Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Phân tích bài học kinh nghiệm của đại hội IX docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.42 KB, 8 trang )

Phân tích bài học kinh nghiệm của đại hội
ix: Trong quá trình đổi mới phải kiên trì
mục tiêu độc lập dân tộc và cnxh trên nền
tảng chủ nghĩa mác-lênin tư tưởng hcm.


Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hạt nhân tư tưởng HCM, là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt quá trình cách mạng Việt nam từ khi có Đảng, là cơ sở để Đảng ta giải
quyết đúng đắn một loạt vấn đề chiến lược, phương pháp cách mạng trong cách
mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách mạng XHCN, là nguồn gốc sức mạnh
bách chiến bách thắng của cách mạng Việt nam.

Dưới chế độ thuộc địa nữa phong kiến yêu cầu bức thiết của dân tộc là giải phóng
khỏi ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc và địa chủ phong kiến, xây dựng
một chế độ xã hội mới đảm bảo độc lập tự do và hạnh phúc của nhân dân. Để
giành lại độc lập dân tộc xây dựng cuộc sống mới phong trào yêu nước của nhân
dân ta diễn ra rất sôi nỗi và liên tục, nhưng thiếu đường lối và sự lãnh đạo đúng
đắn. Các phong trào cứu nước từ lập trường Cần vương đến lập trường tư sản, tiểu
tư sản qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại. Tình hình đó đòi hỏi phải có
đường lối cách mạng đúng đắn và một tổ chức cách mạng có khả năng lãnh đạo
phong trào cứu nước đi đến thắng lợi.
Phải qua tìm tòi, nghiên cứu nhiều cuộc cách mạng, từ Mỹ, sang Anh đến Pháp,
qua nhiều nước thuộc địa, cuối cùng với cách mạng tháng mười Nga, Nguyễn Ái
Quốc mới đi đến kết luận: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản.

Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt nam là sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước, là hiện thân quan trọng nhất của sự
kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định cách mạng Việt nam trải qua hai giai


đoạn trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ sau đó đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua giai đoan phát triển tư bản chủ nghĩa. Tùy hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn
cách mạng, nhiệm vụ trọng tâm có khác nhau, nhưng trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt nam Đảng ta luôn luôn kết hợp hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.

Thời kỳ 1930-1954 Thời kỳ nầy độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được thể hiện
giải phóng dân tộc, giành độc lập và dân chủ là nhiệm vụ trực tiếp, chủ nghĩa xã
hội là phương hướng tiến lên. là thời kỳ thủ thách quyết liệt đầu tiên về vai trò nền
tảng tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Thời kỳ 1954-1975: thời kỳ cả nước tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng.

Trong thời kỳ nầy sự kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thể hiện tập
trung ở việc xác định nhiệm vụ mỗi miền và việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa hai miền hướng tới mục tiêu chung của cách mạng cả nước,miền Bắc tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Nam tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ.
Cách mạng XHCN ở miền Bắc có vị trí quyết định nhất sự nghiệp cách mạng cả
nước, cách mạng miền Nam có vị trí quyết định trực tiếp sự nghiệp giải phóng
miền Nam, cách mạng cả hai miền đều nhằm mục tiêu chung là hoàn thành độc
lập dân tộc, thống nhất tổ quốc.

Với đại thắng mùa xuân năm 1975, nước ta đã bước sang một thời kỳ mới- thời kỳ
hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước quá độ lện chủ nghĩa xã hội trong điều kiện
đất nước nghèo nàn lạc hậu, không qua chủ nghĩa tư bản, với hậu quả nghiêm
trọng do chiến tranh để lại.

Do nhận thức đặc điểm dân tộc và quy luật chủ nghĩa xã hội không chuyển biến
kịp với bước ngoặc của cách mạng nên trong lãnh đạo Đảng phạm sai lầm chủ
quan duy ý chí, thể hiện ở cả hai mặt: vừa nóng vội vừa bảo thủ trì trệ, chủ nghĩa

giáo điều và lạc hậu về nhận thức lý luận Mác Lênin là nguồn gốc của sai lầm,làm
cho Đảng bất cập trong xác định những chủ trương, chính sách lớn và chỉ đạo
chiến lược. Trong giai đoạn nầy cách mạng ở nước ta đứng trước những khó khăn
và thách thức cực kỳ to lớn.

Ở trong nước, khó khăn lớn nhất là nền kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng trầm
trọng. Sản xuất trì trệ, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế bị giảm sút. Đời
sống nhân dân, cán bộ viên chức và lực lượng vũ trang trở nên rất khó khăn. Nhu
cầu tối thiểu như lương thực, hàng thiết yếu thiếu gay gắt. Nạn đói diễn ra nhiều
nơi. Vấn đề công ăn việc làm, tệ nạn xã hội trở nên nhức nhối.

Trên trường quốc tế, đế quốc Mỹ và bọn phản động quốc tế cấu kết nhau lại bao
vây cô lập Việt nam.Lợi dụng khó khăn về đời sống kinh tế-xã hội của nước ta sau
chiến tranh, chính quyền Mỹ kích động lôi kéo hàng nghìn đồng bào ra đi bất hợp
pháp, hòng tạo nên sự mất ổn định ở nước ta. Cùng với một số nước đồng minh,
Mỹ vu cáo Việt nam vi phạm "nhân quyền" tại một số hội nghị quốc tế.

Những năm cuối của thập kỷ 70, nền kinh tế Liên xô và một số nước XHCN Đông
âu đã có những biểu hiện trì trệ khủng hoảng, bước vào đầu thập kỷ 80 của thế kỷ
XX, quan hệ hợp tác giữa các nước XHCN đã có sự thay đổi.
Nhờ kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà toàn Đảng và
toàn dân đã từng bước tìm tòi, thể nghiệm để phát hiện những hình thức, bước đi
phương pháp mới của con đường xã hội chủ nghĩa nhằm vượt qua khủng hoảng.

Mốc chuyển biến nầy được đánh dấu bằng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
của Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới.
Đảng phải đổi mới về nhiều mặt; đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi
mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác".


Quá trình đổi mới tư duy trên thực tế là quá trình đấu tranh về mặt lý luận và tư
tưởng nhằm đạt đến nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt nam.

Đổi mới cơ cấu kinh tế coi nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một đặc trưng
của thời kỳ quá độ, nền kinh tế đó được vận động theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đảng chỉ ra rằng cơ chế quản lý tập trung quan
liêu bao cấp từ nhiều năm không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế
xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm
hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn phân phối
lưu thông, và để ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội.

Xây dựng cơ chế mới phù hợp là nội dung quan trọng của đường lối đổi mới. Từ
cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ chỗ tuyệt đối hoá vai trò của kế hoạch
sang chỗ thừa nhận thị trường, khẳng định phải kết hợp kế hoạch với thị trường,
trong đó kế hoạch định hướng thị trường, còn thị trường vừa là căn cứ vừa là đối
tượng của kế hoạch có vai trò điều tiết cung cầu, giá cả, điều tiết sản xuất kinh
doanh của các đơn vị kinh tế.

Để thiết lập cơ chế quản lý mới, cần thực hiện cải cách lớn về bộ máy Nhà nước.
Nhà nước quản lý kinh tế thông qua hệ thống chính sách, pháp luật để điều hành
nền kinh tế vĩ mô. Nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật. Xây dựng bộ máy
gọn nhẹ, có chất lượng cao với một đội ngũ có phẩm chất chính trị và có năng lực
quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội.

Mở rộng và nâng cao hiệu quả của công tác đối ngoại, khuyến khích nước ngoài

đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành kỷ thuật cao,
làm hàng xuất khẩu.

Đổi mới nội dung phong cách lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nhận thức rõ hơn về
thời kỳ quá độ, đặc điểm, hoàn cảnh của đất nước. Nâng cao tầm trí tuệ của Đảng,
nắm vững quy luật khách quan, không áp đặt, không bao biện, khắc phục tư duy
nóng vội, chủ quan, duy ý chí.

Đổi mới tư duy còn thể hiện sự khẳng định phải phát huy yếu tố con người và lấy
việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động, coi nguồn lực
con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đối với sự phát triển của đất nước,
là yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới
toàn diện, sâu sắc và triệt để. Đó là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và
cũng là tinh thần trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước và dân tộc và đã mở ra
thời kỳ mới của cách mạng nước ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đổi mới không có nghĩa là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà làm cho mục
tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa
xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.

Trong quá trình thực thực hiện công cuộc đổi mới không phải lúc nào cũng dễ
dàng và thuận lợi. Nhất là vào cuối những năm 80, tình hình các nước xã hội chủ
nghĩa có những diễn biến phức tạp, nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào cuộc
khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng, nhất là vào năm 1991 sự tan rã của Liên
xô đã tác động sâu sắc đến nước ta. Sự kiện đó đã làm cho một số cán bộ và nhân
dân ta lo lắng, một số dao động hoài nghi về tiền đồ của chủ nghĩa xã hội. Quan hệ
kinh tế giữa nước ta với các thị trường truyền thống bị đảo lộn. Một số thế lực thù
địch đẩy mạnh những hoạt động gây mất ổn định chính trị và gây bạo loạn lật đổ.

Nước ta một lần nữa lại đứng trước thủ thách hiểm nghèo. Trước tình hình đó,
Đảng ta và nhân dân ta vẫn khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất
yếu của nước ta, là sự lựa chọ sáng suốt của Bác Hồ, của Đảng ta. Xây dựng nước
Việt nam xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta.

Kết quả sau 10 năm đổi mới toàn diện, đất nước đã vượt qua một giai đoạn gay go,
phức tạp, nhân dân ta không những đứng vững mà còn vươn lên đạt những thắng
lợi nỗi bật trên nhiều mặt. Đại hội VIII(1996) của Đảng xác định: Nước ta đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ
quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép
chuyển sang thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn. Đại hội khẳng định tiếp
tục đổi mới sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.

Năm 2001 Đại hội Đảng lần IX, tổng kết sau 15 năm đổi mới, đã đạt được những
thành tựu quan trọng.

Kinh tế tăng trưởng khá, ổn định, bền vững. đã hình thành dược một số ngành kinh
tế mũi nhọn như điện, dầu khí, than, thủy hải sản

Văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện, giáo
dục và đào tạo phát triển. Những nhu cầu của nhân dân như về ăn mặc ở, chăm sóc
sức khỏe, nước sạch, điện sinh hoạt, học tập đi lại giải trí được đáp ứng tốt hơn.

Chính trị xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường.

Công tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được
củng cố.

Phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây cấm vận, tham gia tích cực

vào đời sống cộng đồng quốc tế
Thành công của công cuộc đổi mới mang lại đã tạo ra cho Việt nam thế và lực
phát triển mới, là kết quả mang tính tổng hợp của đổi mới , có giá trị định hướng
tương lai.

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội một lần nữa được thực tiển của cách mạng
Việt nam và thế giới bổ sung làm vững vàng thêm nhận thức của Đảng và nhân
dân ta về lý tuận, chính trị. Nhờ đó, những âm mưu của kẻ thù không lay chuyển
được con đường cách mạng Việt nam.

Thắng lợi của công cuộc đổi mới là nhờ Đảng ta luôn luôn giữ vững mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.Vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng đã nhấn mạnh bài học chủ yếu là " trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ chí Minh".
Hiện nay, Độc lập dân tộc ở Việt nam là vừa bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của tổ
quốc, vừa giữ vững chủ quyền, giữ vững bản sắc văn hóa Việt nam, vừa tạo sức
mạnh mới để xây dựng đất nước trong mọi hoàn cảnh nhằm đạt tới dân giàu, nước
mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.

Chủ nghĩa xã hội hiện nay phải xây dựng trên cơ sở của độc lập dân tộc. Chủ
nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng là của Việt nam, mang bản sắc Việt nam.
Không thể nói độc lập dân tộc ở Việt nam mà không có chủ nghĩa xã hội; không
thể nói xã hội chủ nghĩa ở Việt nam mà không có độc lập dân tộc.

Nhiệm vụ trung tâm hiện nay là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để thực
hiện dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh cũng là vấn đề cơ
bản của dân tộc, của chủ nghĩa xã hội. Xây dựng và chỉnh đốn Đảng cũng do yêu
cầu khách quan của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đang ở tầm cao mới. Xây
dựng và chỉnh đốn Đảng là làm cho Đảng mạnh lên, sáng ngời bản chất giai cấp

công nhân.

Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo của cách mạng
Việt nam, là nguồn cổ vũ toàn dân phát huy năng lực trí tuệ và lực lượng vật chất
để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng Việt nam đi đến thắng lợi mới.

×