, mà quan trọng nhất là ở tính hiệu
quả, ở khả năng dẫn dắt đổi mới công nghệ và cách thức hoạt động, ở khả năng ổn
định và trong bối cảnh của đổi mới, là ở khả năng đóng góp vào việc tạo ra "sự đồng
bộ của cơ chế thị trường” ở Việt Nam.
25

×