Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tính thống nhất trong đa dạng các quốc gia đông nam á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.47 KB, 30 trang )

Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Đông Nam Á từ lâu được biết đến là một khu vực chiến lược có tầm quan
trọng hàng đầu trên thế giới. Đây là một vùng rộng lớn nằm chắn ngang tất cả
các con đường hàng hải từ Ên Độ Dương sang Thái Bình Dương, từ Châu Á
xuống châu Óc. Đo điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý thuận lợi, nên từ buổi bình
minh của lịch sử khu vực, Đông Nam Á đã giữ một vai trò đặc biệt trên con
đường buôn bán Đông – Tây, và là nơi gặp gỡ, giao thoa của các nền văn hoá
lớn trên thế giới. “Đông Nam Á là ống thông khói, tích tụ và lan toả các nền văn
hoá trên thế giới” (Hall). Đây là một khu vực địa lý – lịch sử – văn hoá, có bản
sắc riêng biệt, là một trung tâm văn minh cổ, có nhiều đóng góp lớn trong lịch
sử nhân loại. Một đặc điển tiêu biểu và đặc sắc của khu vực Đông Nam Á là tính
thống nhất trong đa dạng, điều này được thể hiện trên mọi lĩnh vực: điều kiện tự
nhiên, kinh tế, chính trị, văn hoá và lịch sử.
Vậy tính thống nhất, tính đa dạng là gì? Được biểu hiện cụ thể như thế
nào? Làm rõ vấn đề trên chúng ta sẽ hiểu chính xác và toàn bộ tiến trình lịch sử
của khu vực Đông Nam Á từ khi hình thành, phát triển đến tận ngày nay, trên tất
cả các lĩnh vực hoạt động đời sống xã hội.
Tính thống nhất giữa các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á sẽ tạo ra
một nét chung, nét tương đồng, giúp các quốc gia gần gũi với nhau hơn, đây là
nhân tố, là nền tảng, là chất kết dính các nước thắt chặt quan hệ với nhau.
Tính đa dạng được thể hiện rất khác nhau giữa các lĩnh vực kinh tế – xã
hội trong một quốc gia và giữa các quốc gia với nhau. Đây là nhân tố để giữ gìn
bản sắc truyền thống của dân téc, là điểm để phân biệt quốc gia này với quốc gia
khác, mỗi quốc gia có những nét riêng biệt tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên, vị
trí địa lý, sự tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá bên ngoài, tạo nên sự đa dạng,
phong phó cho khu vực. Khu vực có tính thống nhất, nhưng từng quốc gia lại có
nét đa dạng, đa dạng trong thống nhất, thông nhất trong đa dạng là một nét đặc
sắc trong lịch sử các quốc gia Đông Nam Á.
B. PHẦN NỘI DUNG


1
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
1. Tính thống nhất trong đa dạng về mặt điều kiện tự nhiên của khu
vực Đông Nam Á
Là mét khu vực nằm ở Đông Nam lục địa châu Á, Đông Nam Á có diện
tích khá lớn 4476000 km2 với 55 triệu dân.
Hiện nay Đông Nam Á có 11 quốc gia, trong đó Đôngkimo là quốc gia trẻ
tuổi nhất. Đông Nam Á có phạm vị lãnh thổ bao gồm 2 phần là:
- Đông Nam Á lục địa: Việt Nam, Lào, Campuchia, Miama, Thái Lan
- Đông Nam Á hải đảo: Inđônêxia, Malaixa, Singapo, Philipin, Brunây
và Đôngkimo.
Bản đồ Đông Nam Á
Chính đặc điểm của vị trí địa lý này đã quy định tính đa dạng của các
nước trong khu vực. Cùng nằm trong mét khu vực nhưng có quốc gia hoàn toàn
là hải đảo như Inđônêxia (13667 đảo lớn nhá) , Singapo, có quốc gia vừa giáp
biển vừa ở lục địa như Việt Nam, có quốc gia hoàn toàn không có biển như Lào.
2
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
Đông Nam Á nằm ở vị trí bản lề giữa lục địa Á - Âu rộng lớn với một bên là
Thái Bình Dương và Ên Đé Dương, cho nên Đông Nam Á nằm giữa các đơn vị
địa lý tự nhiên mang tính độc lập: Lục địa - đại dương: Lục địa bán cầu bắc –
lục địa bán cầu nam, tạo nên cho Đông Nam Á những đặc điểm phong phú và đa
dạng về các mặt như khí hậu, sông ngòi.
Mặc dù Đông Nam Á như một vùng bị nát vụn nhưng Đông Nam Á luôn
là một khối thống nhất bao gồm 2 bộ phận: Bán đảo Trung Ên và quần đảo Mã
Lai, Đông Nam Á nằm gọn trong khoảng 95 độ đến 141 độ kinh Đông và từ 28
độ vĩ Bắc đến 11 độ vĩ Nam. Đông Nam Á nằm trong vòng nóng của địa cầu,
nên các yếu tố địa lý, tự nhiên ở mỗi vùng, mỗi quốc gia có những nét tương

đồng, gần gũi với nhau như ở bất cứ quốc gia nào cũng có kết cấu văn hoá biển,
núi và đồng bằng.
Do nằm trong vành đai nóng của địa cầu nên Đông Nam Á có khí hậu
nhiệt đới cận xích đạo, gió mùa nóng Èm. Nhờ có gió mùa và khi hậu biển đã
làm cho Hà Nội, Mandalay, Cancuta trở nên xanh tốt, trù phú, bên các vĩ độ gần
xích đạo đáng lẽ chỉ có cây cối rậm rạp, dân cư thưa thít thì lại tạo nên những đô
thị đông đúc, thịnh vương như Kulalămpua, Singapo… Gió mùa giảm bớt sự
không thuần nhất và tạo nên 2 mùa rõ rệt cho khu vực, mùa khô lạnh và mát và
mùa nóng, Èm. Chính nhờ yếu tố khí hậu này đã tạo nên một cảnh quan tự nhiên
hết sức đa dạng, ở Đông Nam Á hầu như có toàn bộ các loài các chủng loài của
giới tự nhiên. Các cánh rừng thưa, rừng xavan ở cao nguyên Còrạt, Camphuchia,
có rừng ngập mặn ở Inđônêxia, Malaixia, Việt Nam…
Đông Nam Á có một mạng lưới sông ngòi dày đặc, với các hệ thống sống
lớn như Mê công, sông Hồng, Sông Mênam, sông Iraoadi… tạo nên những đồng
bằng phù sa màu mỡ, trong đó cây lúa nước với những điều kiện sinh trưởng
thích hợp trở thành cây trồng chủ yếu trong nền nông nghiệp của dân cư Đông
Nam Á. Đây cũng là một nét thống nhất của khu vực Đông Nam Á, nhưng tuy
mỗi vùng của quốc gia, tuỳ thuộc vào mỗi quốc gia mà cây lúa có nhiều chủng
loại và chất lương khác nhau.
3
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
Sự thống nhất đó là kết cấu liên hoàn núi, đồng bằng và sông suối, mặt
khác cũng tạo nên tính đa dạng của địa hình như ở Việt Nam có hệ thống núi
rộng lớn ở miền Đông và Tây Bắc, ở Philipin có núi lửa. Những đặc điểm của
điều kiện tự nhiên Đông Nam Á từ vị trí địa lý, khí hậu, địa hình… đều thể hiện
rõ nét tính thống nhất trong đa dạng của khu vực, tạo nên một đặc điểm riêng
biệt, một nét đặc sắc của Đông Nam Á. Sự thống nhất và đa dạng về điều kiện tự
nhiên là cơ sở, nền tảng tạo ra sự thống nhất trong các lĩnh vực đời sống xã hội.
2. Tính thống nhất trong đa dạng về mặt lịch sử

2.1: Cư dân.
Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu và dùa trên các kết luận của khảo cổ học,
có thể kết luận rằng toàn bộ cư dân Đông Nam Á thuộc tiểu chủng Môngôlôit
Phương nam, tiểu chủng này được hình thành do sự hỗn dung giữa 2 đại chủng
Môngôlôit và Ôxtralôit. Nhưng từ tiểu chủng Mônôgôit Phương Nam phân hoá
thành 2 loại hình nhân chủng là Nam Á và Anh đônêdiên, và từ 2 nhóm này lại
phân hoá thành các téc người khác nhau tạo nên sự phong phú, đa dạng trong
thành phần téc người ở Đông Nam Á.
Ở bất cứ quốc gia nào cũng có mặt các téc người thuộc cả nhóm Nam Á
và Anhđônêdien, hoặc cùng một téc người nhưng sống ở nhiều nước khác nhau
như người Thái có mặt ở Thái Lan, Việt Nam, Lào, người Khơme có ở Việt
Nam, Campuchia. Nhưng có điều đặc biệt là dù sống ở những nơi khác nhau
nhưng người Thái ở Thái Lan, Việt Nam … vẫn có những đặc tính, truyền
thống, phong tục, tập quán giống nhau.
2.2. Lịch sử
Có thể khẳng định Đông Nam Á là khu vực lịch sử vừa thống nhất, vừa đa
dạng đều thể hiện qua quá trình phát triển của lịch sử Đông Nam Á.
Phân kỳ lịch sử Đông Nam Á gồm những giai đoạn sau:
4
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
* Từ đầu công nguyên đến thế kỷ X. Đây là thời kỳ hình thành các nhà
nước ở nhiều nơi, dù tổ chức nhà nước khác nhau nhưng đều được gọi chung là
các quốc gia sơ kỳ, giai đoạn này gồm 2 thời kỳ nhỏ:
- Thời kỳ thứ I: Từ đầu công nguyên đến thế kỷ VII.
Thời kỳ này có khoảng 30 tiểu quốc đã được hình thành ở phía Nam Đông
Nam Á như Champa ở Nam – Trung Bộ (Việt Nam), Phù Nam ở trung và hạ lưu
sông Mêcông, tiểu quốc Lancasuca, Tambrahinga, Takôla ở bán đảo Malaya,…
Các nhà nước được xuất hiện ở 3 khu vực là hạ lưu và châu thổ sông
Mêcông; Phía Bắc Huế thuộc Trung kỳ hiện nay ở Việt Nam và phần phía Bắc

bán đảo Mãlai.
- Thời kỳ thứ II: Từ thế kỷ VII – X, là thời kỳ các tiểu quốc hợp nhất
lại với nhau theo téc người và theo địa vực, hình thành nên các quốc gia lớn và
lấy một bộ téc tương đối đông làm nòng cốt như Srivijaya, Kalinga ở Inđônêxia,
Đại Việt và Chămpa ở Việt Nam
* Giai đoạn 2 từ thế kỷ X – XV: Là thời kỳ phát triển thịnh đạt của các
quốc gia Đông Nam Á, so với các khu vực khác, Đông Nam Á là nơi phát triển
thịnh đạt nhất của chế độ phong kiến, đạt đến đỉnh cao cụ thể như sau:
Vương quốc Camphuchia bước vào thời kỳ phát triển – thời kỳ Ăng co, từ
802 – 1434.
Đại Việt: Bước vào thời kỳ thịnh đạt dưới triều Lý – Trần, Lê Sơ (thế kỷ
XI - XV)
Vương quốc Miama thinh vượng dưới triều đại Pagan 1044 – 1287
Inđônêxia đạt tới thịnh vương dưới chiều đại Môjopahit (1213 - 1527)
Vương quốc Lanxang ở Lào 1353
Triều đại Trailock ở Xiêm
Ở thời kỳ này còn xuất hiện nhiều quốc gia mới như Giava chinh phục
Sumatra vào thế kỷ VII – XIII ở Inđônêxia.
Vương quốc Lavô và Sukhathay tạo thành vương quốc A Yuthay của
người Thái.
5
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
Sự phát triển đa dạng của Đông Nam Á được thể hiện qua các mặt sau:
+ Kinh tế: Các khu vực kinh tế quan trọng được hình thành, xuất hiện các
vựa lúa, “bát gạo lớn” của Đông Nam Á và thế giới như Đồng bằng Mênam
(Thái Lan), đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long (Việt Nam ), đồng bằng
Iraoađi ở Mianma…
Thủ công nghiệp bắt đầu xuất hiện, thành thị ra đời nh Sukhothay,
Authay, Thăng Long, Pagan, Palembang, Ăngco…

Hoạt động thương mại bắt đầu sôi động, các nước Đông Nam Á có quan
hệ buôn bán với các nước Trung Quốc, Ên Độ, Ba Tư, Ả Rập, các hải cảng lớn
ra đời và hoạt động tấp nập như Hội An, Vân Đồn (Việt Nam ) Palembang
(Inđônêxia), nổi bật hơn cả là Malacca.
+ Chính trị: Công cuộc xây dựng nhà nước đạt tới trình độ tương đối hoàn
chỉnh và ổn định, thể chế nhà nước là quân chủ chuyên chế, phù hợp với nền
nông nghiệp xóm làng như: Đại Việt ở Việt Nam, LanXang ở Lào… Sự thịnh
đạt về chính trị còn biểu hiện qua cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông
Nguyên của nhân dân Đông Nam Á (Trừ Myanma).
+ Văn hoá: NÒn văn hoá dân téc của các quốc gia Đông Nam Á phát triển
mạnh trên tất cả các lĩnh vực và đã đóng góp lớn vào kho tàng văn hoá nhân
loại, các khu đền như Ăng covat, Ăngcothom (Campuchia), Thạt Luông (Lào)…
bên cạnh sự phát triển chung đó cũng có sự phát triển riêng của từng quốc gia,
tạo nên sự thông nhất trong đa dạng trên lĩnh vực văn hoá.
* Giai đoạn 3: Từ thế kỷ XVI – XIX:
Là thời kỳ suy thoái của các quốc gia Đông Nam Á, nhưng sự suy thoái
không đồng đều về mặt thời gian, đầu tiên là Campuchia suy thoái từ thé kỷ
XIII, Mianma vào thế kỷ XVI, XVII, Chămpa thế kỷ XV, Đại Việt thế kỷ XVII;
XVIII. Còn Xiêm và LanXang lại tiếp tục phát triển.
Sù suy thoái được biểu hiện trên các mặt sau:
- Kinh tế: Suy thoái, trì trệ, mọi hoạt động sản xuất bị đình đốn…
- Chính trị: Sự khủng hoảng và bất lực của giai cấp phong kiến cầm quyền
6
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
- Xã hội: Mâu thuẫn trong xã hội diễn ra gay gắt, các cuộc khởi nghĩa nổ
ra ở nhiều nơi.
Quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực giảm so với trước, các quốc gia
trước kia là hữu hảo thì nay cũng có xung đột.
Trong bối cảnh Êy, các quốc gia Đông Nam Á phải đối mặt với sự dòm

ngã của các nước tư bản phương Tây. Sự thống nhất của khu vực đó là phải đối
mặt với thách thức, nhưng việc lùa chọn con đường, biện pháp để đối phó với
thực dân Phương Tây lại khác nhau, qua đó thể hiện rõ tính đã dạng của khu
vực.
Sự đa dạng của khu vực thể hiện qua 2 xu hướng chính sau:
Thứ nhất: Là đóng cửa, không hợp tác với phương Tây. Ở Việt Nam , nhà
Nguyễn đã thực hiện chính sách” bế quan toả cảng”, ngăn cấm sự xâm nhập của
văn hoá phương Tây, cấm hàng, cấm đạo, cấm người tây vào nước.
Thứ hai: Một số nước đã mở cửa, đón nhận ảnh hưởng của văn minh
phương Tây, đây chính là một phương pháp bảo vệ nền độc lập dân téc. Tiêu
biểu cho xu hướng này là Xiêm dưới triều Rama IV và Rama V. Xiêm đã tìm
cho mình một con đường đặc sắc đó là cải cách đất nước, tiến hành đường lối
ngoại giao độc đáo, “đầu nhọn đầu tù”. Xiêm đã kí kết các hiệp ước với tư bản
bên ngoài, cải cách kinh tế, xã hội trong nước mở đường cho nền kinh tế Xiêm
phát triển. Nh xoá bỏ độc quyền của nhà nước trong việc xuất khẩu gạo, cải cách
này được đánh giá là cấp tiến nhất vì giải phóng sức sản xuất, kích thích tăng
năng suất lao động. Xiêm tham gia vào nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và hội nhập
kinh tế toàn cầu một cách tự nhiên.
Xu hướng hội nhập là cái chung, là điều tất yếu đặt ra đối với mỗi quốc
gia nhưng con đường hội nhập của mỗi quốc gia lại khác nhau. Người phương
Tây nhận xét: “Kinh tế Xiêm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là hình mẫu điển
hình cho các nước và bước đầu cho sự cạnh tranh với bên ngoài”. Nhờ đó mà
Xiêm thoát khỏi cảnh thuộc địa, đưa Xiêm ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế,
chính trị – xã hội của chế độ phong kiến.
7
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
* Giai đoạn đầu thế kỷ XX đến nay: Là thời kỳ đấu tranh giành độc lập
dân téc của các quốc gia Đông Nam Á
Sự thống nhất ở giai đoạn này là độc lập dân téc, nhưng nét đa dạng là sự

lùa chọn các con đường khác nhau của mỗi nước kết quả đạt được, mức độ
giành độc lập cũng rất khác nhau.
Sau khi giành được độc lập, con đường đi lên xã hội hiện đại của từng
quốc gia là không giống nhau nhưng cùng hướng tới một mục tiêu chung là phát
triển khu vực Đông Nam Á giàu mạnh. Đây chính là sự thống nhất đa dạng về
mặt lịch sử.
3: Tính thống nhất trong đa dạng về mặt văn hoá
3.1. Văn hoá vật chất:
Đông Nam Á được coi là khu vực có nền văn hoá cổ xưa của thế giới, văn
hoá Đông Nam Á là nơi hội tụ của nền văn hoá Đông - Tây vừa có nét chung,
thống nhất vừa mang tính độc đáo, đa dạng. Cuộc sống của cư dân Đông Nam Á
luôn gắn liền với những hoạt động của nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, do đó
những phong tục, tập quán của các quốc gia Đông Nam Á gắn bó chặt chẽ với
nền nông nghiệp lúa nước và mang tính bản địa sâu sắc. Điều này đã tạo nên sự
thống nhất trong văn hoá của khu vực Đông Nam Á và cũng hình thành nên sự
đa dạng, đặc sắc trong văn hoá của từng quốc gia.
* Ăn uống: Do có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi nên Đông Nam
Á có thảm động vật, thực vật rất phong phú, đa dạng, cây cối quanh năm xanh
tốt, cây lương thực chủ yếu của cư dân Đông Nam Á là lúa, ngô, khoai và các
loại hoa mầu. Tuy nhiên gạo là quan trọng nhất trong cuộc sống hàng ngày,
thông thường mỗi bữa ăn gồm có cơm, rau, thịt, cá, do có nhiều thuận lợi nên
người Đông Nam Á không chế biến và dự trữ đồ ăn với khối lượng lớn. Họ
thường sử dụng đồ ăn tươi, sống để làm món ăn như món phở ở Việt Nam, mãn
Tomyam của Thái Lan, món Xiêmlo của Campuchia. Trong khi chế biến món
ăn, một loại gia vị không thể thiếu đó là vị cay, hầu hết các quốc gia Đông Nam
Á đều ăn cay trong bữa ăn của mình. Ở mỗi nước, mỗi dân téc lại có sự khác
8
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
nhau về cách nấu gạo thành cơm cũng như sự kết hợp các loại thức ăn, gia vị

trong mỗi bữa ăn, tạo nên những nét riêng biệt và đặc trưng cho mỗi vùng.
Mặc dù cách ăn, cách chế biến thức ăn khác nhau nhưng tính thống nhất
của văn hoá Èm thực Đông Nam Á là văn hoá Èm thực nhiệt đới.
* Trang phục:
Do nằm trong khu vực khí hậu nóng Êm, nhiệt độ trung bình cao, nên cư
dân Đông Nam Á rất thích mặc đồ thoáng nhẹ, thoải mái, theo truyền thống mọi
gia đình đều trồng bông, dệt vải, như vải lụa, tơ tằm ở Việt Nam, vải thổ cẩm
của ngưòi Lào, Thái…Trang phục truyền thống của phụ nữ Đông Nam Á là áo,
váy và khăn, đối với nam là đóng khố cởi trần. Cã những điểm thống nhất,
nhưng mỗi quốc gia, mỗi dân téc, trang phục lại có những nét đặc sắc riêng tạo
nên một bức tranh đa dạng trong cách ăn mặc của người Đông Nam Á.
Cư dân ở Đông Nam Á hải đảo thường gọi váy là Kain – Kain, còn đối
với cư dân Đông Nam Á lục địa gọi váy là Sarông.
Sự đa dạng trong trang phục truyền thống của phụ nữ Đông Nam Á được
tạo nên bởi sự kết hợp hài hoà và tinh tế trong một bộ trang phục. Thông thường
phần dưới cơ thể là các loại Kain, Sarông có độ dài ngắn khác nhau, còn phần
trên cơ thể là áo cánh dày tay hoặc áo chui đầu, đại diện tiêu biểu là phụ nữ
Thái, người Giava, người Sunđa (Inđônêxia).
Còn phụ nữ ở Campuchia, miền Bắc Việt Nam lại có sự kết hợp độc đáo
giữa váy với áo yếm, có nơi váy được kết hợp với khăn tạo nên sự hấp dẫn, lôi
cuối cho trang phục. Phụ nữ ở đảo Bali (Inđônêxia) thường quấn khăn che phần
trên cơ thể khi đi chùa chiền.
Trang phục của nam giới phổ biến là đóng khố cởi trần, như Êđê, Bana,
téc người Papua, Tôratja… Còn ở một số nơi Kain và Sarông là trang phục
truyền thống của cả nam và nữ như người Mianma, Malaixia. Sự phân biệt trang
phục của nam và nữ được phân biệt ở độ dài ngắn và cách quấn Kain và Sarông,
ở Mianma trang phục của nam thường ngắn và quấn dầy hơn rất nhiều lần và
gấp thành 2 nếp ở phía trước.
9
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-

Lịch sử
* Nhà ở:
Nhà không đơn thuần là nơi cư trú của mỗi gia đình mà còn phản ánh đời
sống tinh thần phong phó, quan hệ huyết téc cũng như mọi phong tục, nghi lễ
nông nghiệp gắng liền với ngôi nhà. Do điều kiện tư nhiên mà cư dân Đông
Nam Á cư trú chủ yếu bằng nhà sàn, trở thành kiến trúc dân gian phổ biến toàn
Đông Nam Á.
Nhà sàn được làm bằng gỗ, tre, nứa, hầu hết các nhà sàn có mái hiên rộng
ngay trước cửa, từ hiên có bậc cầu thang để lên xuống, hiên nhà là nơi mọi
người làm việc như quay tơ, dệt vải… Gầm nhà sàn thường được dùng để nuôi
trâu bò, lợn gà hoặc là nơi để công cụ lao động. Một dấu hiệu thống nhất có thể
thấy ở các quốc gia Đông Nam Á là sự tồn tại phổ biến của những “ngôi nhà
chung”, đây là kiểu nhà thường được xây dựng ở giữa làng hoặc giữa bản có quy
mô lớn hơn các ngôi nhà bình thường. “Ngôi nhà chung” được sử dụng làm nơi
hội họp, tế lễ và tổ chức các hoạt động văn hoá chung cho cả làng – bản. Ở Việt
Nam có nhà Rông. Tuy nhiên kiến trúc nhà ở của cư dân Đông Nam Á ở mỗi
dân téc, vùng lại có những nét riêng biệt độc đáo về hình thức, kích thước và
cách bài trí, đây không chỉ là sự khác biệt về mặt hình thức mà là sự khác biệt về
phong tục, lối sống, nghi thức của gia đình.
Sự đa dạng, phong phú của nhà sàn của cư dân Đông Nam Á còn được thể
hiện ở trong phạm vi một quốc gia. Ở Inđônêxia, téc người Minang Kabau gọi
ngôi nhà của mình là Rumacgadang (ngôi nhà lớn), kiểu nhà này được dựng trên
sàn cao, có 2 mái dốc vểnh lên như 2 hình yên ngựa, và kết thúc ở 2 đầu nóc
bằng hình mô phỏng cặp sừng trâu. Còn téc người Toratja lại làm nhà theo hình
thuyền, người Papua làm nhà sàn trên cây.
* Phương tiện đi lại.
Đông Nam Á có một mạng lưới sông ngòi dày đặc và hầu hết các quốc
gia tiếp giáp với biển, hệ thống sông ngòi tạo nên một hệ thống giao thông rất
thuận lợi cho cư dân trong vùng. Do đó người ta thường dùng thuyền, bè để đi
lại, để giao lưu buôn bán, chuyển tải văn hoá - kinh tế giữa các quốc gia trong

10
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
khu vực. Cư dân Đông Nam Á sớm biết buôn bán bằng đường sông, đường biển
và hình thành nên các chợ nổi tiếng trên sông và sớm tham gia vaò nền thương
mại thế giới. Kĩ thuật đóng thuyền của cư dân Đông Nam Á ngày càng hoàn
thiện để phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân và phục vụ mục đích quân sự của
nhà cầm quyền. Tuỳ vào đặc điểm thuỷ văn từng vùng mà người Đông Nam Á
có những cách đóng thuyền khác nhau.
Cư dân hải đảo đi lại chủ yếu trên biển nên thuyền, bè thường được đóng
với kích thước lớn chuyên chở với số lượng nhiều, còn việc đi lại trên sông, trên
lạch nhỏ, trong đảo người Đaiăk trên đảo Kalimantan (Inđônêxia) thường đóng
những con thuyền nhỏ nhưng dài tới 50m. Còn ở lục địa các loại thuyền có hình
dáng và kích thước rất phong phú. Những cư dân miền núi thường đóng bè hoặc
mảng để di chuyển trên các dòng sông còn cư dân đồng bằng thường đóng thuyền
có kích thước nhỏ hơn để dễ dàng đi lại ví dụ như ở Việt Nam loại thuyền thúng
rất phổ biến ở đồng bằng Bắc Bé. Còn thuyền ba lá, hoặc ghe chèo được sử dụng
trong điều kiện kênh rạch chằng chịt ở miền Đông Nam Bé
Phương tiện đi lại bằng thuyền gắn bó chặt chẽ với đời sống cư dân Đông
Nam Á, vì thế biểu tượng con thuyền luôn gắn với cuộc sống văn hoá ở đây.
3.2:Văn hoá tinh thần
3.2.1:Chữ viết
Đông Nam Á là khu vực có nhiều thành phần dân téc, sắc téc cùng chung
sống, trải qua các giai đoạn phát triển mỗi dân téc đã sáng tạo ra rất nhiều kiểu
chữ để ghi lại ngôn ngữ của mình. Nhưng điểm chung, điểm thống nhất trong
chữ viết của cư dân Đông Nam Á là thời gian xuất hiện vào những thế kỉ tiếp
giáp công nguyên cùng với sự ra đời của hàng loạt quốc gia cổ của Đông Nam
Á, là quá trình truyền bá mạnh mẽ văn hoá Ên Độ, Trung Hoa vào khu vực.
Trong dòng chảy văn hoá đó chữ viết đã được các téc người ở đây tiếp thu và
sáng tạo ra kiểu chữ riêng cho dân téc mình. Do đó mỗi téc người lại có những

kiểu chữ khác nhau: Chữ Chăm cổ (thế kỉ IV), chữ Nôm cổ (thế kỉ V), Chữ
Khơme cổ (thế kỉ VI). Mặc dù vậy ta vẫn nhận thấy nét tương đồng trong chữ
11
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
viết của các quốc gia Đông Nam Á là nguồn gốc ra đời của chữ viết. Chữ viết
của Đông Nam Á trải qua 3 giai đoạn phát triển sau:
Thứ nhất là sự vay mượn trực tiếp từ chữ viết của Ên Độ và Trung Hoa
Thứ hai là sáng tạo ra các kiểu chữ dùa trên nhưng kiểu chữ ban đầu
Thứ ba là sử dụng chữ viết truyền thống và dùng chữ latinh
Trải qua những giai đoạn, những biến động của tình hình kinh tế, chính trị
và xã hội cũng ảnh hưởng tới sự hình thành chữ viết, đây là điều kiện quan trọng
tạo nên sự phong phú đa dạng trong bức tranh ngôn ngữ của khu vực. Hầu hết
chữ viết của cư dân Đông Nam Á đều được sáng tạo trên cơ sở chữ Ên Độ và
chữ Trung Hoa, nhưng quá trình vay mươn này diễn ra vào những thời điểm
khác nhau nên khi du nhập vào các quốc gia nó được biến thể thành muôn hình
muôn vẻ kiểu chữ khác nhau.
Sự đa dạng phong phú của ngôn ngữ chữ viết Đông Nam Á còn được biểu
hiện ở vị trí từng kiểu chữ. Do điều kiện chính trị, xã hội, lịch sử khác nhau mà
ngôn ngữ và chữ viết của mỗi dân téc có địa vị và chức năng xã hội khác nhau.
Có ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trở thành ngôn ngữ quốc gia như tiếng
Việt ở Việt Nam, tiếng Malaixia ở Malaixia, tiếng Khơme ở Campuchia.
3.2.2: Tín ngưỡng- tôn giáo
Đông Nam Á là một khu vực đa tôn giáo hầu hết các tôn giáo lớn trên thế
giới đều có mặt ở đây như đạo Phật, đạo Thiên chóa, đạo Ixlam…Do cùng
chung sống trên một khu vực địa lí có nhiều điểm tương đồng nên tín ngưỡng,
tôn giáo ở Đông Nam Á có nhiều điểm thống nhất với nhau
Cuộc sống của cư dân Đông Nam Á gắn bó chặt chẽ với hoạt động nông
nghiệp, điều kiện tự nhiên luôn tác động tới cuộc sống của họ nên trong cư dân
xuất hiện tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Đây là những nhận thức sơ khai của con

người về các hiện tượng tự nhiên như mưa, gió, sấm…Xuất phát từ thuyết “vạn
vật hữu linh” người Đông Nam Á đã sáng tạo ra mét hệ thống tín ngưỡng sùng
bái tự nhiên như thờ thần mặt trời, thờ thần nước, thờ hòn đá…nhưng mỗi quốc
12
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
gia nghi thức hành lễ và tên gọi các nghi thức Êy còng khác nhau, tạo nên sự
thống nhất nhưng cũng rất đa dạng trong đời sống tâm linh của họ.
Từ tín ngưỡng thờ thần mặt trời ở Việt Nam có lễ hội rước đèn trung thu
vào ngày 15-8 âm lịch, ở Mianma cũng có lễ hội “đèn trời”, ở Lào, Thái lan có
lễ hội hoa đăng trên các dòng sông. Ở Thái Lan có lễ hội tạ ơn “mẹ nước”vào
buổi tối trăng tròn tháng 10 âm lịch hàng năm. Ở Campuchia, Lào có lễ hội té
nước đầu năm để cầu mong nhiều phóc nhiều léc. Ở Inđônêxia, Mianma,
Philipin có tục thê thần sông.
Hầu hết các quốc gia Đông Nam Á, tín ngưỡng phồn thực được thể hiện
đa dạng ở nhiều hình thức khác nhau nhưng những điểm chung về điều kiện tự
nhiên, xã hội, đặc biệt là nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước đã tạo nên sự
thống nhất trong tín ngưỡng này.
Ở Thái Lan có tục nặn hình người bằng đất sét để cầu nguyện cho mùa
màng tốt tươi, tượng là một cặp nam nữ ôm nhau. Ở miền bắc Việt Nam thì thờ
cóng cột đá có hình sinh thực khí khá phổ biến thể hiện qua tượng Linga và
Yôni. Trong các nghi lễ phồn thực người ta thường làm các loại bánh từ lúa, gạo
mang hình dáng các sinh thực khí để cóng, cư dân Việt Nam có tục làm bánh tét,
bánh tày. Ở Campuchia làm bánh hình sinh thực khí nam và nữ trong những
ngày lễ liên quan tới nông nghiệp như lễ PchemBel. Ở Mianma có tục làm bánh
Hatamane.
Tín ngưỡng phồn thực trở thành một nghi lễ quan trọng trong đời sống tín
ngưỡng của cư dân Đông Nam Á , mỗi quốc gia mỗi dân téc lại có những nghi lễ phồn
thực khác nhau nhưng đều mang đậm nét sinh hoạt của nền nông nghiệp lúa nước.
Ngoài ra cư dân Đông Nam Á còn có tín ngưỡng thờ cóng tổ tiên, họ quan

niệm rằng con người gồm hai phần là hồn và xác. Người Thái cho rằng khi con
người chết thì hồn biến thành Phỉ (ma). Còn người Việt dùng từ ma để chỉ
những người đã chết.
Việc thê cóng tổ tiên được thể hiện qua nhiều hình thức như thờ cóng
người đã chết có quan hệ huyết thống, thờ những người đã sinh ra cộng đồng,
13
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
thờ người đã tạo nên những yếu tố văn hoá. Nhưng điểm thống nhất là đối tượng
thờ cóng là những người đã chết. Việc thờ cóng tổ tiên thể hiện sự nhớ ơn cội
nguồn, lòng mong ước được người đã chết phù hộ cho mình. Đây là một nét đặc
sắc trong tín ngưỡng và văn hoá của người Đông Nam Á
3.2.3 Lễ hội
Hầu hết các lễ hội cổ truyền ở Đông Nam Á đều xoay quanh hai chủ đề
chính là cầu nắng và cầu mưa, thực chất của lễ hội này là mong ước có một kết
quả sản xuất nông nghiệp tốt đẹp.Vì thế các lễ hội cổ truyền ở Đông Nam Á đều
được hình thành trên cơ sở nền nông nghiệp lúa nước: Ở Việt Nam có lễ hội
xuống đồng, người Chăm có lễ hội dựng chòi cày, người Campuchia có lễ hội
ban phát giống thiêng .
Sau khi thu hoạch lúa người dân thường tổ chức nghi lễ để cảm ơn trời
đất, tổ tiên nh lễ hội vun thóc trên sàn của người Lào, hay lễ hội mừng cơm mới
của nhiều nước trong khu vực. Trong lễ hội cổ truyền đón năm mới các dân téc
Đông Nam Á thường dùng nước để chức mừng nhau, bởi họ cho rằng nước là
yếu tố đem đến sù Êm no, hạnh phóc và may mắn: Ở Phó Thọ Việt Nam có lễ
hội” cướp bưởi cầu mưa cướp dừa cầu nước”, Ở Thái Lan tổ chức lễ hội cầu
mưa thông qua các hành động như múa cờ, chọi voi trắng và dựng đu, Ở
Mianma, Inđônêxia, Mãlai có lễ hội đua thuyền rồng, Ở Campuchia có lễ hội
Loipratit.
Qua các lễ hội ở Đông Nam Á ta thấy chính cây lúa đã tạo dùng những
nét tương đồng cho các lễ hội nhưng vẫn thể hiện tính đa dạng, phong phú về

kiểu loại sắc thái của từng quốc gia, dân téc.
4. Tính thống nhất trong đa dạng về mặt kinh tế
Do có vị trí địa lý tương đồng nên các quốc gia trong khu vực Đông Nam
Á không chỉ có tính thống nhất trong đa dạng về lĩnh vực văn hoá xã hội, ngay
cả lĩnh vực kinh tế các quốc gia Đông Nam Á còng mang đặc điểm thống nhất
trong đa dạng.
14
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
Nền kinh tế chủ yếu của các quốc gia Đông Nam Á là nền kinh tế nông
nghiệp lúa nước, đây là điểm chung, điểm thống nhất xuyên suốt từ thời cổ đại.
Nhưng những năm gần đây do nhiều nguyên nhân tác động mà kinh tế các nước
Đông Nam Á mang tính đa dạng, mỗi nước có một xu hướng phát triển, một
đường đi khác nhau. Mặc dù vậy ta vẫn thấy những điểm chung và điểm thống
nhất của các quốc gia Đông Nam Á là:
Các quốc gia Đông Nam Á đều có mẫu số chung là tiến hành công nghiệp
hoá để đưa đất nước thoát khỏi sự yếu kém, lạc hậu về kinh tế, sự lệ thuộc vào
nước ngoài và phù hợp với xu thế chung của nền kinh tế thế giới. Quá trình thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá được chia lầm hai thời kỳ là công nghiệp hoá
hướng nội và công nghiệp hoá hướng ngoại.
Đặc điểm chung nữa là các quốc gia Đông Nam Á có nền kinh tế nông
nghiệp là chủ yếu, các nước Thái Lan, Việt Nam, Lào, Mianma… có tới 3/4 số
dân làm nông nghiệp, các quốc gia ở Đông Nam Á là nơi cung cấp nguyên liệu
và là thị trường tiêu thụ hàng hoá cho các nước công nghiệp phương Tây.
Nhưng sự nghèo nàn lạc hậu ở mỗi nước lại có mức độ khác nhau:
- Inđônêxia: Trên 70% dân số là nông dân, đóng góp khoảng 70% thu
nhập quốc dân, nhưng vẫn phải nhập khẩu lương thực, bởi vì các đồn điền, cơ
sở kinh tế quan trọng nằm trong tay tư bản Hà lan.
- Philipin: Sau khi được trao trả độc lập, Philipin cũng gặp nhiều khó khăn
như lương thực thiếu hụt trầm trọng, đời sống nhân dân thấp kém, hệ thống giáo

dục rối loạn, tình hình xã hội căng thẳng, kinh tế Philipin cơ bản là nền kinh tế
nửa phong kiến nửa thuộc địa, mang tính tự cấp tự túc rất lạc hậu.
- Malaixia: Sau khi được độc lập (1957) kinh tế Malaixia mang tính chÊt
nửa thuộc địa nửa phong kiến. Tư bản Anh vẫn nắm giữ 2/3 sản lượng thiếc, sở
hữu 60% diện tích đồn điền cao su, nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn với 80% dân
số là nông dân, công nghiệp chỉ chiếm 8,2% GDP, cơ sở sản xuất nghèo nàn, lạc
hậu.
15
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
- Singapo: Sau gần 150 năm là thuộc địa của Anh, kinh tế Singapo gặp
nhiều khó khăn nh tốc đé tăng dân số khá cao 4,4%/ năm, tỉ lệ thất nghiệp
là14%, tình hình xã hội không ổn định .
- Thái lan: Nông nghiệp được coi là lĩnh vực chủ chốt của nền kinh tế
chiếm 82% lao động, nhưng có tới 80% nông dân không có ruộng phải đi làm
thuê, đời sống của nhân dân thấp kém, không ổn định nên dẫn tới các cuộc nổi
dậy của nông dân ở vùng Đông bắc Thái lan. Công nghiệp cuẩ Thái lan nhỏ bé
và đình đốn .
Nh vậy nét đa dạng về kinh tế của các quốc gia Đông Nam Á được thể
hiện ở chỗ: Thời điểm tiến hành công nghiệp hoá, xuất phát điểm của quá trình
công nghiệp hoá, con đường tiến hành công nghiệp hoá, kÕt quả của quá trình
công nghiệp hoá.
Bước vào thời kỳ công nghiệp hoá hướng nội các nước Đông Nam Á
còng có nhiều nét thống nhất và đa dạng. Công nghiệp hoá hướng nội (công
nghiệp hoá thay thế nhập khẩu) tức là tự sản xuất ra hàng hoá tiêu dùng thay thế
nhập khẩu. Đây là thờ kỳ xây dựng nền móng để phát triển kinh tế.
Điểm thống nhất của các quốc gia Đông Nam Á trong giai đoạn này là
xuất phát điểm của các nước đều là thuộc địa, nền kinh tế què quặt, công nghiệp
phát triển không cân đối, toàn diện, chủ yếu là nơi tiêu thụ hàng hóa cung cấp
nguyên vật liệu cho các nước chính quốc, do đó muốn xây dựng đất nước phải

xây dựng nền kinh tế độc lập, phải xây dựng một chiến lược phát triển kinh tế,
đặc biệt là sản xuất hàng tiêu dùng thay thế cho việc nhập khẩu và xây dựng
hàng rào thuế quan chặt chẽ, quan trọng hơn là giải quyết vấn đề việc làm cho
người lao động, vì thất nghiệp là tình trạng rất phổ biến của các quốc gia sau khi
giành độc lập.
Điểm đa dạng ở đây là thời điểm tiến hành và kết thúc công nghiệp hoá
hướng nội của từng nước do mỗi nước có một hoàn cảnh khác nhau.
16
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
Philipin là nước tiên phong, thực hiện sớm nhất trong khu vực, nhưng quá
trình thực hiện lại dài nhất từ 1946-1970: Singapo bắt đầu từ 1961-1964;
Malaixia từ 1957-1970; Thái Lan từ 1961-1972; Inđônexia 1950-1965.
* Inđônêxia: Sau khi độc lập, Inđônêxia bắt đầu triển khai chiến lược
công nghiệp hoá hướng nội, Inđônêxia đã thực hiện chính sách kinh tế tự do,
khuyến khích tư bản tư nhân phát triển, hạn chế đầu tư nước ngoài, nhờ đó tốc
độ phát triển kinh tế đạt 5,2%.
Từ năm 1957, Inđônêxia chuyển sang “chính sách kinh tế có chỉ đạo”
thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, củng cố vai trò kinh tế của Nhà nước,
kiểm soát các hoạt động kinh tế của tư bản nước ngoài và tư nhân trong nước,
đặt trọng tâm vào xây dựng các khu công nghiệp nặng, quy mô lớn… về cơ bản
chính sách công nghiệp hóa của Inđônêxia đạt được mục tiêu đề ra nhưng còn
nhiều hạn chế.
*Philippin: cũng tiến hành chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu
để củng cố nền độc lập, khắc phục sự phụ thuộc nền kinh tế vào nước ngoài.
Philipin đã xóa bỏ tự do thương mại, thực hiện chế độ bảo hộ mậu dịch, ban
hành các chính sách về tài chính, thương mại để khuyến khích kinh tế tư nhân và
sản xuất trong nước phát triển. Nhà nước chú trọng các ngành công nghiệp sử
dụng nguyên liệu có sẵn nh công nghiệp dệt, chế biến nông sản, thực phẩm, chế
tạo máy móc, đẩy mạnh quá trình cơ giới hóa nông nghiệp.

*Malaixia: Để khắc phục tình trạng khó khăn của đất nước, Malaixia tập
trung phát triển kinh tế nông nghiệp, chú trọng các loại cây công nghiệp, đặc
biệt là cao su, cọ dâu, thực hiện khai hoang, mở rộng diện tích trồng lúa, thực
hiện cuộc cách mạng xanh, áp dụng kỹ thuật mới trong nông nghiệp.
Chú trọng công nghiệp chế biến, khai khoáng, xây dựng một số khu công
nghiệp, khu mậu dịch để thu hót vốn của nước ngoài nh khu công nghiệp Mắc
Mađin, Kamunting và Tasêch có những chuyển biến sau: tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao đạt từ 5-5,4%. Từ chỗ nhập 40% nhu cầu lương thực (1960) đến
17
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
1972 đã tự túc được 91% lương thực. Công nghiệp chế biến phát triển với tốc độ
khá nhanh là 67,2%.
*Singapo: Singapo thực hiện chiến lược thu hót đầu tư nước ngoài, phát triển
các khu công nghiệp tập trung: chú trọng công nghiệp lọc dầu, công nghiệp đóng
mới và sửa chữa tàu thủy, công nghiệp điện tử…Cuối 1965, tổng giá trị ngành
công nghiệp chế biến trong tổng sản phẩm quốc nội tăng 15,6%, tốc độ tăng
trưởng kinh tế là 5-7%.
Như vậy, công nghiệp hóa hướng nội là một hướng đi đúng, bởi vì đáp
ứng được nhu cầu nguyện vọng của các quốc gia sau khi giành được độc lập,
điểm thống nhất của các nước là sản xuất hàng tiêu dùng để thay thế hàng nhập
khẩu, do đó thị trường nội địa đóng vai trò chủ yếu, hạn chế nhập khẩu hàng hóa
bằng cách đánh thuế cao.
Nhưng bên cạnh những thành tựu đã đạt được, các nước trong khu vực
còn phải đối mặt với nhiều khó khăn sau: phải nhập khẩu nhiều nguyên liệu,
máy móc, vẫn phải phụ thuộc vào nước ngoài, sử dụng vốn đầu tư không hiệu
quả, kinh doanh thua lỗ, tệ tham nhòng, quan liêu, những bất ổn định về chính
trị, xã hội như bất bình đẳng giữa người Mã lai và người Hoa ở Malaixia…
Sự đa dạng của các nước Đông Nam Á còn được thể hiện ở việc thực hiện
các chính sách công nghiệp hóa, cụ thể nh: Singapo là công nghiệp chế biến, lắp

ráp điện tử, Malaixia là công nghiệp chế biến lâm sản, nông sản
Do những hạn chế trên, và do hoàn cảnh thế giới có nhiều thay đổi đã tác
động tới các nước Đông Nam Á, buộc các nước này phải thay đổi chiến lược
phát triển của mình, chuyển từ công nghiệp hoá hướng nội sang công nghiệp hoá
hướng ngoại.
Công nghiệp hoá hướng ngoại là lấy các mặt hàng nông nghiệp truyền
thống làm trọng điểm, sử dụng nhiều sức lao động, để thu hót bao nhiêu lao
động, và chú trọng các sản phẩm sử dụng hàm lượng kỹ thuật cao nh điện tử.
Việc chuyển sang công nghiệp hoá hướng ngoại sẽ giúp các nước Đông Nam Á
18
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
có thể phát huy được thế mạnh của từng nước, giải quyết vấn đề thất nghiệp, tận
dụng những kỹ thuật tiên tiến bên ngoài.
Đây là xu hướng chung, là điểm thống nhất của các nước Đông Nam Á,
nhưng quá trình thực hiện ở mỗi nước lại có nhiều điểm khác nhau do đó thành
tựu đạt được cũng khác nhau.
*Inđônêxia: Thực hiện chương trình ổn định kinh tế để khắc phục những
hạn chế trước đây, đưa nền kinh tế “đóng cửa” chuyển sang nền kinh tế mở.
Từ năm 1969 thực hiện chương trình công nghiệp hóa dùa trên khai thác
dầu mỏ để xuất khẩu và thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất Repelia (1969-
1974), thu hót đầu tư nước ngoài, thực hiện cách mạng xanh trong nông nghiêp,
đa dạng hóa cây trồng…Do đó kinh tế Inđônêxia có nhiều khởi sắc: năm 1960
tốc độ tăng trưởng kinh tế là 3,5% đến năm 1970 là 7,8%.
*Philipin: thực hiện kế hoạch 4 năm (1967-1790), để hiện đại hóa nông
nghiệp, tăng cường công nghiệp hóa, đưa ra luật khuyến khích xuất khẩu năm
1970 để kích tích sản xuất. Các ngành công nghiệp hiện đại cũng được chú trọng
nh luyện kim, xây dùng.
Chính phủ còn ban hành Sắc lệnh cải cách ruộng đất (năm 1972) thực
hiện cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp để nâng cao đời sống nhân dân,

nhờ đó nền kinh tế có chuyển biến tốt: năm 1970 mức tăng GDP là 3,7% thì
năm 1972 là 5,54%.
*Malaixia: Chính phủ quyết định thực hiện chiến lược phát triển kinh tế
xã hội nhằm “xâydựng lại xã hội Malai”, thông qua thực hiện kế hoạch triển
vọng lần thứ nhất (OPPI) 1970-1980. Nhờ đó kinh tế Malaixia có nhiều ghi nhận
đáng kể sau: tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 7,8%. Thu nhập quốc dân
năm 1973 là 600 USD/ người, đến năm 1975 là 890 USD/ người.
*Singapo: Để phục vụ chiến lược công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu,
chính phủ chủ trương thu hót đầu tư của các công ty đa quốc gia. Năm 1966 luật
công đoàn ra đời, thành lập quỹ dự phòng trung ương (CPF) để tăng cường
nguồn dự trữ và khả năng cung cấp vốn của chính phủ. Cải tổ hệ thống giáo dục
19
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
từ phổ thông đến đại học, nhờ đó mà tốc độ tăng trưởng kinh tế Singapo rất cao
12%/năm, tỷ trọng sản xuất công nghiệp tăng đạt 30% trong toàn bộ nền kinh tế,
tạo ra 150.000 việc làm tỷ lện thất nghiệp giảm còn 4,5%, thu nhập bình quân
đầu người đạt 1580 USD năm 1973, là nước đứng đầu Đông Nam Á về phát
triển kinh tế trong thời kỳ này.
Đây chính là một số nét đặc sắc, đa dạng của các nước Đông Nam Á trong
những thập kỷ 70 của thế kỷ XX.
Từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay nền kinh tế của các nước Đông
Nam Á cũng có nhiều thay đổi và mỗi nước lại tạo cho mình một nét độc đáo riêng.
* Inđônêxia: vẫn tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm
lần thứ năm (1989-1994), mở rộng quốc tế tư nhân hóa, đa dạng hóa kinh tế, về
cơ bản là đạt được những chỉ tiêu đề ra: đầu tư nước ngoài (FDI) tăng 7 lần, giá
trị xuất khẩu tăng gấp đôi…
Đến 1995, Inđônêxia thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 6 (1995-1999) để
duy trì ổn định kinh tế, chính trị, tập trung vào các ngành kinh tế đòi hỏi kỹ thuật
cao, điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Trong thời gian này, cuộc khủng hoảng tài chính

tiền tệ ở Đông Nam Á diễn ra (1997) làm cho kinh tế Inđônêxia chịu tác động nặng
nề, đồng rupi bị mất giá quá 80%, mức lạm phát phi mã 83,2%, có 80% tổng số
công ty, xí nghiệp bị phá sản, có 12 triệu người thất nghiệp làm 15 triệu người thiếu
đói. Trước tình hình đó Inđô đã kêu gọi quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Inđô thực hiện
“chương trình cải cách và phục hồi kinh tế 4 điểm” và “chương trình hành động 8
điểm”. Bằng những biện pháp đó, cuối 1999, kinh tế Inđônêxia dần dần phục
hồi. Năm 2000 tỷ lệ nợ chính phủ trong tổng GDP là 100%, đến 2001 còn 90%
và năm 2002 là 80%, mức độ lạm phát giảm còn 22,7% (1999), số người thất
nghiệp còn 8,5 triệu người. Nền kinh tế Inđônêxia dần ổn định.
*Philipin: Đầu thập niên 90 kinh tế Philipin có biểu hiện sa sót do khó khăn
trong nước và ảnh hưởng của việc tăng giá xăng dầu mỏ trong thời gian chiến
tranh vùng vịnh. Vì thế, chính phủ đã miễn thuế một số mặt hàng xuất khẩu, đẩy
20
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
mạnh quốc tế tư nhân hóa có chọn lọc, do có tốc độ tăng trưởng kinh tế dần nhích
lên, đạt 1,7% (1993) công nghiệp tăng gần 3 %, dịch vụ tăng 2% (1993).
Đến năm 1997 cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ có tác động tới Philipin
nhưng nhờ có nhiều cố gắng nên kinh tế nước này đạt được nhiều thành tựu:
2002 tốc độ tăng trưởng kinh tế là 4%), tỷ lệ lạm phát dưới 3%.
*Mianma: cuối 1988, SLORC thực hiện chính sách cải cách và mở cửa
nền kinh tế, để khôi phục nguồn tài chính, chính phủ đã bán quyền khai thác
lâm, hải sản cho các công ty nước ngoài, mở cửa buôn bán biên giới, ban bố luật
đầu tư nước ngoài, bãi bỏ luật thiết lập hệ thống xã hội chủ nghĩa”, thông qua
luật Doanh nghiệp tư nhân để khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân phát
triển. Chính sách cải cách và mở cửa đã đem lại những kết quả bước đầu, tốc độ
tăng trưởng kinh tế 1989 là 3%, 1992 là 10,9%.
Nhìn chung, kinh tế Mianma có trình độ phát triển kinh tế còn thấp, cơ sở
hạ tầng lạc hậu, sản xuất không hiệu quả… Đây là những thách thức đặt ra cho
chính phủ Mianma.

*Lào: tháng 11-1986 đã đặt ra chương trình cải cách kinh tế toàn diện là
xây dựng cơ chế kinh tế mới, thông qua các kế hoạch 5 năm 1990-1995 và 1996-
2000, đề ra những chính sách nhằm hiện đại hóa nền sản xuất, chuẩn bị điều
kiện để hội nhập vào khu vực và thế giới.
Nhờ đó kinh tế Lào có nhiều thay đổi, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch
nông nghiệp chiếm 54% GDP, công nghiệp là 19% và dịch vụ là 27%. Trong 5
năm (1992-1996) tỷ lệ tăng trưởng GDP là 7%/ năm, nông nghiệp là 5%/năm,
công nghiệp là 12%/năm, dịch vụ là 7%/năm. Thu nhập quốc dân là 350 USD/
người (1995).
*Campuchia: chính phủ tập trung vào giải quyết những vấn đề trước mắt
như ổn định kinh tế, giảm lạm phát, cải cách hành chính, nâng cấp cơ sở hạ tầng,
khuyến khích đầu tư,…Nhờ đó kinh tế Campuchia đã đạt được những kết quả
sau: năm 1998 nông sản xuất khẩu chiếm 11.7% tổng kim ngạch hàng hóa, công
21
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
tác xóa đói giảm nghèo đạt kết quả cao từ 39% (1998) đến 4,3% (1999), kinh tế
có chiều hướng gia tăng từ 2% (1998) đến 4,3% (1999) và 6% (2001).
*Việt Nam: bắt đầu thực hiện đổi mới nền kinh tế từ 1986 và thu được
nhiều thành tựu đáng kể: Tốc độ tăng trưởng GDP từ 5,3% (1990) lên 9,5%
(1995). Để khắc phục những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
trong khu vực, chính phủ Việt Nam đã đề ra những chủ trương và biện pháp
phát triển để tiếp tục công nghiệp hóa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng nhanh: 4,77 % (1999) lên 6,79% (2000),
6,89%(2001), 7,08% (2002), 7,69% (2004). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng tiến bộ: công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,6% (1990) lên 38,3%
(2002), là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới sau Thái Lan. Tỷ lệ thất
nghiệp giảm: 6,9% (1998) còn 5,6% (2004).
Nh vậy, điểm chung, điểm thống nhất của các quốc gia trong khu vực là phát
triển kinh tế, ổn định đất nước để hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

Nhưng quá trình phát triển và hội nhập kinh tế lại có nhiều khác nhau,
mỗi quốc gia lùa chon theo một hướng, một con đường nên kết quả đạt được có
khác nhau. Điều này tạo nên tính đa dạng trong thống nhất cho các quốc gia
Đông Nam Á. Đa dạng và thống nhất là 2 đặc điểm luôn đi song song với nhau
trong mọi lĩnh vực ở khu vực Đông Nam Á. Kể cả lĩnh vực chính trị.
5: Tính thống nhất trong đa dạng về mặt chính trị
Thực tế lịch sử cho thấy, để giành lại độc lập dân téc, nhân dân các nước
Đông Nam Á đều phải trải qua cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ vì các cường
quốc thực dân không dễ dàng từ bỏ thuộc địa của mình. Cuộc đấu tranh vì độc
lập, tự do diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện lịch
sử cụ thể của từng nước và tác động của những nhân tố bên trong cũng như bên
ngoài khu vực. Đặc biệt là tác động của chiến tranh lạnh, của trật tự thế giới 2
cực và ý đồ chiến lược của các nước lớn đã ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình khu
vực và cuộc đấu tranh giành độc lập tự do của các dân téc ở ĐNA.
22
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
*Lào: Cách mạng tháng Tám thành công ở Việt Nam đã tạo điều kiện
thuận lợi cho cách mạng Lào. Ngày 12/10/1945 nhân dân thủ đô Viên Chăn khởi
nghĩa giành chính quyền. Nhưng sau đó tháng 3 năm 1946 thực dân Pháp đưa
quân tái chiếm Lào. Cách mạng Lào bước sang mét giai đoạn mới đầy khó khăn,
gian khổ. Đến tháng 5-1975 hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng nhân dân cách
mạng Lào, các lực lượng vũ trang cách mạng có sự phối hợp của quần chúng đã
nhanh chóng chiếm được các vị trí quan trọng: Viên Chăn…
Ngày 23/8/1975 thủ đô Viên Chăn được giải phóng. Ngày 1/12/1975 Đại
hội đại biểu nhân dân toàn quốc được triệu tập tại thủ đô chính thức thành lập
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lao, chấm dứt ách thống trị của đế quốc và
phong kiến ở Lào, đưa nước Lào tiến lên con đường hòa bình, độc lập, dân chủ,
thống nhất, thịnh vượng và tiến bộ xã hội.
*Campuchia:

Ngày 7/4/1946 triều đình phong kiến đã kí với Pháp hiệp định chấp nhận
sự thống trị trở lại của Pháp ở Campuchia, nhưng nhân dân Campuchia đã đứng
lên tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và thành lập
chính phủ trung lập. Nhưng 18/3/1970 Mĩ xâm lược Campuchia, biến nước này
thành thuộc địa kiểu mới của mình.
Đến17/4/1975 thủ đô Phnômpênh được giải phóng, cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước của nhân dân Campuchia thắng lợi hoàn toàn. Tiếp sau đó,
Campuchia phải đối mặt với chính quyền phản động Pônpốt – Iêngxari. Đến
ngày 7/1/1979 mới hoàn toàn được độc lập.
* Inđônêxia:
Ngày 17/8/1945 Inđônêxia tuyên bố độc lập, chính phủ mới được thành
lập. Nhưng tháng 9/1945 Anh giúp đỡ thực dân Hà Lan quay lại thống trị
Inđônêxia.
Trải qua một quá trình đấu tranh gian khổ ngày 15/8/1950 nước cộng hòa
Inđônêxia thống nhất được thành lập.
23
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
*Philipin: sau khi lật đổ ách thống trị Nhật thì Philipin lại rơi vào tay Mĩ.
Nhân dân Philipin đấu tranh quyết liệt buộc Mĩ phải trao trả lại độc lập vào ngày
4/7/1946, Philipin trở thành một nước cộng hòa độc lập.
*Liên bang Malaixia: sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, 5/9/1945, quân
Anh chiếm đóng Mã Lai. Nhân dân Mã Lai đứng lên đấu tranh tiêu biểu như
ngày 20/10/1947 hàng vạn người ở Culalămpơ tham gia bãi công phản đối sự
thống trị của chính quyền thực dân. Ngày 31/8/1957, Anh phải trao trả độc lập
cho Mã lai và ngày 16/9/1963 liên bang Mã Lai chính thức được thành lập.
*Singapo: sau chiến tranh thế giới thứ 2, thực dân Anh quay trở lại xâm
lược Singapo. Đến 22/12/1965 nước cộng hòa Singapo tuyên bố thành lập và
bước vào một thời kỳ phát triển mới.
*Brunây: chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, Anh quay trở lại thống trị

Brunây. Đến ngày 1/1/1984, Brunây chính thức tuyên bố là quốc gia độc lập
nằm trong khối liên hiệp Anh.
*Thái Lan: là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á không phải tiến hành đấu
tranh giành độc lập. Chỉ trong vòng 1 năm đã lần lượt trao trả các vùng đất
chiếm được trong thời gian chiến tranh và khôi phục lại quan hệ ngoại giao với
các nước.
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Đông Nam Á trở thành điểm khởi đầu của
phong trào giải phóng dân téc trên thế giới, sự phát triển của phong trào nàyđã
làm sụp đổ hoàn toàn hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân ở khu vực này.
Những con đường khác nhau đi đến độc lập dân téc cho thấy sự đa dạng của các
quốc gia Đông Nam Á. Hệ quả của sự phát triển đa dạng đó đã dẫn tới việc hình
thành các thể chế chính trị, xu hướng phát triển khác nhau. Sau khi giành độc
lập, hai nước Việt Nam và Lào đã lùa chọn con đường phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; Inđônêxia và Campuchia thì thi hành chính sách trung
lập; Philipin, Malaixia, Singapo và Thái Lan mặc dù được độc lập về chính trị
nhưng nền độc lập còn bị hạn chế bởi các hiệp định kinh tế, quân sự. Mianma đi
theo con đường phát triển biệt lập.
24
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC-
Lịch sử
Mặc dù chế độ chính trị có nhiều khác nhau nhưng có nét chung, thống
nhất, đó là các quốc gia ở Đông Nam Á đều trong tổ chức ASEAN.
Xu hướng chung của các quốc gia Đông Nam Á là liên kết khu vực hợp
tác hóa để cùng phát triển, hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Đây không chỉ là
xu thế chung ở khu vực mà còn là xu thế chung của thế giới như 1950 Liên đoàn
Ả Rập được thành lập, 1951 các tổ chức Trung Mĩ được thành lập, 1957 cộng
đồng kinh tế chung Châu Âu EEC ra đời.
Việc thành lập hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) nhằm thực hiện
những mục tiêu sau:
- Thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa, trên

tinh thần bình đẳng và hợp tác nhằm xây dựng một cộng đồng Đông Nam Á hòa
bình và thịnh vượng.
- Thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực bằng việc tôn trọng công lý và
nguyên tắc luật pháp của các nước trong khu vực.
- Thúc đẩy sự cộng tác tích cực và giúp đỡ nhau trong vấn đề cùng quan
tâm trên các lĩnh vực kinh tế xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật và hành chính.
- Thúc đẩy việc nghiên cứu về Đông Nam Á
- Duy trì sự hợp tác chặt chẽ cùng có lợi với các tổ chức quốc tế và khu
vực, có tôn chỉ và mục đích tương hợp.
Sau nhiều cuộc thảo luận, ngày 8/8/1967, ngoại trưởng 5 nước (Thái Lan,
Malaixia, Singapo, Philipin, Inđônêxia) đã họp ở Băng Cốc, tuyên bố thành lập
hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
So với các tổ chức trước đây, nguyên tắc hoạt động, cơ cấu tổ chức của
ASEAN chặt chẽ hơn.
Đến năm 1984 ASEAN kết nạp thêm Brunây.
Ngày 28/7/1995 kết nạp Việt Nam là thành viên thứ 7 của tổ chức.
Năm 1997, Lào và Mianma trở thành thành viên thứ 8 và thứ 9 của
ASEAN. Đến năm 1999, Campuchia gia nhập ASEAN.
25

×