Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tiểu luận: Thực trạng và phương hướng xuất khẩu gạo của Việt Nam vào khu vực mậu dịch tự do Asean ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (772.39 KB, 28 trang )




Tiểu luận
Thực trạng và phương hướng xuất
khẩu gạo của Việt Nam vào khu vực
mậu dịch tự do Asean


















Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
1
Lời mở đầu
Trong điều kiện hiện nay, hoạt động giao tiếp giữa các quốc gia trên thế
giới trong lĩnh vực kinh tế thương mại ngày càng phát triển mở rộng và mang
tính khu vực hóa và toàn cầu hóa một cách mạnh mẽ, đặc biệt là sự hình


thành, tồn tại và phát triển của các liên kết kinh tế thương mại trong phạm vi
khu vực, tiểu khu vực và của các công ty xuyên quốc gia trong các thập kỉ qua
đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử phát triển các quan hệ
kinh tế thương mại quốc tế. Tình hình này làm cho các quốc gia không thể chỉ
bó hẹp hoạt động kinh tế thương mại trong phạm vi quốc gia mà phải tham
gia vào các hoạt động kinh tế thương mại trong khu vực hoặc toàn cầu nhằm
tận dụng lợi thế so sánh của mình. Trong xu hướng toàn cầu hóa, ngày
8/8/1967, ngoại trưởng của 5 quốc gia Đông Nam Á là Malaisia, Indonesia,
Thái Lan, Philippin và Singapore đã ra tuyên bố thành lập Asean. Ngày
28/7/1995, Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
tại hội nghị các bộ trưởng Ngoại giao Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á lần
thứ 28 tại Brunây mở ra triển vọng mới cho xuất khẩu của Việt Nam vào khu
vực mậu dịch tự do Asean (Afta). Nhìn chung, cơ cấu hàng xuất khẩu của
Việt Nam tương đồng với cơ cấu hàng xuất khẩu của các nước ASEAN khác
như Thái lan, Philíppin với thế mạnh là hàng nông sản. Nhìn vào cơ cấu
xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN năm 2006, có thể thấy hai mặt hàng
xuất khẩu có kim ngạch và tỷ trọng lớn nhất là dầu thô (thường chiếm tỷ trọng
xung quanh mức 40% - năm 2005 lên tới trên 46,6%), sau đó là gạo (chiếm tỷ
trọng trên 10%). Các nước nhập khẩu gạo lớn trong ASEAN như Inđônêxia,
Philipin, Malaixia đều coi gạo là mặt hàng đặc biệt quan trọng và thực hiện
nhiều biện pháp phi quan thuế để quản lý mặt hàng này. Các nước này đều để
mặt hàng gạo trong danh mục hàng nhạy cảm (SL), và việc nhập khẩu thường
do cơ quan nhà nước quyết định dựa trên sản lượng sản xuất trong nước.
Trong bản đề án này, em sẽ trình bày một số khái niệm cơ bản, tác động và
những biện pháp được sử dụng trong buôn bán quốc tế, về khu vực mậu dịch
tự do Asean và xuất khẩu gạo của Việt Nam vào khu vực thương mại quan
trọng này. Nội dung của đề án gồm những phần cơ bản như sau:
Chương I: Lí thuyết chung về thương mại quốc tế và các hàng rào
thuế quan
1.1 Thương mại quốc tế và lợi ích của thương mại quốc tế:

1.1.1 Các khái niệm về thương mại quốc tế, đặc trưng và đối tượng nghiên
cứu
1.1.2 Lợi ích của thương mại quốc tế. Vai trò của thương mại quốc tế và
phát triển kinh tế.
1.2 Các hàng rào thương mại
1.2.1 Thuế quan và vai trò của thuế quan:
1.2.2 Các hàng rào thương mại phi thuế quan:


Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
2
Chương II: Xuất khẩu gạo khi Việt Nam tham gia khu vực mậu dịch
tự do Asean:
2.1 Khái quát về Khu vực mậu dịch tự do Asean và hội nhập của Việt
Nam:
2.1.1 Giới thiệu về Afta:
2.1.2 Quá trình tham gia và lịch trình giảm thuế của Việt Nam
2.2 Lộ trình hội nhập Cept –Afta của hàng nông sản Việt Nam:
2.2.1 Khó khăn
2.2.2 Thuận lợi
Chương III: Thực trạng và phương hướng xuất khẩu gạo của Việt
Nam vào khu vực mậu dịch tự do Asean:
3.1 Tình hình xuất khẩu gạo Việt Nam vào khu vực Asean:
3.2 Phương hướng đẩy mạnh xuất khẩu gạo Việt Nam


Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
3
Chương I: Lí thuyết chung về thương mại quốc tế
và các hàng rào thuế quan


1.1 Thương mại quốc tế và lợi ích của thương mại quốc tế:
1.1.1 Các khái niệm về thương mại quốc tế, đặc trưng và đối tượng
nghiên cứu
Thực tiễn hoạt động buôn bán giữa các nước trên thế giới hiện nay đã
cho thấy rõ xu hướng tự do hóa thương mại và vai trò của thương mại quốc tế
đối với tăng trưởng kinh tế của các nước. Thương mại quốc tế đã trở thành
một lĩnh vực quan trọng tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công
lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước.
Thương mại quốc tế ngày nay đã không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là
buôn bán mà thể hiện sự phụ thuộc tất yếu của các quốc gia vào phân công
lao động quốc tế. Vì vậy thương mại quốc tế được coi như là một tiền đề, một
nhân tố để phát triển kinh tế trong nước trên cơ sở lựa chọn một cách tối ưu
sự phân công lao động và chuyên môn hóa quốc tế.
Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hóa dịch vụ giữa các nước
thông qua buôn bán nhằm mục đích kinh tế và lợi nhuận. Trao đổi hàng hóa,
dịch vụ là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự
phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
riêng biệt của các quốc gia.
Thương mại quốc tế vừa được coi là một quá trình kinh tế lại vừa được
coi là một ngành kinh tế. Với tư cách là một quá trình kinh tế, thương mại
quốc tế được hiểu là một quá trình bắt đầu từ khâu điều tra nghiên cứu thị
trường cho đến khâu sản xuất kinh doanh, phân phối, lưu thông –tiêu dùng và
cuối cùng lại tiếp tục tái diễn lại với qui mô và tốc độ lớn hơn. Còn với tư
cách là một ngành kinh tế thì thương mại quốc tế là một lĩnh vực chuyên môn
hóa, có tổ chức, có phân công và hợp tác, có cơ sở vật chất kĩ thuật, lao động,
vốn, vật tư, hàng hóa là hoạt động chuyên mua bán, trao đổi hàng hóa dịch
vụ với nước ngoài nhằm mục đích kinh tế.
Thương mại quốc tế bên cạnh việc khai thác mọi lợi thế tuyệt đối của đất
nước phù hợp với xu thế phát triển và quan hệ kinh tế quốc tế thì cũng cần

phải tính đến lợi thế tương đối có thể được. Có nghĩa là phải luôn tính toán
giữa cái có thể thu được với cái phải trả khi tham gia vào thương mại quốc tế
để có biện pháp chính sách thích hợp. So với buôn bán trong nước thì thương
mại quốc tế có những đặc trưng riêng.
Quan hệ buôn bán trong nước là những quan hệ giữa những người tham
gia vào quá trình sản xuất và lưu thông trên cơ sở phân công lao động và
chuyên môn hóa trong nước trong khi đó thương mại quốc tế thể hiện sự phân
công lao động và chuyên môn quốc tế ở trình độ kĩ thuật cao hơn và qui mô
lớn. Nó được phát triển trong môi trường hoàn toàn khác so với quan hệ buôn
bán trong nước.


Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
4
Thương mại quốc tế là quan hệ kinh tế diễn ra giữa các chủ thể của các
nước khác nhau, các chủ thể có quốc tịch khác nhau. Vì vậy liên quan đến
thương mại quốc tế là liên quan đến hàng loạt các vấn đề khác nhau giữa các
nước. Điều này làm cho thương mại quốc tế phức tạp hơn rất nhiều so với các
quan hệ buôn bán trong nước.
Thị trường quốc tế và thị trường dân tộc là những phạm trù kinh tế khác
nhau. Vì vậy, các quan hệ kinh tế diễn ra giữa các chủ thể trong kinh doanh
thương mại quốc tế mang tính chất kinh tế xã hội hết sức phức tạp. Quan hệ
thương mại quốc tế diễn ra giữa các chủ thể kinh tế của các nước khác nhau
nên quan hệ này chịu sự điều tiết của các hệ thống luật pháp của các nước
khác nhau, ngoài ra trong thương mại quốc tế còn thường xuyên sử dụng các
luật, điều ước, công ước, qui tắc, thông lệ mang tính chất quốc tế nên hệ
thống luật điều chỉnh trong thương mại quốc tế phức tạp hơn nhiều so với
buôn bán trong nước. Ngoài việc phải hiểu rõ và nắm bắt kịp thời những thay
đổi của luật và chính sách quốc gia thì các nhà kinh doanh thương mại quốc tế
cũng cần nắm rõ những vấn đề này của các nước khác, đặc biệt là phải hiểu rõ

những qui định cụ thể của nước đối tác về mặt hàng, lĩnh vực mà minh kinh
doanh cũng như hiểu và sử dụng tốt những qui định mang tính chất quốc tế.
Cũng giống như luật pháp, mỗi quốc gia cũng có đồng tiền riêng của
quốc gia mình .Trong quan hệ thương mại quốc tế, các nhà kinh doanh phải
quan tâm đến không chỉ một đồng tiền của quốc gia mình mà cần nắm rõ tình
hình thị trường tiền tệ, chính sách tiền tệ của các nước khác để lựa chọn sử
dụng một đồng tiền thanh toán hợp lí nhất vì đồng tiền thanh toán trong
thương mại quốc tế là ngoại tệ đối với ít nhất là một bên tham gia.
Trong thương mại quốc tế hàng hóa, dịch vụ được di chuyển qua biên
giới quốc gia. Vì vậy, quan hệ thương mại quốc tế phụ thuộc nhiều vào chính
sách thương mại quốc tế của các nước, đặc biệt là việc quản lí thương mại
quốc tế thông qua các công cụ chính sách như thuế, hạn ngạch và các công cụ
phi thuế quan khác của các nước. Chính phủ các nước có thể sử dụng các
hàng rào để ngăn ngừa hay điều tiết luồng hàng hóa nhập khẩu để bảo hộ cho
các doanh nghiệp nội địa hoặc cũng có thể sử dụng các công cụ khác nhau
như trợ cấp để giúp các doanh nghiệp nội địa tăng khả năng cạnh tranh trên
thị trường. Ngoài ra, do phải vận chuyển qua biên giới quốc gia với khoảng
cách tương đối xa nên quá trình giao nhận vận chuyển cũng trở nên phức tạp
hơn rất nhiều, đòi hỏi thêm nhiều hoạt động kèm theo như làm các thủ tục
thông quan, vận chuyển thường thông qua các hãng vận tải, mua bảo hiểm
cho hàng hóa
Đặc biệt là đối với những hàng hóa, dịch vụ tham gia vào thương mại
quốc tế thì phải phù hợp với những qui định của các nước về chính sách mặt
hàng và loại hàng hóa dịch vụ mà thế giới chấp nhận. Vì vậy đối với hàng hóa
và dịch vụ tham gia vào thương mại quốc tế thường phải đạt được một số tiêu
chuẩn nhất định hay nói cách khác là phải được tiêu chuẩn hóa. Những tiêu


Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
5

chuẩn này có thể là tiêu chuẩn của quốc gia, có thể là tiêu chuẩn của khu vực
cũng có thể là những tiêu chuẩn quốc tế.
Nói chung thì so với thương mại trong nước, thương mại quốc tế có
những nét đặc trưng riêng. Chính những nét đặc trưng này làm thương mại
quốc tế trở nên phức tạp hơn rất nhiều, điều này đòi hỏi doanh nghiệp tham
gia vào quan hệ thương mại quốc tế phải có cái nhìn tổng quát đồng thời phải
hiểu rõ được bản chất của các quan hệ thương mại quốc tế chứ không thể nghĩ
một cách đơn giản cứ buôn bán trong nước được thì cũng có thể buôn bán với
nước ngoài được.

1.1.2 Lợi ích của thương mại quốc tế. Vai trò của thương mại quốc tế và
phát triển kinh tế.
Không thể phủ nhận vai trò cần thiết của thương mại quốc tế đối với phát
triển kinh tế của các nước hiện nay. Có thể nói rằng thương mại quốc tế có ý
nghĩa sống còn đối với các nước tham gia vì nó cho phép các quốc gia tiêu
dùng các mặt hàng với số lượng nhiều hơn và chủng loại phong phú hơn mức
có thể tiêu dùng với ranh giới của đường giới hạn khả năng sản xuất trong
điều kiện đóng cửa nền kinh tế của nước đó. Hay nói cách khác, thương mại
quốc tế giúp mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Bên cạnh đó, nó cũng
cho phép các quốc gia thay đổi cơ cấu ngành nghề kinh tế, cơ cấu vật chất của
sản phẩm theo hướng phù hợp với đặc điểm sản suất của mình hơn. Cụ thể:
Thương mại quốc tế tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát
triển. Thương mại quốc tế là lĩnh vực trao đổi, phân phối lưu thông hàng hóa,
dịch vụ với nước ngoài, nối sản xuất và tiêu dùng của nước ta với nước ngoài.
Mà trong quá trình tái sản xuất mở rộng thì khâu phân phối và lưu thông này
được coi là khâu quan trọng, khâu có vai trò quyết đinh tới tiến trình sản xuất.
Sản xuất có phát triển được hay không, phát triển như thế nào phụ thuộc rất
nhiều vào khâu này. Chính vì vậy có thể khẳng định thương mại quốc tế tác
động trực tiếp đến sự phát triển của nền sản xuất.
Tất cả các nước đều có quan hệ thương mại với phần còn lại của thế giới.

Trao đổi hàng hóa là tiền đề cho sự phát triển của loài người. Nhờ có trao đổi
hàng hóa, phân công lao động mới có thể phát triển. Ngược lại, phân công lao
động phát triển cũng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền
kinh tế hàng hóa. Khi phân công lao động vượt ra khỏi phạm vi của quốc gia,
thì thương mại quốc tế là chất xúc tác và cũng là động lực thúc đẩy sự phát
triển của phân công lao động quốc tế, và nền kinh tế hàng hóa toàn cầu.
Trong xã hội nguyên thủy, con người tự sản xuất ra mọi vật phẩm để đáp
ứng nhu sống tối thiểu của con người. Cùng với sự phát triển của xã hội loài
người là sự phát triển của quá trình phân công lao động. Con người sinh ra
cùng với quá trình sống và rèn luyện bản thân thông qua học tập và tích lũy
kinh nghiệm đã hình thành nên những kĩ năng lao động khác nhau phù hợp
với khả năng của mỗi người. Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa và phân
công lao động có vai trò lịch sử quan trọng đối với sự phát triển của loài


Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
6
người. Thông qua phân công lao động và trao đổi hàng hóa, con người có khả
năng nâng cao năng suất lao động bằng cách chuyên môn hóa vào sản xuất
những hàng hóa và dịch vụ mình có khả năng sản xuất được tốt nhất sau đó
trao đổi với các nhà sản xuất khác để đổi lấy tất cả những hàng hóa cần thiết.
Theo Adam Smith, phân công lao động không chỉ có ý nghĩa đối với
nâng cao năng suất lao động trong phạm vi một quốc gia, mà các nước tham
gia vào phân công lao động quốc tế và tiến hành trao đổi hàng hóa quốc tế
cũng sẽ đem lại lợi ích cho tất cả các nước tham gia vào thương mại quốc tế.
Theo lí thuyết thương mại cổ điển thì tất cả các nước, không phân biệt
qui mô, tư tưởng chính trị, trình độ phát triển đều có thể có lợi khi tham gia
vào thương mại quốc tế. Thương mại quốc tế đem lại lợi ích cho tất cả các
quốc gia và mở rộng khả năng tiêu dùng của các quốc gia với những nguồn
lực sẵn có thông qua việc trao đổi hàng hóa với thị trường thế giới và xuất

khẩu được hàng hóa với mức giá cao hơn tương đối so với giá của thị trường
trong nước và nhập khẩu hàng hóa với mức giá thấp hơn tương đối so với giá
của thị trường trong nứoc. Như vậy, thương mại quốc tế có thể nâng cao tổng
sản lượng quốc dân của một nước và mở rộng khả năng tiêu dùng của nước
đó.
Các nhà kinh tế cũng cho rằng thương mại quốc tế giúp các nước nghèo
nâng cao tốc độ tăng trưởng và giảm nghèo, tạo cơ hội cho các nước nghèo
tiếp cận nguồn vốn của các nước giàu thông qua trao đổi các yếu tố sản xuất
giữa các nước.
Thương mại quốc tế còn giúp cân bằng các yếu tố sản xuất, phân phối
thu nhập giữa các yếu tố sản xuất ở nước nghèo sẽ bị điều chỉnh phù hợp với
phân phối thu nhập ở các nước giàu. Phân phối thu nhập cho sức lao động sẽ
tăng lên ở các nước nghèo và thu nhập của các nước nghèo, thừa lao động, sẽ
tăng dần lên hội tụ với thu nhập của các nước giàu, thiếu lao động vì vậy phân
phối thu nhập sẽ trở nên cân bằng hơn, giúp giảm nghèo cho một bộ phận lớn
lao động ở các nước nghèo.
Thương mại quốc tế giúp các nước đạt mục tiêu tăng trưởng thông qua
khuyến khích lợi ích kinh tế trực tiếp. Các ngành kịnh tế có lợi thế so sánh với
các nước khác nhờ vào năng suất lao động vượt trội hoặc nhờ vào việc sử
dụng nhiều các yếu tố sản xuất có sẵn trong nước sẽ nhận được các phần
thưởng kinh tế do hàng hóa hoặc dịch vụ của các ngành này sẽ được thị
trường thế giới trả giá cao hơn thị trường trong nước.
Để thu được lợi ích tối đa từ thương mại quốc tế, các nước không nên
can thiệp làm bóp méo giá cả thị trường. Thương mại tự do sẽ giúp các nước
thúc đẩy tăng trưởng và phát triển.

1.2 Các hàng rào thương mại
1.2.1 Thuế quan và vai trò của thuế quan:
Thuế quan là thuế đánh vào hàng hóa dịch vụ mua bán và vận động qua
“biên giới hải quan của một quốc gia hay vùng lãnh thổ hải quan”. Thuế quan



Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
7
có thể đánh vào hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu, hàng quá cảnh. Thuế quan có
đặc trưng cơ bản sau:
Thuế quan là một loại hàng rào thương mại, gắn với “biên giới hải quan”
của quốc gia hay vùng lãnh thổ. “Biên giới hải quan” là một khái niệm thể
hiện chủ quyền kiểm soát hàng hóa, dịch vụ của các chính phủ và do đó bất
kì một hàng hóa, dịch vụ nào cũng phải làm thủ tục hải quan khi qua “biên
giới” này.
Thuế quan được thể hiện ở biểu thuế quan. Biểu thuế quan khá phức tạp
với hàng ngàn khoản mục riêng biệt và cách áp dụng khác nhau. Tùy theo
phương pháp đánh thuế mà biểu thuế quan có thể thể hiện bằng số tiền tuyệt
đối, tỉ lệ phần trăm hay kết hợp.
Thuế quan có thể được áp đặt bởi nước xuất khẩu, nước nhập khẩu. Nếu
các quốc gia và vùng lãnh thổ không có các hiệp định chống đánh thuế hai lần
thì nhiều hàng hóa, dịch vụ có thể bị đánh thuế trùng lắp trong quá trình mua
bán.
Thuế quan trên thế giới có xu hướng hài hòa hóa do tự do hóa thương
mại và toàn cầu hóa kinh tế.
Phương pháp đánh thuế quan
Hiện nay có 3 phương pháp đánh thuế quan cơ bản: thuế quan theo giá
trị hàng hóa, thuế quan tuyệt đối và thuế quan hỗn hợp.
Thuế theo giá trị hàng hóa (ad valorem): Thuế quan theo giá trị hàng hóa
được tính bằng tỉ lệ % so với giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu. Thuế quan theo
giá trị hàng hóa được sử dụng phổ biến ở các nước hiện nay. Ưu điểm của
phương pháp đánh thuế này là gắn với giá trị hàng hóa nhập khẩu của doanh
nghiệp, không bị xói mòn bởi lạm phát, thuế suất dễ điều chỉnh nên mang tính
linh hoạt, dễ hài hòa khi tham gia các liên kết kinh tế.

Thuế cố định (fixed payment): Thuế quan tuyệt đối là thu một khoản tiền
cố định trên một đơn vị hàng hóa xuất nhập khẩu. Thuế quan tuyệt đối chiếm
vào khoảng 1/3 biểu thuế quan của Mĩ và hầu như toàn bộ biểu thuế quan của
Thụy Sĩ. Thuế quan tuyệt đối có ưu điểm dễ áp dụng hơn và ngăn chặn được
làm hóa đơn giả, gian lận thuế tuy nhiên dễ bị xói mòn bởi lạm phát.
Thuế hỗn hợp (Compound): Thuế hỗn hợp vừa tính theo tỉ lệ % so với
giá trị hàng hóa, dịch vụ vừa thu một hoàn tiền tuyệt đối trên một đơn vị hàng
hóa xuất nhập khẩu.
Các loại thuế quan và vai trò của các loại thuế quan
Tùy thuộc vào mục đích đánh thuế quan, hoạt động kinh doanh, loại
hàng hóa dịch vụ và trong từng điều kiện cụ thể về thị trường và quan hệ
thương mại mà các loại thuế quan khác nhau được áp đặt với vai trò khác
nhau.
 Thuế quan xuất khẩu và vai trò của thuế xuất khẩu
Thuế quan xuất khẩu áp đặt vào hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu của quốc
gia hay vùng lãnh thổ. Thuế quan xuất khẩu có thể đánh vào thành phẩm hay


Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
8
đầu vào xuất khẩu (Nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm). Thuế quan xuất
khẩu có vai trò:
Bảo vệ nguồn tài nguyên khan hiếm trong nước, bảo vệ môi trường sống.
Hướng dẫn đầu tư sản xuất và xuất khẩu
Điều tiết giá cả hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu nhằm hạn chế tiêu cực do
cạnh tranh bán của các doanh nghiệp xuất khẩu.
Bảo vệ lợi ích của người sản xuất trong nước.
Tăng thu cho ngân sách Nhà nước
 Thuế quan nhập khẩu và vai trò của thuế quan nhập khẩu
Thuế quan nhập khẩu đánh vào các hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu vào một

quốc gia hay vùng lãnh thổ. Thuế quan nhập khẩu có thể đánh vào thành
phẩm hoặc đầu vào nhập khẩu (Nguyên vật liệu và bán thành phẩm). Thuế
quan nhập khẩu có vai trò:
Bảo hộ sản xuất trong nước
Hướng dẫn tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân
Tăng thu cho ngân sách Nhà nước
Kích thích đầu tư sản xuất trong nước, đặc biệt là sản xuất thay thế nhập khẩu
Công cụ gia tăng sức mạnh thương lượng với các đối tác.
 Các loại thuế quan khác và vai trò của chúng:
Thuế quan chống bán phá giá: Thuế chống bán phá giá được áp đặt
vào những hàng hóa nhập khẩu được xác định là bán phá giá hoặc sẽ bán phá
giá. Một hàng hóa sẽ bị coi là bán phá giá nếu bán “thấp hơn giá trị thông
thường của hàng hóa đó”. Thấp hơn giá trị thông thường có nghĩa là giá của
hàng hóa nhập khẩu (giá mua hoặc giá bán của nhà xuất khẩu) thấp hơn giá
bán của hàng hóa đó ở nước xuất xứ hoặc thấp hơn giá thành sản xuất. Thuế
quan chống bán phá giá sẽ được áp đặt lên hàng hóa nhập khẩu khi có đơn
kiện và điều tra của cơ quan chính phủ nước nhập khẩu kết luận là có bán phá
giá.
Thuế quan đối kháng: Thuế quan đối kháng là loại thuế được áp dụng
nếu hàng hóa nhập khẩu bị xác định là đã được chính phủ của nước xuất khẩu
trợ cấp trái với qui định của WTO. Thuế quan đối kháng qui định một khoản
bồi thường dưới dạng thuế nhập khẩu phụ thu để bù vào phần trợ giá của hàng
hóa nước ngoài nhập khẩu mà việc bán hàng hóa đó ở nước nhập khẩu gây
thiệt hại cho nhà sản xuất hàng hóa giống hoặc tương tự hàng hóa nhập khẩu.
Trong hầu hết các trường hợp, phần trợ giá hàng nhập khẩu phải bù lại do
chính phủ nước ngoài trả.
Thuế quan hạn ngạch: Thuế quan hạn ngạch là thuế đánh vào hàng hóa
nhập khẩu vượt hạn ngạch vào một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Số lượng
hàng hóa trong hạn ngạch nhập khẩu được hưởng thuế quan thấp, ngoài hạn
ngạch càng cao thuế càng cao. Thông thường, thuế quan hạn ngạch được thực

hiện theo thuế tuyệt đối và khi đó thuế hàng hóa nhập khẩu vượt hạn ngạch sẽ
trở thành thuế quan hỗn hợp. Phần thuế quan tuyệt đối nếu tính theo giá trị
hàng hóa sẽ rất cao. Một số quốc gia và vùng lãnh thổ sử dụng thuế quan hạn


Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
9
ngạch như một hàng rào thương mại kĩ thuật hiệu quả để ngăn cản hàng hóa
nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước và tăng tính cạnh tranh cho những
hàng hóa sản xuất có chi phí cao trong cùng một liên kết kinh tế.
Thuế quan ưu đãi: Thuế quan ưu đãi là thuế quan giành cho hàng hóa
nhập khẩu từ một số quốc gia hoặc vùng lãnh thổ. Thuế quan ưu đãi thấp hơn
cả thuế quan MFN. Vai trò của thuế quan ưu đãi trước hết là khuyến khích
các quốc gia tham gia các liên kết kinh tế quốc tế ở cấp độ cao, thúc đẩy các
quốc gia đàm phán và kí kết các hiệp định thương mại song phương, từ đó
thúc đẩy thương mại quốc tế và đầu tư.

1.2.2 Các hàng rào thương mại phi thuế quan:
 Các hàng rào định lượng
Cấm nhập khẩu: Là hàng rào phi thuế quan được áp đặt lên một số
hàng hóa, dịch vụ nhất định trong một khoảng thời gian xác định. Cấm nhập
khẩu thường áp đặt chủ yếu cho hàng hóa ảnh hưởng đến an ninh, quốc
phòng, các chất độc hại, sản phẩm văn hóa gây tác hại cho đạo đức, xã hội.
Tuy nhiên đối với một số nước đang phát triển, để bảo hộ cho một số ngành
công nghiệp trong nước, nhất là những ngành công nghiệp non trẻ, hàng rào
thương mại quốc tế cấm nhập khẩu vẫn dùng khá phổ biển.
Vai trò của hàng rào cấm nhập khẩu là để bảo hộ, tạo điều kiện cho các
ngành sản xuất trong nước phát triển, hướng dẫn tiêu dùng, bảo vệ lợi ích
quốc gia và lơị ích của cộng đồng dân cư trong nước nhập khẩu. Hàng rào
cấm nhập khẩu cần phải sử dụng kết hợp với công cụ chính sách khác, kể cả

chính sách thương mại nội địa mới có thể phát huy vai trò kích thích sản xuất
trong nước phát triển. Nếu không, hàng rào cấm nhập khẩu sẽ có tác dụng
ngược lại tạo ra độc quyền, lãng phí nguồn lực xã hội và làm giảm năng lực
cạnh tranh của các sản phẩm sản xuất trong nước.
Tác động kinh tế của cấm nhập khẩu đối với các nước xuất khẩu là hàng
hóa, dịch vụ không thâm nhập được vào thị trường, sản lượng sẽ giảm và ảnh
hưởng đến việc làm. Người tiêu dùng ở nước nhập khẩu sẽ bị thiệt hại do phải
cắt giảm tiêu dùng và chịu giá cả cao hơn. Người sản xuất sẽ đẩy sản lượng
lớn đến điểm cân bằng nội địa và được hưởng lợi do tăng sản lượng và giá cả
cao hơn. Thiệt hại của người tiêu dùng một phần thuộc về người sản xuất và
một phần là thiệt hại ròng của xã hội do nguồn lực bị sử dụng không hiệu quả
để sản xuất ra hàng hóa thay thế nhập khẩu.
Hạn ngạch nhập khẩu (Import quota)
Hạn ngạch nhập khẩu là lượng hàng hóa được phép nhập khẩu vào một
quốc gia hay vùng lãnh thổ trong một thời kì nhất định. Hạn ngạch nhập khẩu
là hàng rào thương mại phi thuế quan đơn giản nhất. Cơ chế tác động của hạn
ngạch cũng có thể so sánh với tác động của thuế quan. Hạn ngạch tác động về
mặt lượng còn thuế quan tác động thông qua giá
Cấp phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu


Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
10
Cấp phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu là hàng rào định lượng do chính phủ
sử dụng đối với một số hàng hóa khi xuất hoặc nhập khẩu vào một thị trường
xác định. Có thể áp đặt cho các doanh nghiệp xuất hoặc nhập khẩu. Cấp phép
có thể theo thời kì hoặc cho từng số lượng hàng hóa nhất định. Cấp phép xuất
hoặc nhập khẩu có thể tự động hoặc ``không tùy vào điều kiện thương mại cụ
thể giữa hai quốc gia. Mục đích là quản lí những mặt hàng ảnh hưởng đến an
ninh, quốc phòng, bảo vệ tài nguyên

 Hạn chế xuất khẩu tự nguyện
Là hàng rào phi thuế quan mà các quốc gia xuất khẩu thỏa thuận hạn chế
xuất khẩu một số loại hàng hóa cụ thể sang một số thị trường cụ thể. Hạn chế
xuất khẩu tự nguyện có thể là chính thức hoặc không chính thức. Hạn ngạch
của hạn chế xuất khẩu tự nguyện không nghiêm ngặt, mang tính linh hoạt.
Tùy sự biến động của cung cầu về hàng hóa trên thị trường cụ thể, các thành
viên tham gia hạn chế xuất khẩu tự nguyện có thể thắt chặt hay nới lỏng hạn
ngạch.
Tác động kinh tế của hạn chế xuất khẩu tự nguyện cũng tương tự như
hạn ngạch nhập khẩu nhưng có ba sự khác biệt lớn là tiến thuê hạn ngạch do
hạn chế xuất khẩu tự nguyện hoàn toàn thuộc về dân cư của nước xuất khẩu.
Có nghĩa là nước nhập khẩu bị thiệt. Thứ hai, ảnh hưởng cân bằng tổng quan
ở chỗ nước nhập khẩu phải thanh toán ở mức giá nội địa đầy đủ mà không ở
mức giá thế giới cho các hàng hóa nhập khẩu. Thứ ba, hạn chế xuất khẩu tự
nguyện mang tính phân biệt đối xử nên chỉ áp dụng cho các nước cung ứng
sản phẩm với chi phí thấp nhất. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện cũng có thể
buộc các nhà nhập khẩu phải chấp nhận nhập khẩu của nước có chi phí cao
hơn và phân phối không hiệu quả các nguồn lực của thế giới.
 Các hàng rào liên quan đến giá và quản lí giá
Phương thức định giá hải quan: Phương thức định giá hải quan là hàng
rào phi thuế quan kĩ thuật dễ nhận thấy nhất. Nếu thực hiện tính thuế theo giá
trị hàng hóa, bằng cách định giá hàng nhập khẩu ở mức giá cao hơn, nhân
viên hải quan tăng tiền thuế phải trả. Sử dụng phương thức định giá hải quan
như là một hàng rào thương mại chỉ làm tăng chi phí nhậu khẩu tương tự như
thuế quan nhưng không làm tăng thu nhập cho chính phủ của nước nhập khẩu.
Qui định giá bán tối đa trong nước: Để cản trở một số loại hàng hóa
nhập khẩu, công cụ qui định giá bán tối đa trong nước có thể được sử dụng
bằng cách qui định giá bán tối đa cao, người tiêu dùng phải chịu chi phí bổ
sung tối đa trong nước thấp, người nhập khẩu sẽ không đạt được lợi nhuận
mong muốn nên cắt giảm sản lượng nhập khẩu. Áp dụng cho các hàng hóa

tiêu dùng hoặc đầu vào thay thế nhập khẩu.
Phụ thu và phí: Khi tham gia các liên kết kinh tế quốc tế hoặc thực hiện
các hiệp định thương mại đa phương hoặc song phương, các hàng rào định
lượng không được sử dụng, thuế quan phải cắt giảm theo phụ thu và các loại
phí được sử dụng. Phụ thu là một khoản thu theo tỉ lệ % so với giá trị hàng


Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
11
hóa hay một số tiền tuyệt đối trên một đơn vị hàng hóa áp đặt lên hàng hóa
xuất khẩu hoặc nhập khẩu.
Thuế nội địa: không phân biệt hàng hóa nhập khẩu và sản xuất trong
nước. Tuy nhiên đối với một số hàng hóa có thể đề ra các loại thuế khác nhau
với mức thuế khác nhau. Thuế tiêu thụ đặc biệt là một hàng rào điển hình.
 Các hàng rào liên quan đến doanh nghiệp
Doanh nghiệp thương mại nhà nước: Phân biệt đối xử giữa doanh
nghiệp thương mại nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước cũng là một
loại rào cản thương mại quốc tế. Nhiều doanh nghiệp thương mại nhà nước
được hưởng nhũng ưu đãi trong kinh doanh xuất nhập dẫn đến chênh lệch giá.
Quyền kinh doanh xuất nhập khẩu: Một số quốc gia trên thế giới sử
dụng việc trao quyền kinh doanh xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp như một
hàng rào thương mại, chỉ những doanh nghiệp được phép của chính phủ mới
được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu dẫn đến phân phối sai lệch lợi ích
thương mại quốc tế.
Đầu mối xuất khẩu, nhập khẩu: Áp đặt lên hàng xuất khẩu để hạn chế
xuất khẩu những hàng hóa không khuyến khích
 Các hàng rào liên quan đến đầu tư
Hàm lượng nội địa: Qui định thành phần sản phẩm có nguồn gốc địa
phương cũng là một hàng rào thương mại quan trọng. Các qui định này bảo vệ
các nhà sản xuất phụ tùng nội địa tương tự như hạn ngạch nhập khẩu. Tuy

nhiên, các qui định này không khuyến khích đầu tư nước ngoài mà chỉ làm
tăng buôn bán và có thể làm tăng chi phí do hàng hóa không được kết thúc
quá trình sản xuất tại nơi có chi phí thấp nhất
Tỉ lệ ngoại hối: Nhiều quốc gia qui định tỉ lệ giữa lượng ngoại hối để
nhập khẩu và lượng ngoại hối thu được từ xuất khẩu đối với các công ty có
vốn đầu tư nước ngoài. Tác động của hàng rào này tới ngành công nghiệp chế
biến hàng tiêu dùng vì đây là những ngành mang lại lợi nhuận cao và nguồn
nguyên liệu trong nước sẵn có.
Tỉ lệ sản phẩm xuất khẩu: đối với một số loại sản phẩm mà nhu cầu
tiêu dùng trong nước đã tới hạn và để bảo hộ thị trường cho doanh nghiệp nội
địa, qui định tỉ lệ sản phẩm xuất khẩu trở thành một hàng rào quan trọng. Tỉ lệ
sản phẩm xuất khẩu cao buộc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
phải xây dựng chiến lược kinh doanh dựa vào xuất khẩu sản phẩm, hạn chế
tiêu thụ nội địa.
 Hàng rào kĩ thuật
Tiêu chuẩn kĩ thuật: là những qui định của các quốc gia về tiêu chuẩn
kĩ thuật sản xuất và sản phẩm. Trên thị trường thế giới có các tiêu chuẩn kĩ
thuật của các quốc gia, tiêu chuẩn kĩ thuật quốc tế. Tiêu chuẩn kĩ thuật không
mang tính bắt buộc vì một hàng hóa có thể tuân theo tiêu chuẩn quốc tế, tiêu
chuẩn của nước nhập khẩu hoặc nước sản xuất. Tiêu chuẩn kĩ thuật chỉ có thể
trở thành hàng rào thương mại khi có sự ủng hộ mạnh mẽ của người tiêu
dùng.


Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
12
Qui định kĩ thuật: mang tính bắt buộc. Doanh nghiệp phải điều chỉnh
qui trình sản xuất, thay đổi yếu tố đầu vào để tạo ra sản phẩm đáp ứng qui
trình kĩ thuật.
Xuất xứ và nhãn hiệu hàng hóa: Các quốc gia nhất là những nước phát

triển thường qui định chặt chẽ về nhãn hàng hóa, từ chữ viết, khổ chữ. Những
hàng hóa không đáp ứng yêu cầu về nhãn hàng đều không được nhập khẩu.
cùng với nhãn hàng là qui định về xuất xứ hàng hóa. Nhiều quốc gia qui định
nơi sản xuất, các hàng hóa nhập khẩu phải ghi rõ xuất xứ trên bao bì.
 Các hàng rào mang tính hành chính:
Qui định về thanh toán thuế nhập khẩu: Các doanh nghiệp nhập khẩu
hàng hóa phải thanh toán ngay thuế nhập khẩu và không phân biệt đó là hàng
nhập khẩu hay hàng hóa tái xuất khẩu, tạm nhập tái xuất, hàng hóa là đầu vào
của kinh doanh gia công quốc tế. Gắn với qui định này thường là thủ tục hoàn
thuế phức tạp và mất thời gian đã làm cho nhiều nhà nhập khẩu nản chí.
Qui định về quảng cáo: Quảng cáo là công cụ marketing nhằm thúc đẩy
việc bán hàng hóa. Những hạn chế về quảng cáo sẽ cản trở cho những hàng
hóa nhập khẩu bán ra. Biện pháp thông thường nhất là cấm quảng cáo một số
hàng hóa nhất định làm cho người tiêu dùng không biết đến sản phẩm. Chẳng
hạn, Việt Nam cấm quảng cáo các loại sữa dành cho trẻ em dưới một tuổi
dưới mọi hình thức. Thực chất của giải pháp này là để bảo vệ sức khỏe trẻ em
nhưng cũng đã hạn chế khả năng tiêu thụ của các loại sản phẩm này.Để hạn
chế nhập khẩu, các quốc gia còn cấm quảng cáo một số sản phẩm trên những
phương tiện quảng cáo nhất định và vào những thời điểm nhạy cảm.
Đơn vị đo lường và kích cỡ sản phẩm: Sự khác biệt đơn vị đo lường
thường cản trở các hàng hóa thâm nhập thị trường, nhiều quốc gia còn sử
dụng đơn vị đo lường như những qui định về kích cỡ cần thiết cho hàng hóa
nhập khẩu. Chẳng hạn, độ lớn của phích cắm điện, hiệu điện thế của hàng
điện tử tiêu dùng, kích thước tối thiểu của nấm tươi hay khoai tây xuất khẩu.



Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
13
Chương II: Khu vực mậu dịch tự do Asean


2.1 Khái quát về Khu vực mậu dịch tự do Asean và hội nhập của Việt
Nam:
2.1.1 Giới thiệu về Afta:
 Quá trình hình thành
ASEAN là một trong những khu vực có nền kinh tế tăng trưởng với tốc
độ nhanh nhất thế giới (tốc độ tăng trưởng kinh tế của ASEAN giai đoạn
1981-1991 là 5,4%, gần gấp hai lần tốc độ tăng trưởng trung bình của thế
giới). Tuy vậy, trước khi AFTA ra đời, những nỗ lực hợp tác kinh tế của
ASEAN đều không đạt được mục tiêu mong muốn. ASEAN đã có các kế
hoạch hợp tác kinh tế như:
- Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA).
- Các dự án công nghiệp ASEAN (AIP).
- Kế hoạch hỗ trợ công nghiệp ASEAN (AIC) và Kế hoạch hỗ trợ sản
xuất công nghiệp cùng nhãn mác (BBC).
- Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV)
Các kế hoạch hợp tác kinh tế kể trên chỉ tác động đến một phần nhỏ
trong thương mại nội bộ ASEAN và không đủ khả năng ảnh hưởng đến đầu tư
trong khối.
Sự ra đời của AFTA:
Vào đầu những năm 90, khi chiến tranh lạnh kết thúc, những thay đổi
trong môi trường chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã đặt kinh tế các nước
ASEAN đứng trước những thách thức lớn không dễ vượt qua nếu không có sự
liên kết chặt chẽ hơn và những nỗ lực chung của toàn Hiệp hội, những thách
thức đó là :
i). Quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng và mạnh
mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, chủ nghĩa bảo hộ truyền thống trong
ASEAN ngày càng mất đi sự ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách trong
nước cũng như quốc tế.
ii). Sự hình thành và phát triển các tổ chức hợp tác khu vực mới đặc biệt

như EU, NAFTA sẽ trở thành các khối thương mại khép kín, gây trở ngại cho
hàng hoá ASEAN khi thâm nhập vào những thị trường này.
iii). Những thay đổi về chính sách như mở cửa, khuyến khích và dành ưu
đãi rộng rãi cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với những lợi thế so sánh về
tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực của các nước Trung Quốc, Việt
Nam, Nga và các nước Đông Âu đã trở thành những thị trường đầu tư hấp dẫn
hơn ASEAN, đòi hỏi ASEAN vừa phải mở rộng về thành viên, vừa phải nâng
cao hơn nữa tầm hợp tác khu vực.
Để đối phó với những thách thức trên, năm 1992, theo sáng kiến của
Thái lan, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN họp tại Singapore đã quyết định
thành lập một Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN ( gọi tắt là AFTA).
Đây thực sự là bước ngoặt trong hợp tác kinh tế ASEAN ở một tầm mức mới.


Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
14
 Mục tiêu
AFTA đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế sau:
i) Tự do hoá thương mại trong khu vực bằng việc loại bỏ các hàng
rào thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản
phi quan thuế. Điều này sẽ khiến cho các Doanh nghiệp sản xuất
của ASEAN càng phải có hiệu quả và khả năng cạnh tranh hơn
trên thị trường thế giới. Đồng thời, người tiêu dùng sẽ mua được
những hàng hoá từ những nhà sản suất có hiệu quả và chất lượng
trong ASEAN, dẫn đến sự tăng lên trong thương mại nội khối.
ii) Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo ra
một khối thị trường thống nhất, rộng lớn hơn.
iii) Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế
đang thay đổi, đặc biệt là với sự phát triển của các thỏa thuận
thương mại khu vực (RTA) trên thế giới.

 Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (Cept –Afta)
Để thực hiện thành công Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN, các nước
ASEAN cũng trong năm 1992, đã ký Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu
lực chung (Common Effective Preferential Tariff), gọi tắt là CEPT.
CEPT là một thoả thuận chung giữa các nước thành viên ASEAN về
giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống còn từ 0-5%, đồng thời loại bỏ
tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi quan thuế trong vòng 10
năm, bắt đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003. ( Đây là thời hạn đã có
sự đẩy nhanh hơn so với thời hạn ký Hiệp định ban đầu : từ 15 năm xuống
còn 10 năm).
Nói đến vấn đề xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN là nói tới
việc thực hiện Hiệp định chung về thuế quan và phải hoàn thành 3 vấn đề chủ
yếu, không tách rời dưới đây :
- Thứ nhất là vấn đề giảm thuế quan : Mục tiêu cuối cùng của AFTA là
giảm thuế quan xuống 0-5%, theo từng thời điểm đối với các nước cũ và
các nước mới, nhưng thời hạn tối đa là trong vòng 10 năm.
- Thứ hai là vấn đề loại bỏ hàng rào phi quan thuế (NTB) : hạn ngạch, cấp
giấy phép, kiểm soát hành chính và hàng rào kỹ thuật : kiểm dịch, vệ sinh
dịch tễ.
- Thứ ba là hài hoà các thủ tục Hải quan
 Các nội dung và qui định cụ thể
o Vấn đề về thuế quan:
Các bước thực hiện như sau :
i) Bước 1 :Các nước lập 4 loại Danh mục sản phẩm hàng hoá trong biểu
thuế quan của mình để xác định các sản phẩm hàng hoá thuộc đối
tượng thực hiện CEPT:
- Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay ( Tiếng Anh viết tắt là IL).
- Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế ( viết tắt là TEL).



Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
15
- Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm ( viết tắt là
SEL)
- Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn ( viết tắt là GEL)
Trong 4 loại Danh mục nói trên thì :
- Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn (GEL): là những sản phẩm
không phải thực hiện các nghĩa vụ theo Hiệp định CEPT, tức là không
phải cắt giảm thuế, loại bỏ hàng rào phi quan thuế. Các sản phẩm trong
danh mục này phải là những sản phẩm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia,
đạo đức xã hội, cuộc sống, sức khoẻ con người, động thực vật, đến việc
bảo tồn các giá trị văn hoá nghệ thuật, di tích lịch sử, khảo cổ ( theo điều
9B Hiệp định CEPT).
- Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm và nhạy cảm
cao (SEL): là những sản phẩm được thực hiện theo một lịch trình giảm
thuế và thời hạn riêng, các nước ký một Nghị định thư xác định việc thức
hiện cắt giảm thuế cho các sản phẩm này, cụ thể thời hạn bắt đầu cắt giảm
là từ 1/1/2001 kết thúc 1/1/2010, mức thuế giảm xuống 0-5%, nghĩa là kéo
dài thời hạn hơn các sản phẩm phải thực hiện nghĩa vụ theo CEPT.
- Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế ngay (IL) và Danh mục sản phẩm tạm
thời chưa giảm thuế (TEL): Là 2 Danh mục mà sản phẩm trong những
Danh mục này phải thực hiện các nghĩa vụ CEPT, tức là phải cắt giảm
thuế và loại bỏ hàng rào phi quan thuế. Tuy nhiên tiến độ có khác nhau.
Sản phẩm hàng hoá trong 2 Danh mục này là những sản phẩm công nghiệp
chế tạo, nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm nông nghiệp nghĩa là tất cả
những sản phẩm hàng hoá được giao dịch thương mại bình thường trừ
những sản phẩm hàng hoá được xác định trong 2 Danh mục SEL và GE
nêu trên.
ii) Bước 2 : Xây dựng lộ trình tổng thể cắt giảm thuế 10 năm ( toàn bộ thời
gian thực hiện Hiệp định):

Việc thực hiện Hiệp định chính là các nước thành viên phải xây dựng lộ
trình tổng thể cho việc cắt giảm thuế đối với 2 Danh mục sản phẩm cắt giảm
thuế ngay(IL) và Danh mục tạm thời chưa giảm thuế (TEL):
Các nguyên tắc xây dựng lộ trình giảm thuế tổng thể như sau :
a) Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay (Inclusion List - IL):
Các sản phẩm nằm trong danh mục này được cắt giảm thuế quan ngay tại
thời điểm bắt đầu thực hiện cho đến thời hạn kết thúc, tiến trình cắt giảm như
sau :
+ Các sản phẩm có thuế suất trên 20% (> 20%) sẽ được giảm xuống 20%
trong vòng 5 năm đầu và tiếp tục giảm xuống còn 0-5% trong 5 năm còn lại.
Cụ thể: Các sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống 20%
vào 1/1/1998, và tiếp tục giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2003.
+ Các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% ( 20%) sẽ được
giảm xuống còn 0-5% trong vòng 7 năm đầu .


Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
16
Cụ thể : Các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được
giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2000.
Các nước có quyền được quyết định mức cắt giảm nhưng tối thiểu mỗi
năm 5 %, không được duy trì cùng thuế suất trong 3 năm liền, trong trường
hợp thuế MFN thay đổi tại một thời điểm nào đó nếu cao hơn thuế suất CEPT
tại thời điểm đó thì không được nâng thuế CEPT bằng mức thuế MFN đó;
trường hợp thuế MFN thấp hơn thuế CEPT thì việc áp dụng phải tự động theo
thuế suất MFN đó và phải điều chỉnh lịch trình. Không được nâng mức thuế
CEPT của năm sau lên cao hơn năm trước.
b) Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL):
Để tạo thuận lợi cho các nước thành viên có một thời gian chuẩn bị và
chuyển hướng đối với một số sản phẩm tương đối trọng yếu, Hiệp định CEPT

cho phép các nước thành viên ASEAN được đưa ra một số sản phẩm tạm thời
chưa thực hiện tiến trình cắt giảm thuế quan ngay theo CEPT.
Tuy nhiên, Danh mục TEL này chỉ mang tính chất tạm thời, các sản
phẩm trong Danh mục loại trừ tạm thời sẽ được chuyển toàn bộ sang Danh
mục cắt giảm thuế(IL) ngay trong vòng 5 năm, kể từ năm thứ 4 thực hiện
Hiệp định tức là từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, mỗi năm chuyển 20% số sản phẩm
trong Danh mục TEL vào Danh mục IL.
Lịch trình cắt giảm thuế của các sản phẩm chuyển từ Danh mục TEL
sang Danh mục IL này như sau:
- Đối với những sản phẩm có thuế suất trên 20%, phải giảm dần thuế suất
xuống bằng 20% vào thời điểm năm 1998, trường hợp các sản phẩm được
chuyển vào đúng hoặc sau thời điểm năm 1998 thì thuế suất lập tức phải
bằng hoặc thấp hơn 20%, và tiếp tục giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2003
như lịch trình đối với sản phẩm trong Danh mục IL.
- Đối với những sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% ( 20%) sẽ
được giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2003
Các quy định khác cũng tương tự như đối với Danh mục IL nói trên.
Ngoài các quy định được nêu trên trong quá trình xây dựng và thực hiện,
không được có sự thụt lùi về tiến độ, cũng như không được phép chuyển các
mặt hàng từ Danh mục cắt giảm (IL) sang bất kỳ Danh mục nào, không được
chuyển các mặt hàng từ Danh mục TEL sang Danh mục nhạy cảm (SEL) hay
Danh mục Loại trừ hoàn toàn (GE) mà chỉ có sự chuyển từ Danh mục TEL
sang Danh mục IL nói trên, hoặc chuyển từ Danh mục SEL, GE sang Danh
mục TEL hoặc IL. Nếu vi phạm thì nước thành viên phải đàm phán lại với các
nước khác và phải có nhân nhượng bồi thường.
iii). Bước 3 : Ban hành văn bản pháp lý xác định hiệu lực thực hiện việc cắt
giảm thuế hàng năm :
Trên cơ sở Lịch trình cắt giảm tổng thể thuế nêu trên, hàng năm các
nước thành viên phải ban hành văn bản pháp lý để công bố hiệu lực thi hành
thuế suất CEPT của năm đó. Văn bản này phải được gửi cho Ban Thư ký

ASEAN để thông báo cho các nước thành viên.


Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
17
o Vấn đề loại bỏ các hạn chế định lượng (QRs) và các rào cản phi
thuế quan khác (NTBs)
Để thiết lập được khu vực mậu dịch tự do, việc cắt giảm thuế quan cần
phải được tiến hành đồng thời với việc loại bỏ các hàng rào phi thuế quan.
Các hàng rào phi thuế quan bao gồm các hạn chế về số lượng (như hạn ngạch,
giấy phép, ) và các hàng rào phi thuế quan khác (như các khoản phụ thu, các
quy định về tiêu chuẩn chất lượng, ) Các hạn chế về số lượng có thể được
xác định một cách dễ dàng và do đó, được quy định loại bỏ ngay đối với các
mặt hàng trong Chương trình CEPT được hưởng nhượng bộ từ các nước
thành viên khác.
Tuy nhiên, đối với các rào cản phi thuế quan khác, việc xác định và loại
bỏ phức tạp hơn rất nhiều. Hiệp định CEPT quy định về vấn đề này như sau:
 Các nước thành viên sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối
với các sản phẩm trong CEPT trên cơ sở hưởng ưu đãi áp dụng cho sản
phẩm đó; cụ thể: những mặt hàng đã được đưa vào Danh mục cắt giảm
ngay (IL) sẽ phải bỏ các hạn chế về số lượng.
 Các hàng rào phi quan thuế khác sẽ được xoá bỏ dần dần trong
vòng 5 năm sau khi sản phẩm được hưởng ưu đãi;
 Các hạn chế ngoại hối mà các nước đang áp dụng sẽ được ưu tiên
đặc biệt đối với các sản phẩm thuộc CEPT;
 Tiến tới thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, công khai chính
sách và thừa nhận các chứng nhận chất lượng của nhau;
 Trong trường hợp khẩn cấp (số lượng hàng nhập khẩu gia tăng
đột ngột gây phương hại đến sản xuất trong nước hoặc đe doạ cán cân
thanh toán), các nước có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa để hạn chế

hoặc dừng việc nhập khẩu.

2.1.2 Quá trình tham gia và lịch trình giảm thuế của Việt Nam
Những yêu cầu của Cept –Afta với Việt Nam
Theo quy định của Hiệp định chung về Chương trình ưu đãi thuế quan
(CEPT) cho Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), sáu nước thành viên
cũ bao gồm Brunei, Malaysia, Indonesia, Philippines, Thái Lan và Singapore
sẽ thực hiện lịch trình cắt giảm thuế quan trong vòng 10 năm, từ 01/01/1993
đến 01/01/2003 xuống 0 - 5%, theo đó là bỏ các hàng rào phi thuế quan. Thực
tế từ 01/01/2003, riêng Singapore đã giảm thuế nhập khẩu xuống 0%, còn
năm nước khác giảm thuế nhập khẩu xuống 0 - 5%. Gần đây, ASEAN lại cam
kết sẽ giảm thuế nhập khẩu xuống 0% vào năm 2010 đối với sáu nước thành
viên cũ và đến năm 2015 - 2018 đối với bốn nước thành viên mới.
Việt Nam là nước thành viên mới, nên theo cam kết bắt đầu từ
01/01/2001 sẽ giảm thuế các mặt hàng có mức thuế cao xuống còn 20%, sau
đó mỗi năm sẽ giảm tiếp để đến năm 2006 mức thuế của phần lớn các mặt
hàng nhập khẩu từ ASEAN xuống còn 0 - 5% và thời gian loại bỏ hoàn toàn


Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
18
thuế nhập khẩu xuống 0% sẽ áp dụng vào năm 2015. Việc cắt giảm thuế được
chia thành từng nhóm.
Nhóm thứ nhất, là nhóm danh mục cắt giảm thuế quan ngay (IL).
Đến năm 2002, Việt Nam đã chuyển 5.550 dòng thuế vào IL, chiếm 85% trên
tổng số 6.523 dòng thuế của biểu thuế nhập khẩu (Danh mục hài hòa thuế
quan của ASEAN - AHTN là 8.770 dòng). Nhóm này đến năm 2006 sẽ giảm
mức thuế xuống 0 - 5%.
Nhóm thứ hai, là danh mục loại trừ tạm thời gồm 755 dòng thuế
(theo AHTN là 1.415 dòng thuế) sẽ chuyển sang danh mục cắt giảm IL từ

01/7/2003 các dòng thuế có mức thuế cao sẽ đưa xuống 20% và giảm dần
xuống 0 - 5% vào năm 2006. Danh mục này bao gồm các nhóm hàng dầu
thực vật, bánh kẹo, rau quả chế biến, clinker, xi măng, thiết bị vệ sinh, giấy
báo, giấy in, giấy vệ sinh, hóa chất, mỹ phẩm, kính xây dựng, điện tử, điện
lạnh, quần áo, giày dép,
Nhóm thứ ba, là danh mục nhạy cảm gồm hàng nông sản chưa chế
biến, chủ yếu cần bảo hộ cao, như thịt, trứng gia cầm, động vật sống, thóc gạo
lức, đường mía, Nhóm này có 53 dòng thuế (theo AHTN là 89 dòng thuế)
bắt đầu giảm thuế từ 01/01/2004 và kết thúc vào 01/01/2013 với mức thuế
cuối cùng là 0 - 5%. Riêng mặt hàng đường sẽ kết thúc vào 01/01/2010.
Nhóm thứ tư, là danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) gồm các sản
phẩm không cam kết trong AFTA vì lý do an ninh quốc gia, đạo đức xã hội,
bảo vệ cuộc sống con người và động thực vật, bảo vệ các tác phẩm có giá trị
nghệ thuật, lịch sử, khảo cổ học. Việt Nam cũng đưa vào một số mặt hàng cần
bảo hộ cao hơn như ô-tô, xe máy nguyên chiếc có dung tích dưới 250 cc.
Nhóm này có 158 dòng thuế (AHTN là 415 dòng).
Như vậy, lộ trình cắt giảm theo danh mục phải cắt giảm ngay IL và
danh mục loại trừ tạm thời, lộ trình của Việt Nam chậm hơn sáu nước thành
viên cũ là ba năm. Hai nhóm nhạy cảm và loại trừ hoàn toàn thời gian dài
hơn, đến năm 2010 hoặc 2015. Đây là cơ hội để Việt Nam có thể đẩy mạnh
các mặt hàng xuất khẩu của mình sang các nước ASEAN. Rất tiếc hai năm
qua việc nghiên cứu và khai thác cơ hội này của các doanh nghiệp còn thấp.
Tổng kim ngạch xuất khẩu sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ ASEAN dùng
Form D chiếm 0,57% tổng kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN. Năm 2002, số
lượng Form D đã cấp là 3983 bộ, đạt kim ngạch 94,7 triệu USD, tăng 59% so
với năm 2001. Cơ hội thứ hai là để thu hẹp khoảng cách kinh tế giữa các
thành viên mới với các thành viên cũ, sáu nước thành viên cũ sẽ dành Hệ
thống ưu đãi hội nhập ASEAN (AISP) cho các nước mới gia nhập Cam-pu-
chia, Lào, Myanmar, Việt Nam. Theo đó, Brunei sẽ dành một mặt hàng,
Indonesia 50 mặt hàng, Malaysia 173 mặt hàng và Thái-lan 17 mặt hàng cho

Việt Nam hưởng AISP. Các mặt hàng này sẽ được hưởng ngay mức thuế ưu
đãi không phải chờ đến khi chuyển vào danh mục cắt giảm thuế ngay.


Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
19
2.2 Lộ trình hội nhập Cept afta của hàng nông sản Việt Nam:
Đối với ngành nông nghiệp, Việt Nam cam kết thực hiện giảm thuế suất
thuế nhập khẩu của 760 mặt hàng nông sản xuống 0 - 5% (2006). Trong đó
một số mặt hàng chủ yếu sau:
+ Lúa gạo: giảm từ 20 - 40% xuống 10% (2003 - 2004); 5% (2005 -
2006).
+ Cà phê (thô): giảm từ 20 - 30% xuống 5% (2006).
+ Cao su (thô): giảm từ 30% xuống 3% (2003 - 2006).
+ Hạt tiêu: giảm từ 30% xuống 5% (2006).
+ Chè: giảm từ 50% xuống 20% (2003); 15% (2004) và 5% (2006).
+ Lạc: giảm từ 15% xuống 5% (2003 - 2005) và 0% (2006).
+ Cá: giảm từ 30 - 45% xuống 15% (2003- 2004); 10% (2005); 5%
(2006).
+ Quả các loại: giảm từ 40 - 60% xuống 5% (2003 - 2006).
+ Tôm: giảm từ 50-75% xuống 20% (2003), 15% (2004), 10% (2005)
và 5% (2006).
+ Rau các loại: (khoai tây, dưa chuột, cà chua, hành tỏi ) giảm từ 30%
xuống 5% (2006).
Hiện nay, Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực phấn đấu đẩy nhanh tốc độ
thực hiện CEPT theo tinh thần mới của Hiệp hội các nước ASEAN.
Trong năm 2003, Việt Nam đưa 50 dòng thuế hàng nông sản (135 mặt hàng)
vào Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) để hoàn thành việc
cắt giảm thuế xuống 0-5% vào ngày 1/1/2006. ''Các mặt hàng nông sản chế
biến sẽ phải cạnh tranh gay gắt, trong khi điều này lại không đáng ngại đối

với nông sản thô'' - Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch và Quy hoạch (Bộ NN-
PTNT) Phạm Thị Tước khẳng định.
Việt Nam hiện đã cắt giảm trên 80% số dòng thuế hàng nông sản. Từ
1/1/2003, Việt Nam phải thực hiện lộ trình giảm thuế nhập khẩu đối với tất cả
các mặt hàng nông sản còn lại: sữa và các sản phẩm từ sữa; dầu thực vật đã
tinh chế; sản phẩm chế biến từ thuỷ, hải sản; rau, quả chế biến, gồm cả nước
quả ép và cà phê tinh chế. Chỉ một vài dòng thuế thuộc danh mục hàng nông
sản nhạy cảm có thời hạn giảm thuế muộn hơn (năm 2010), như gạo, đường,
quả có múi, giống gia cầm, thịt chế biến

2.2.1 Khó khăn của hàng nông sản Việt Nam:
Những vấn đề đang đặt ra đối với nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp
và thủy lợi) nước ta là:
Đất đai ít, ngành nghề và dịch vụ kém phát triển, lao động dư thừa và
hàng năm tiếp tục tăng thêm. Hiện nay bình quân mỗi hộ có 0,68 ha, 01 lao
động nông nghiệp có 0,27 ha nhưng vẫn tiếp tục giảm và rất manh mún. Gần
30 triệu lao động ở nông thôn, 95% sản xuất nông lâm nghiệp nhưng chỉ sử
dụng 73% và hàng năm tiếp tục tăng thêm khoảng 01 triệu lao động, những
nhân tố này đã làm cho năng suất và thu nhập của người lao động rất thấp.


Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
20
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ nhưng trình độ công nghệ trong nhiều lĩnh
vực nông lâm nghiệp còn thấp kém, lạc hậu, công nghiệp chế biến nông lâm
sản còn chậm phát triển, năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh còn thấp.
Cơ sở hạ tầng nông thôn thấp kém, đang có nhiều bất cập cho sản xuất
nông lâm sản hàng hóa. Hiện nay vẫn còn 600 xã chưa có đường ô tô tới
trung tâm, 30% đường liên huyện, 50% đường liên xã không đi lại được
trong mùa mưa.

Kinh tế hợp tác xã ở nông thôn chậm đổi mới, hoạt động của các doanh
nghiệp nhà nước còn nhiều lúng túng, hiệu quả thấp.
Tỷ lệ đói nghèo ở nông thôn vẫn cao, rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước và
cộng đồng; chênh lệch về thu nhập giữa thành thị và nông thôn tiếp tục doãng
ra.
Trong những năm qua, sản xuất nông, lâm nghiệp nước ta đã có bước
phát triển đáng kể, nhưng xét trên nhiều mặt, tiềm năng nông nghiệp vẫn còn
nhiều, chưa được khai thác có hiệu quả. Những tiềm năng nông nghiệp đó là:
Theo tổng quan sử dụng đất, diện tích đất hiện còn chưa sử dụng trên
12 triệu ha, trong đó có khoảng 3 triệu ha có khả năng khai hoang đưa vào
sản xuất nông nghiệp, trên 7 triệu ha có khả năng phát triển sản xuất lâm
nghiệp. Như vậy, quỹ đất để phát triển nông, lâm nghiệp vẫn còn nhiều.
Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, á nhiệt đới và một phần ôn
đới ở núi cao. Với tiềm năng khí hậu này, nước ta có thể phát triển được rất
nhiều loại cây trồng, vật nuôi, cho phép tiến hành được nhiều vụ sản xuất
trong năm. Tiềm năng về năng suất sinh học đối với các loại cây trồng vật
nuôi còn rất lớn. Đất nước lại chạy dài theo nhiều vĩ độ, hình thành nên nhiều
vùng sinh thái khác nhau, tạo điều kiện cho phép đầu tư phát triển các vùng
sản xuất hàng hóa tập trung lớn.
Với nguồn lao động dồi dào và tiếp tục được bổ sung, giá nhân công
thấp. Theo Tổng cục thống kê, lao động nông nghiệp hiện có 30 triệu người
(chiếm trên 70% lao động chung) và hàng năm khu vực nông thôn tiếp tục
được bổ sung thêm khoảng 01 triệu lao động đến độ tuổi.
Với hệ thống sống suối dày đặc và phân phối đều ở các vùng, nước ta
có tiềm năng lớn về nguồn nước mặt cũng như nguồn nước ngầm, tạo điều
kiện thuận lợi cho đầu tư phát triển hệ thống thủy lợi phục vụ cho sản xuất
nông lâm nghiệp.
Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật (thủy lợi, trạm trại kỹ thuật ) đã được
đầu tư trong nhiều năm và tiếp tục đầu tư phát triển sẽ được huy động đáp
ứng cho yêu cầu của sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn tới.

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, từng bước hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới, tháng 7/1995, Việt Nam đã trở thành thành viên
chính thức của ASEAN, cam kết tham gia tất cả các hiệp định của khối, trong
đó quan trọng nhất là hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA),
Ngành nông nghiệp là một bộ phận trong Hiệp định này.



Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
21
2.2.2 Thuận lợi của hàng nông sản Việt Nam:
Tham gia AFTA, nông nghiệp Việt Nam có những thuận lợi sau đây:
Xuất khẩu nông sản đang là thế mạnh của Việt Nam do có những lợi thế
so sánh dựa trên nguồn tài nguyên thiên nhiên và khí hậu đa dạng, phong phú,
lao động dồi dào. Kim ngạch xuất khẩu hàng nông lâm sản đang chiếm 30 -
31% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Khả năng khối lượng về kim
ngạch xuất khẩu hàng nông, lâm sản Việt Nam sẽ còn tiếp tục tăng trong thời
gian tới.
Indonesia, Philippin, Malaysia, đang là những nước nhập khẩu nhiều gạo
của Việt Nam. Kim ngạch buôn bán nông sản giữa Singapore và Việt Nam,
Việt Nam và Thái Lan tăng nhanh trong mấy năm qua. Do có một thị trường
đang phát triển, có luật khuyến khích đầu tư nước ngoài hấp dẫn, các nhà đầu
tư khu vực đã và đang đầu tư vào những lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và chế
biến nông, lâm sản Việt Nam ngày càng tăng (chế biến thức ăn chăn nuôi gia
súc, chế biến gia cầm, sản xuất dầu thực vật, chế biến rau quả ).
Tham gia AFTA, hàng nông sản Việt Nam không sợ hàng nông sản các
nước thành viên ASEAN tràn vào lấn át làm ảnh hưởng sản xuất và đời sống
của nông dân.
Mặc khác, do các nước ASEAN có những điều kiện tự nhiên, con người
tương đối giống Viêt Nam nên nói chung cơ cấu sản phẩm nông nghiệp tương

đối đồng nhất. Thí dụ: Thailand, Việt Nam, Mianmar đều có tiềm năng lớn về
xuất khẩu gạo; xuất khẩu cao su của Thailand, Indonesia, Việt Nam chiếm
hơn 70% thị trường cao su thế giới xuất khẩu hàng nông sản chủ yếu của ta
và của các nước phải hướng ra các nước ngoài khối ASEAN. Trong khi đó họ
được trang bị những thiết bị và công nghệ hiện đại hơn, có vốn đầu tư lớn hơn
nên sản phẩm của các nước có khả năng cạnh tranh cao hơn trên thị trường
thế giới.
Nhìn chung lại việc tham gia AFTA sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhiều hơn
cho hàng nông sản Việt Nam trong việc nâng cao tính cạnh tranh. Đó là yếu
tố kiên quyết để hội nhập thị trường khu vực và thế giới. Nếu như trước đây,
chúng ta coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu khi nông nghiệp được đảm
đương trách nhiệm nặng nề là bảo đảm đủ ăn, giải quyết cho được an toàn
lương thực Quốc gia thì thực tiễn những năm vừa qua, nông nghiệp nước ta
đã hoàn thành được sứ mệnh lịch sử đó: giải quyết được cái ăn trong nước
vốn dĩ đã thiếu thốn triền miên trong nhiều năm (trước năm 1989) vươn lên
trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới, đóng góp được ngoại
tệ trong cán cân thanh toán của kinh tế.


Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
22
Chương III: Thực trạng và phương hướng xuất khẩu gạo
của Việt Nam vào Asean:

Gạo là hàng hoá nhạy cảm được đưa vào hoặc được thoả thuận trong các
hiệp định song phương và đa phương, bao gồm cả AFTA, CEPT . Xuất khẩu
gạo chiếm tỉ lệ lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Các chuyên gia
kinh tế đã cảnh báo rằng việc thực hiện AFTA có thể sẽ không giúp gì nhiều
cho các nhà sản xuất gạo của Việt Nam trong việc tiếp cận hơn nữa các thị
trường khu vực và thế giới. Thị trường gạo Việt Nam ngày càng chịu nhiều

tác động tiêu cực của quá trình Việt Nam hội nhập vào thị trường thế giới
theo thoả thuận trong khuôn khổ của AFTA và các Hiệp định song phương.
Chính phủ gặp nhiều khó khăn trong các nỗ lực bình ổn giá hoặc tăng giá bán
gạo có lợi cho nông dân vì chi phí quá lớn. Quá trình hội nhập vào kinh tế thế
giới đang đặt ngành gạo Việt Nam vào những thách thức và khó khăn mới.

3.1 Tình hình xuất khẩu gạo Việt Nam trong khu vực Asean:
3.1.1Đặc điểm thị trường gạo Asean:
Tổng dân số các nước ASEAN đã vượt quá 520 triệu người. ASEAN có
diện tích hơn 4.5 triệu km2 với dân số tới này là hơn 520 triệu người; GDP
khoảng 731 tỷ đô la Mỹ và tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm 339,2 tỷ
USD. Các nước ASEAN có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và hiện
nay đang đứng hàng đầu thế giới về cung cấp một số nguyên liệu cơ bản như:
gạo, đường dầu thô, dứa
Thị trường ASEAN có một số đặc điểm đáng lưu ý. ASEAN là thị
trường gần, Việt Nam không phải tốn nhiều chi phí vận chuyển. Đây là thị
trường có nhu cầu, thị hiếu về chất lượng, chủng loại, giá cả khá tương đồng
với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam; các nước ASEAN cũng là thị trường
thuộc loại sớm nhất khi Việt Nam tiến hành mở cửa hội nhập sau chuyển đổi
cơ chế, đồng thời đang thực hiện cam kết cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu
và chẳng còn mấy thời gian mức thuế này sẽ chỉ còn 0-5%, lại không bị hạn
chế bằng những hàng rào phi thuế quan như hạn ngạch, kiện bán phá giá
như các thị trường khác. Tuy nhiên, diễn biến xuất khẩu vào thị trường này
cũng có một số điểm đáng lưu ý. ASEAN vẫn là thị trường lớn nhất trong các
châu lục nhập khẩu hàng của Việt Nam. Năm 2004, xuất khẩu vào thị trường
này chiếm 54,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, cao hơn nhiều so
với các châu lục khác. Như vậy, năm 2003 đã tăng 9,7%; năm 2004 tăng
29,1%, cao hơn tốc độ chung; kế hoạch năm 2005 dự kiến tăng 17,9%, cao
hơn tốc độ chung theo mục tiêu do Quốc hội đề ra.


3.1.2 Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam
Nước ta đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn trên thế
giới: 9 năm xuất khẩu 18 triệu tấn gạo (trong 7 tháng đầu năm 1998 đã xuất
khẩu trên 2,75 triệu tấn). Cho đến nay, Việt Nam đã qua 16 năm xuất khẩu


Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
23
gạo. Gạo Việt Nam đã có mặt trên các thị trường thế giới. Năm 1999 đạt đỉnh
cao về số lượng xuất khẩu 4,5 triệu tấn. Năm 2004 đạt 4,062 triệu tấn.
Gạo Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là gạo trắng, chiếm 95-97% tổng số
xuất khẩu, còn lại là gạo thơm, từ vài ngàn tấn đến vài chục ngàn tấn, cao
nhất là năm 2004, xuất khẩu được gần 100.000 tấn, chủ yếu là loại gạo
Jasmine.
Điều đáng chú ý là sắp tới nhu cầu của thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất
của Việt Nam (là châu Á, chiếm 50% gạo trắng các loại) sẽ giảm dần do một
số nước đẩy mạnh sản xuất, đưa khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, tăng
năng suất và tăng sản lượng. Vì thế, trong những năm tới Việt Nam phải phấn
đấu nâng cao chất lượng gạo trắng và tăng chủng loại nhất là gạo thơm để đáp
ứng nhu cầu thị trường và tăng kim ngạch xuất khẩu.
Mặc dù xuất khẩu gạo Việt Nam liên tục tăng trong những năm qua,
nhưng kim ngạch xuất khẩu lại biến động hết sức thất thường do yếu tố giá
trên thị trường thế giới và chất lượng gạo của Việt Nam. Xuất khẩu gạo tăng
về lượng, nhưng giá trị lại không tăng, hoặc tăng ở tốc độ không tương xứng.
So với Thái Lan, các chỉ tiêu về xuất khẩu gạo của chúng ta đều thấp hơn.
Nếu xét về mức tăng trưởng qua các năm cho thấy mặc dù chỉ tiêu tăng về
khối lượng xuất khẩu của chúng ta không thấp hơn nhiều so với Thái Lan,
nhưng do tăng về giá xuất khẩu lại thấp hơn rất nhiều so với nước này, kết
quả là Thái Lan luôn đạt mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu lớn hơn.
Lý giải tình trạng này, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế cũng

như các nhà xuất khẩu gạo Việt Nam thì có mấy nguyên nhân chủ yếu sau
đây:
Thứ nhất, chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn thấp so với
yêu cầu thị trường thế giới. Trong bối cảnh Việt Nam thực hiện lộ trình
CEPT/AFTA, sự cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu nông sản nói chung,
xuất khẩu gạo nói riêng diễn ra quyết liệt, nhất là về chất lượng. Trong khi đó
lúa gạo Việt Nam chưa có chuyển biến đồng bộ từ sản xuất đến chế biến nên
chất lượng chưa theo kịp yêu cầu thị trường. Cho dù đã có những tiến bộ
trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, nhưng trong sản lượng gạo xuất khẩu trong
những năm gần đây vẫn có tới trên, dưới 60% là gạo cấp thấp (gạo 25% tấm)
và trong số gần 40% còn lại hầu hết là gạo 5% tấm và 10% tấm, còn gạo thơm
và gạo nếp chỉ chiếm vài phần trăm. So sánh với Thái Lan thì cơ cấu xuất
khẩu của họ gần như ngược lại với Việt Nam. Trong cơ cấu gạo xuất khẩu của
Thái Lan diện gạo thơm và gạo cao cấp đã chiếm tới 45%, còn trong 55% gạo
còn lại phần lớn là gạo 100% B và gạo 5% tấm. Do cơ cấu hàng hóa xuất
khẩu như vậy, thực trạng đáng buồn là, mỗi khi khách hàng chọn đối tác để
ký hợp đồng, nếu là gạo cao cấp và cao giá thì họ chọn Thái Lan, còn gạo
thấp cấp và giá rẻ thì họ đến với chúng ta. Và do vậy giá xuất khẩu trung bình
một tấn gạo của Việt Nam luôn thấp. Nếu tính theo giá bình quân mỗi tấn gạo
xuất khẩu thì Thái Lan đã đạt 266,54 USD/tấn, cao hơn của chúng ta là
14,86%. Trong sản xuất, những năm gần đây nông dân chủ yếu mở rộng diện


Hoàng Thị Thu Hà Thương Mại 46 B
24
tích các giống lúa mới nguồn IRRI (phía Nam), lúa lai Trung Quốc (phía
Bắc), có ưu điểm ngắn ngày, năng suất cao nhưng chất lượng gạo thương
phẩm chưa cao, không hợp gu các thị trường có sức mua và yêu cầu chất
lượng cao như Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, Mỹ, EU… Trong một vài năm trở lại
đây, cơ cấu gạo xuất khẩu Việt Nam tuy có tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng

yêu cầu của các thị trường khó tính. Do đó giá gạo Việt Nam hiện nay vẫn
còn thấp hơn gạo Thái Lan cả trên thị trường thế giới và trong nước.
Thứ hai, tuy đã trải qua nhiều năm xuất khẩu gạo trên quy mô lớn và đã
trở thành cường quốc xuất khẩu gạo thứ hai thế giới từ gần 10 năm nay,
nhưng đến nay chúng ta vẫn chưa quan tâm đúng mức đến nhu cầu gạo của
thị trường thế giới. Bởi dường như chúng ta vẫn xuất khẩu những gì chúng ta
có. Mặc dù nhu cầu của thế giới về gạo cấp thấp là một thực tế, nhưng cũng
có một thực tế khác là nhu cầu gạo đặc sản, gạo cao cấp cũng luôn luôn tồn
tại. Đó chẳng những là nhu cầu của những nước giàu Tây Âu, Mỹ, Nhật
Bản… mà ngay cả của những quốc gia đang phát triển. Chẳng hạn, Trung
Quốc sau khoảng hai thập kỷ cải cách, đời sống của đại bộ phận dân cư của
đất nước 1,3 tỷ dân có tập quán sử dụng lúa, gạo làm lương thực chính đã
được nâng cao, làm phát sinh nhu cầu gạo đặc sản của nền nông nghiệp của
chính người khổng lồ về sản xuất và tiêu dùng lúa gạo này không thể đáp ứng
nổi, phải nhập khẩu khoảng 300 nghìn tấn/năm. Và chính Thái Lan đã đón bắt
được nhu cầu này. Nhiều quốc gia trong thời gian gần đây đã đầu tư rất mạnh
vào vấn đề dinh dưỡng - gạo không chỉ thơm ngon, mà còn nhắm vào các
khách hàng chuyên biệt, cụ thể như Nhật và Hàn Quốc đã sản xuất gạo cho
những người bị tiểu đường, người bị bệnh thận, trong khi phần lớn gạo Việt
Nam lại nằm ở mức trung bình.
Thứ ba, việc tổ chức, điều hành xuất khẩu gạo cũng bộc lộ nhiều nhược
điểm. Kế hoạch xuất khẩu được giao từ đầu năm trong khi chưa biết kết quả
sản xuất lúa trong năm lại phụ thuộc nhiều vào yếu tố khí hậu, thời tiết, sâu
bệnh,… do đó liên tục phải điều chỉnh. Đơn cử năm 2005, kế hoạch xuất khẩu
gạo ban đầu ở mức dưới 4 triệu tấn, rồi sau mới điều chỉnh lên 4,2 – 4,5 triệu
tấn và cuối cùng tổng kết cả năm xuất khẩu trên 5,2 triệu tấn. Tình trạng kế
hoạch không gắn với quy hoạch đang là một thực tế chưa khắc phục được.
Việc dựa vào “cầu” của các khách hàng theo hợp đồng ký kết để quyết định
kế hoạch xuất khẩu gạo cả năm chưa tính đến khả năng “cung” là chưa hợp
lý. Đã xuất hiện tình trạng một số hợp đồng đã ký từ đầu năm với giá thấp,

cuối năm giá cao nên nông dân không bán lúa theo giá hợp đồng dẫn đến tình
trạng phá vỡ hợp đồng xuất khẩu gạo, làm giảm lòng tin của khách hàng và
thiệt hại cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Mặt khác, việc phân bố lợi
nhuận xuất khẩu gạo giữa người nông dân trồng lúa với các doanh nghiệp chế
biến và xuất khẩu gạo chưa hợp lý, trong đó phần thiệt thòi vẫn thuộc về nông
dân và Nhà nước. Tình trạng này có từ lâu những vẫn tồn tại đến nay dù năm
2002 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 80 về hợp đồng tiêu thụ nông
sản, trong đó trọng tâm là lúa gạo. Đã hơn 3 năm thực hiện Quyết định 80,

×