Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

TIỂU LUẬN: TÂM LÝ NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.83 KB, 7 trang )


Tiểu luận
TÂM LÝ NÔNG DÂN
TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA
HIỆN ĐẠI HÓA

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói rằng, nền kinh tế tiểu nông đã tồn tại hàng ngàn năm ở Việt Nam
cùng với chế độ phong kiến, chế độ thuộc địa nửa phong kiến và văn hóa làng xã đã
góp phần tạo nên đặc điểm tâm lý đa dạng, phong phú và phức tạp của người nông
dân. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là cuộc cải biến cách
mạng sâu sắc, triệt để về mọi mặt, nhất là trong đời sống tâm lý của người nông dân
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp
lên nền kinh tế công nghiệp. Dưới góc độ tâm lý, đó cũng là quá trình chuyển từ “tâm
lý tiểu nông" lên "tâm lý công nghiệp". Đó là cuộc cải biến mang tính khoa học và
cách mạng trong đời sống tâm lý của người nông dân. Nhằm đánh giá đúng đắn thực
trạng ảnh hưởng của tâm lý nông dân trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đát
nước nên nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Tâm lý người nông dân trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” làm đề tài nghiên cứu.

NỘI DUNG
1. Khái niệm
Nông dân là những người lao động cư trú ở nông thôn, tham gia sản xuất nông
nghiệp. Nông dân sống chủ yếu bằng ruộng vườn, sau đó đến các ngành nghề mà tư
liệu sản xuất chính là đất đai.
Tùy từng quốc gia, từng thời kì lịch sử, người nông dân có quyền sở hữu khác
nhau về ruộng đất. Họ hình thành nên giai cấp nông dân, có vị trí, vai trò nhất định
trong xã hội.
Theo Hội Nông dân Việt Nam, nông dâ nước ta hiện nay chiếm 73% dân số


tương đương với khoảng 62.626.388 người, số lao động nông nghiệp chiếm 55,7% lao
động xã hội. Nông thôn hiện có gần 14 triệu hộ.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất - kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế- xã hội từ sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công
nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ nhằm tạo năng suất lao động - xã hội cao.
2. Nhưng yếu tố tác đông đến tâm lý nông dân
Chịu ảnh hưởng của chế độ phong kiến đặc biệt là tư tưởng nho giáo. Trải qua
1000 năm chịu ách thống trị của Trung Quốc, 100 năm bị áp bức bóc lột chế độ thực
dân.
Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với cơ chế hành chính bao cấp, dựa trên hai
hình thức sở hữu toàn dân và tập thể đã làm nảy sinh và phát triển tinh thần tập thể, ý
thức trách nhiệm, tính tổ chức kỷ luật của người nông dân, nhưng cũng chính nó đã
tạo điều kiện phát triển tâm lý: "bình quân", “cá mè một lứa ", thụ động, dựa dẫm, ỷ
lại vào cấp trên Trong điều kiện hợp tác xã nông nghiệp làm ăn kém hiệu quả, đời
sống thấp thì ở người nông dân nảy sinh tâm lý chán chường và "thờ ơ" với công việc
Hiện nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn được thực
hiện trong điều kiện kinh tế thị trường và với "áp lực”, ngày càng gia tăng của toàn
cầu hóa. Hơn nữa, có một thực tế là hiện nay nước ta vẫn còn là nước nông nghiệp
nghèo (dưới 30% dân số nghèo, trong đó đa số là nông dân, 26% trẻ em suy dinh
dưỡng mới có 16% dân số được bảo hiểm y tế 53% dân số được dùng nước sạch và
hơn 15% lao động được đào tạo lành nghề. Ở nông thôn thì ruộng đất manh mún, mô
trường sinh thái ngày càng suy giảm, giá nông sản không ổn định, thu nhập và đời
sống nông dân thấp và tăng rất chậm so với thành thị, tình trạng thiếu đất, thiếu việc
làm ngày càng nhiều Chính hiện tượng này đã và đang là "áp lực", thách thức lớn
"đè nặng" lên tâm lý người nông dân.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu
lao động theo hướng thu hẹp tỷ trọng sản xuất nông nghiệp và nâng cao tỷ trọng sản
xuất công nghiệp và dịch vụ. Trong khi đó, người nông dân lại thiếu đất, thiếu vốn,


trình độ học van thấp, không có ngành nghề Vì vậy, nhiều nơi người nông dân phải
rời bỏ quê hương đi kiếm sống, hiện tượng di dân tự do từ nông thôn "ồ ạt" ra thành
phố trong những năm qua chứng minh cho điều đó (Hiện nay, Hà Nội có khoảng 500
ngàn và thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 1,5 triệu dân tự do, không có hộ khẩu). Ra
thành phố, nhiều người không kiếm được việc làm, một số phải đi làm thuê bằng đủ
các nghề, thậm chí có số trở thành tội phạm và sa vào tệ nạn xã hội. Chính trong bối
cảnh này ở người nông dân dễ nảy sinh tâm lý làm thuê, tâm lý chán chường, bất
mãn
Đa số sinh viên xuất thân từ nông dân, tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng
không muốn về quê công tác. Họ "bám trụ" ở thành phố để kiếm tiền với bất cứ nghề
gì (dọn phòng, bưng bê ở nhà hàng, bốc vác ở kho bãi ). Ở đây, tâm lý "kiếm tiền",
đua đòi, thích cuộc sống xa hoa đã lộ ra khá rõ.
Do "áp lực" lớn của công nghiệp hóa và đô thị hóa. Ở vùng ven đô (điển hình là
thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Năng, Cần Thơ ), trong một thời gian rất ngắn
một bộ phận lớn nông dân "nghiễm nhiên" trở thành thị dân, mặc dù họ không được
chuẩn bị về mặt tâm lý, học vấn, văn hóa. Họ có một số tiền lớn (do được đền bù giải
tỏa, do bán đất ) nhưng không biết làm gì. Một số sử dụng tiền và kinh doanh, một
số dùng tiền mua sắm xe cộ, ăn chơi (cờ bạc, đánh đề, cá cược ). Ở đây, đã hình
thành lối sống "xài sang' "hợm hĩnh" và cuối cùng lại “trắng tay" rơi vào thất nghiệp.
Nông dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng rừng núi do hoàn cảnh sống khó khăn, ít
được hưởng phúc lợi xã hội, làm ăn thua lỗ, chán chường với cuộc sống và tìm đến
với các "trò" mê tín dị đoan, tín ngưỡng tôn giáo mới (trường hợp ở Tây Nguyên,
nhiều người bỏ tín ngưỡng, tôn giáo cũ gia nhập vào đạo Tin Lành là ví dụ điển hình,
đĩ nhiên là ở đây có sự xúi giục của một số kẻ xấu).
Trong điều kiện tác động mạnh của các quy luật kinh tế thị trường (cạnh tranh,
cung cầu, lợi nhuận, lợi nhuận tối đa), trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và giao
lưu văn hóa (nhiều hàng hóa chất lượng tết, giá rẻ, nhiều văn hóa phẩm phương Tây
tràn vào) thì một bộ phận dân cư trong đó có nông dân có tâm lý "sùng ngoại", có lối
sống thực dụng, sùng bái đồng tiền, coi nhẹ các giá trị văn hóa truyền thống cũng là

điều dễ hiểu.
3. Đặc điểm tâm lý người nông dân
a. Mặt tích cực
Yêu quê hương đất nước, gắn bó với quê cha đất tổ là một trong những đặc điểm
nổi bật của người nông dân Việt Nam. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ
nước, người nông dân vừa phải cày cấy, vừa phải chống chọi với thiên nhiên và chống
giặc ngoại xuân dù hoàn cảnh nào họ vẫn bám trụ quê cha đất tổ với tinh thần “Một
tấc không đi, một ly không rời". Đối với nông dân, quê cha đất tổ là "thánh địa linh
thiêng"

Đoàn kết gắn bó cộng đồng, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, tình nghĩa thủy
chung đã trở thành lẽ sống của người nông dân. Chính công việc cày cấy hàng ngày
và sinh hoạt trong họ hàng, làng xã đã làm cho cuộc sống của người nông dân. "Tối
lửa tất đèn có nhau", cùng nhau chia sẻ ngọt bùi đắng cay Điều đó, được thể hiện
không chỉ trong hoạt động hàng ngày, mà còn được khái quát trong ca dao tục ngữ:
"Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước thì thương nhau cùng", "Một
cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, “Lá lành đùm lá rách”…
Sự tự tin vào mình, vào dân tộc và đất nước được nâng lên. Người nông dân
Việt Nam hiện nay về cơ bản đã thoát khỏi sự tự ti đối với người thành thị, với người
nước ngoài… trong lối sống, trong lao động và giao tiếp xã hội
Ý thức lao động sáng tạo, tìm cách làm ăn có hiệu quả, khám phá những tri thức
mới được nâng cao, nhất là trong lớp trẻ.
Tác phong, lối sống công nghiệp, hiện đại đang trở thành lối sống phổ biến trong
lớp thanh niên nông dân được tiếp xúc với xã hội bên ngoài, được học tập có hệ thống
Niềm tin vào lý tưởng, vào hệ thống chính trị tuy có suy giảm nhưng về cơ bản,
vẫn chưa có một hệ tư tưởng nào có thể thay thế được lý tưởng của Đảng và nhà
nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập
Việt Nam nằm ở giữa đầu mối giao lưu văn hóa "Bắc - Nam" và "Đông - Tây",
nên người Việt Nam xưa nay có điều kiện giao lưu học hỏi, tiếp thu và cải biến cái
hay cái đẹp của người để biến chúng thành cái của riêng mình. Chính điều đó góp

phần làm nên cái thông minh, sáng tạo và lạc quan yêu đời. Chính những câu chuyện
về những ông Trạng Việt Nam (Trạng Quỳnh, Trạng Lợn ) và những câu tục ngữ ca
dao như: "Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo" đã là những minh chứng sinh động
cho điều đó.
b. Mặt tiêu cực
Tư duy manh mún, tản mạn là một biểu hiện tâm lý nổi bật của nông dân sống
khép kín sau lũy tre làng, canh tác trên mảnh đất bạc màu, những thửa ruộng nhỏ, lẻ
với công cụ thô sơ "Con trâu đi trước cái cày theo sau" dựa trên những thói quen, tập
quán nhiều đời Chính hoàn cảnh đó đã làm nảy sinh và nuôi dưỡng tư duy manh
mún, tản mạn (thiếu khả năng khái quát tổng hợp) của người nông dân. Chính vì vậy
mà họ chỉ thấy lợi trước mắt, không thấy lợi lâu dài, chỉ thấy lợi ích cá nhân, không
thấy lợi ích tập thể ".
Thói "lười biếng" suy nghĩ và tính toán, tính ỷ lại và bảo thủ, sự sùng bái kinh
nghiệm và "coi thường" lớp trẻ là sản phẩm lâu dài của nền kinh tế tiểu nông mà dù
muốn hay không người nông dân vẫn tiêm nhiễm. Trong nền kinh tế tiểu nông, "Lão
nông tri điền", “sống lâu lên lão làng", “đất lề quê thói", “phép vua thua lệ làng" đã
trở thành thói quen ứng xử phổ biến. Hơn nữa, sống trong chế độ phong kiến dưới sự
thống trị của chế độ đẳng cấp, tôn ti, trật tự Nho giáo, người nông dân coi lớp trẻ như
là loại "trứng khôn hơn vịt", “khôn ba năm dại một giờ" Trong khi nói về những

điều cần khắc phục trong tâm lý nông dân, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: " nông dân
thường có tính thủ cựu, rời rạc, tư hữu "
Thiếu ý thức kỷ luật lao động và "thừa " tính đố kỵ, ganh ghét, cục bộ, bản vị địa
phương cũng là một đặc điểm tâm lý nổi bật của nông dân. Người nông dân (tư hữu
nhỏ) sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên "nắng mưa bất thường" và "tùy hứng" cá
nhân đã trở thành thói quen phổ biến ở làng xã Việt Nam. Bị quy định bởi tư hữu nhỏ,
bởi trình độ nhận thức và điều kiện kinh tế - xã hội, người nông dân tuy cần cù, thông
minh nhưng thiếu tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ, bộc lộ tính đố kỵ, ganh ghét, cục bộ
"Đèn nhà ai nấy rạng", “ta về ta tắm ao ta", “trâu buộc ghét trâu ăn"
Sống dựa trên nền kinh tế tiểu nông nghèo nàn lạc hậu, dưới chế độ phong kiến

và thuộc địa nửa phong kiến hà khắc, người nông dân còn phải hứng chịu những tệ
nạn xã hội: mê tính dị đoan, cờ bạc, rượu chè, lãng phí Nhận rõ những thói hư, tật
xấu đó, Hồ Chí Minh đã yêu cầu: “ Đồng bào và cán bộ phải đánh lui tư tưởng bảo
thủ".
4. Một số đề xuất
Thực hành tiết kiệm phải đi đôi với tăng gia sản xuất. Chúng ta phải chống lãng
phí sức của, sức người. Không nên vì được mùa mà ăn xài bừa bãi, lãng phí sức của.
Không nên chơi bời lêu lổng, như đi chơi một phiên chợ mất 3 ngày, lãng phí sức
người". Và nhất là " phải chấm dứt những tệ nạn xấu xa do xã hội cũ để lại, như lười
biếng, cờ bạc, tệ nấu rượu lậu, buôn bán gian lận, tiêu xài xa xỉ, gả bán cưỡng ép.:. ".
Những điều trình bày ở trên chưa phải là tất cả, nhưng đó là những đặc điểm tâm lý
rất quan trọng của người nông dân sống trong nền kinh tế tiểu nông (nghèo nàn, lạc
hậu), dưới chế độ phong kiến và thuộc địa nửa phong kiến hà khắc.

Trong thời kỳ đổi mới, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN dựa trên sự đa dạng về sở hữu và khuyến khích phát
triển các thành phần kinh tế. Nông nghiệp từ tự cấp, tự túc chuyển sang sản xuất hàng
hóa. Nhờ có chính sách tích cực này đã tạo được niềm tin, kích thích tính tích cực
sáng tạo của người lao động nên nền kinh tế nước ta (trong đó có nông nghiệp) đã
bước vào thời kỳ phát triển mới và đạt được những thành tựu to lớn (trong nhiều năm
nền kinh tế luôn tăng trưởng các đứng hàng thứ hai trong khu vực, xếp thứ hai về xuất
khẩu gạo, nằm trong 10 nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất. Cùng với sự phát triển
nhanh về kinh tế, việc xóa đói, giảm nghèo đã đạt được những thành tựu khả quan (tỷ
lệ người nghèo đã giảm từ 57% năm 1992 xuống còn dưới 30% và năm 2004 (tính
theo tiêu chuẩn quốc tế). Theo Báo cáo phát triển con người năm 2003 của LHQ, Việt
Nam xếp thứ 39 trong số 94 nước đang phát triển về chỉ số nghèo khổ tổng hợp (HPI),
xếp thứ 109 trong số 175 nước về chỉ số phát triển con người (HDI) và thứ 98 trong
số 144 nước về chỉ số phát triển giới, đời sống của nhân dân ngày một nâng cao.
Có thể nói rằng, chính sách đổi mới toàn diện đất nước đã làm cho xã hội ta phát
triển ổn định và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế giao lưu văn hóa. Chính hiện thực

sống động đó đã làm biến đổi tâm lý của người nông dân theo chiều hướng tích cực.

Ở đây, niềm tin vào chế độ, tính tích cực lao động, ý thức về trách nhiệm công dân
ngày càng tăng rõ rệt trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
KẾT LUẬN
Tâm lý người dân Việt Nam nói chung, người nông dân Việt Nam nói riêng
mang nhiều nét đẹp, lối sống đó ổn định đại diện cho bản sắc dân tộc trong các thang
giá trị, nhất là các thang giá trị về đạo đức và lối sống Việt Nam qua nhiều thế hệ.
Nhưng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã bộc lộ mặt trái của nó, kìm
hãm sự phát triển, vươn lên của ngành nông nghiệp Việt Nam. Trong xu thế hòa nhập
hiện nay, nông dân Việt Nam cần giữ gìn các bản sắc, nét đẹp truyền thống, “hòa
nhập nhưng không hòa tan”, phát huy các điểm mạnh, hạn chế các điểm yếu trong tâm
lý để hướng đến một nền nông nghiệp hiện đại.
Tài liệu tham khảo
1. Tổng cục thống kê />2. Tâm lý học />3. Viện nghiên cứu phát triển thành phố
/>Và một số tờ báo điện tử khác.

×