Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Ngân hàng trung ương và các công cụ điều hành chính sách tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.18 KB, 31 trang )

Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A

lời nói đầu
Khi có pháp lệnh Ngân hàng, hệ thống Ngân hàng Việt nam được hình
thành và thực hiện theo hai cấp đã cho phép Ngân hàng Nhà nước đóng vai
trò Ngân hàng Trung ương và từ đây ra đời một hệ thống chính sách tiền tệ
được đúc rút từ kinh nghiệm của nhiều nước trên Thế giới. Ngân hàng Nhà
nước với chức năng quản lý Nhà nước đối với Ngân hàng thương mại, tổ chức
tín dụng đã từng bước tiếp cận với cơ chế mới trong việc xây dựng và điều
hành chính sách tiền tệ Quốc gia thông qua các công cụ trực tiếp hoặc gián
tiếp như hạn mức tín dụng, nghiệp vụ tiêu thụ mở hoặc cạnh tranh dự trữ bắt
buộc.
Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương thời gian qua đã góp phần
nhất định vào sự phát triển kinh tế, ổn định tiền tệ đất nước. Tuy nhiên trong
việc vận hành các công cụ của chính sách tiền tệ chúng ta còn gặp nhiều trở
ngại. Trước hết là sự am hiểu về một phương pháp điều hành mới còn nhiều
hạn chế trong khi nền kinh tế chuyển đổi còn thiếu những điều kiện để điều
hành chính sách tiền tệ theo nghĩa gốc của mỗi công cụ. Vì vậy đối với Ngân
hàng Trung ương việc lùa chọn giải pháp nào để xây dựng và điều hành chính
sách tiền tệ Quốc gia có hiệu quả nhất vẫn còn là Èn số và chắc chắn có
những bắt cập là điều khó tránh khỏi.
Chính vì thế, chuyên đề này tập trung phân tích nội dung các công cụ,
thực hiện điều hành chính sách tiền tệ ở Việt nam, kinh nghiệm trên Thế giới
và một số điều kiện để chuyển đổi công cụ chính sách tiền tệ từ trực tiếp sang
gián tiếp, góp phần nâng cao tính hiệu quả và sự linh hoạt của chính sách tiền
tệ.
1
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A
CHƯƠNG I: NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CÁC CÔNG CỤ


ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.
I. NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VỚI VAI TRÒ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ.
Ở tất cả các nước Ngân hàng Trung ương được sử dông nh mét công cụ
quan trọng để điều chỉnh kinh tế của Nhà nước. Ngân hàng Trung ương tuy
không tham gia vào thị trường tài chính nhưng nó quản lý mọi hoạt động về
tiền tệ tín dụng của quốc gia. Điều hành chính sách tiền tệ là một trong những
nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng Trung ương.
Chính sách tiền tệ là tổng hoà các phương thức mà Ngân hàng Trung
ương thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền tệ trong
lưu thông nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của
đất nước trong một thơì kỳ nhất định. Các chính sách tiền tệ của các Quốc gia
trên thế giới hiện nay đều hướng vào các mục tiêu chủ yếu là:
- Tạo ra và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế: Đây là mục tiêu hàng đầu và
quan trọng nhất của chính sách tiền tệ. Vì rằng mục tiêu này là mục tiêu bao
trùm để giải quyết hàng loạt các mục tiêu khác.
- Ổn định giá cả: Vì ổn định giá cả có ý nghĩa quan trọng trong kinh tế vi
mô còng nh vĩ mô. Ổn định giá cả giúp cho Nhà nước hoạch định được
phương hướng phát triển kinh tế một cách có hiệu quả hơn vì loại trừ được sự
biến động của giá cả. Ổn định giá cả giúp cho môi trường đầu tư ổn định góp
phần thu hót vốn đầu tư, khai thác mọi nguồn lực xã hội, thúc đẩy các doanh
nghiệp còng nh các cá nhân phát triển sản xuất đem lại nguồn lợi cho mình
còng nh xã hội.
2
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A
- Tạo công ăn việc làm: Cùng với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chính
sách tiền tệ cũng hướng vào mục tiêu tạo công ăn việc làm cho mọi thành
viên trong xã hội, nhất là đối với một quốc gia chưa phát triển, năng suất lao
động thấp, dân số tăng với tốc độ cao thì tỷ lệ thất nghiệp cao là tất yếu. Vì

vậy chính sách tiền tệ phải tập trung vào tạo ra công ăn việc làm nhiều hơn
nhằm giảm thất nghiệp. Bằng các biện pháp tác động để tăng cường vốn đầu
tư, mở rộng các hoạt động cho nền kinh tế.
- Cân bằng cán cân thanh toán.
Tuy nhiên trong hoàn cảnh và điều kiện kinh tế ở từng nước, trình độ
quản lý và các vấn đề kinh tế xã hội của nước mà chính sách tiền tệ hướng ưu
tiên vào các mục tiêu khác nhau. Mặt khác cùng một lúc chính sách tiền tệ
không thể đạt được tất cả các mục tiêu vì có khi các mục tiêu mâu thuẫn với
nhau. Chẳng hạn: Về mặt dài hạn không có mâu thuẫn giữa các mục tiêu của
chính sách tiền tệ nhưng trong ngắn hạn có những mục tiêu phù hợp nhưng
cũng có mục tiêu mâu thuẫn, thậm chí đối nghịch.
Ngân hàng Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, giảm lạm
phát để đảm bảo giá trị đồng tiền, điều đó dẫn đến lãi suất tăng lên, không
khuyến khích đầu tư và thất nghiệp có xu hướng tăng trong khi muốn duy trì
một tỷ lệ thất nghiệp thấp thì phải khuyến khích đầu tư, dẫn đến thực thi
chính sách tiền tệ mở rộng làm tăng giá.
Sự mâu thuẫn giữa mục tiêu công ăn việc làm và mục tiêu ổn định giá
còn được thể hiện do mức cung tiền tệ nhằm thoả mãn mức cầu tiền thực tế
dẫn đến giá cả hàng hoá tăng theo
Để đạt được mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ Ngân hàng Trung
ương phải xác định mục tiêu trung gian để có thể xét đoán nhanh chóng được
tình hình thực hiện các hoạt động của mình phục vụ cho các mục tiêu cuối
cùng, hơn là chờ cho đến khi nhìn thấy được kết quả cuối cùng của các mục
3
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A
tiêu đó. Mục tiêu trung gian là điều tiết cung tiền thông qua chi phối dòng tiền
chu chuyển và khối lượng tiền.
Xét cho cùng Ngân hàng Trung ương có thể thực thi hai loại chính sách
tiền tệ phù hợp với tình hình thực tiễn của nền kinh tế:

- Chính sách tiền tệ mở rộng: Là chính sách tăng tiền cung ứng vào lưu
thông, dẫn đến trong lưu thông thừa tiền. Trong trường hợp khi nền kinh tế có
dấu hiệu của sự suy thoái, Ngân hàng Trung ương sẽ hoạch định theo hướng
chính sách mở rộng tiền tệ nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo
công ăn việc làm cho người lao động.
- Chính sách tiền tệ thắt chặt: Là chính sách thu hẹp lượng tiền cung ứng
dẫn đến trong lưu thông khan hiếm tiền. Trong trường hợp nền kinh tế có
nhứng dấu hiệu lạm phát gia tăng, thì Ngân hàng Trung ương sẽ hoạch định
chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự tăng trưởng quá
mức của nền kinh tế.
Để thực hiện hai chính sách tiền tệ này Ngân hàng Trung ương có thể sử
dụng nhiều loại ccông cụ tiền tệ trong tầm tay của mình, các công cụ được
chia thành công cụ trực tiếp và công cụ gián tiếp.
II. CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.
Công cụ của chính sách tiền tệ là hệ thống các biện pháp mà Ngân hàng
Trung ương có thể sử dụng để tác động vào các mục tiêu của chính sách tiền
tệ.
Để thực hiện chính sách tiền tệ, Ngân hàng Trung ương đã sử dụng hàng
loạt các công cô nh công công cụ tài cấp vốn, lãi suất tín dụng dự trữ bắt
buộc, nghiệp vụ thị trường mở Mỗi loại công cụ đều có cơ chế tác động
riêng và đem lại những kết quả trên những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên
các công cụ này đều nhằm ảnh hưởng trực tiếp hany gián tiếp đến lượng tiền
cung ứngvà lãi suất để từ đó đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
4
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A
1. Công cụ trực tiếp:
Công cụ trực tiếp là công cụ có tác động về lượngvà Ngân hàng Trung
ương kiểm soát công cụ bằng biện pháp hành chính. Khi Ngân hàng Trung
ương sử dụng công cụ trực tiếp, nó tác động vào mục tiêu trung gian, từ mục

tiêu trung gian đã tác động đến tổng cầu.
1.1. Hạn mức tín dụng:
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc
các tổ chức tín dụng phải tôn trọng trong khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Đây là một biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng kể. Thực chất biện pháp
này cho phép Ngân hàng Trung ương Ên định trước khối lượng tín dụng phải
cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định và sau đó tìm con
đường để đưa nó vào nền kinh tế.
Việc quy định hạn mức tín dụng thường được Ngân hàng Trung ương sử
dụng khi nền kinh tế có nhiều biến động để kiểm soát khối lượng tiền trong
lưu thông đảm bảo cho sự bình ổn của tiền tệ, giá cả. Hạn mức tín dụng sé
phát huy được tác dụng trong điều kiện có lạm phát. Song trong nền kinh tế
thị trường, cung - cầu tín dụng biến động không ngừng, biện pháp này chỉ
được áp dụng một cách hạn chế khi tình huống yêu cầu.
Khi sử dụng hạn mức tín dụng là khống chế dư nợ của các Ngân hàng
thương mại, từ đó quyết định đến lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế vì
mỗi khoản cho vay cấu thành dư nợ tín dụng của các Ngân hàng thương mại
thì tương ứng với nó là một lượng nguồn vốn tiền gửi huy động, từ đó ảnh
hưởng đến tỷ trọng vốn tín dụng so với lượng tiền cung ứng. Khi Ngân hàng
Trung ương tăng hạn mức tín dụng dẫn đến tăng khả năng tạo tiền qua hệ
thống Ngân hàng, do đó làm tăng lượng tiền cung ứng và ngược lại. Hạn mức
tín dụng tác động vào hệ số mở rộng tiền tệ nên tác động vào lượng tiền cung
ứng.
5
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A
1.2. Lãi suất tiền gửi và cho vay.
Ngân hàng Trung ương có thể quy định khung lãi suất tiền gửi và cho
vay buộc các Ngân hàng kinh doanh phải thi hành.
Nếu lãi suất tiền gửi cao sẽ thu hót được nhiều tiền gửi làm gia tăng

nguồn vốn cho vay. Ngược lại sẽ làm giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín
dụng. Song biện pháp này sẽ làm cho Ngân hàng thương mại mất tính chủ
động linh hoạt trong kinh doanh.
Khi muốn tăng khối lượng cho vay, Ngân hàng Trung ương giảm mức
lãi suất cho vay để kích thích các nhà đầu tư vay vốn khi cần hạn chế đầu tư,
Ngân hàng Trung ương Ên định mức lãi suất cao.
2. Các công cụ gián tiếp.
Công cụ gián tiếp là những công cụ mà tác dụng của nó được là nhờ cơ
chế thị trường (Hay công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ là công cụ tác
động vào mục tiêu trung gian thông qua việc điều chỉnh các mục tiêu cuối
cùng.
2.1. Dự trữ bắt buộc.
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ chức tín dụng giử tại Ngân hàng Trung
ương để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Nó được xác định bằng một tỷ
lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tuy theo tính chất và thời hạn
mà các tổ chức tín dụng huy động được.
Dự tữ bắt buộc bị tác động trực tiếp bởi tỷ lệ dự tứ bắt buộc do Ngân
hàng Trung ương quy định bằng việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ có tác dụng
làm giảm khả năng cho vay và đầu tư của Ngân hàng thương mại, từ đó giảm
lượng tiền trong lưu thông, góp phần giảm cầu tiền để cân bằng với sự giảm
cung xã hội. Như vậy tỷ lệ dự trữ bắt buộc càng cao mức độ an toàn trong
hoát động của các Ngân hàng thương mại càng cao, tuy nhiên nếu tỷ lệ dự trữ
bắt buộc quá cao đến mức nào đó sẽ làm cho các Ngân hàng thương mại mất
6
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A
khả năng tạo tiền - mét khả năng cần có của Ngân hàng. Trong trường hợp
giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng mở rộng cho vay của Ngân hàng thương
mại sẽ tăng lên, đẫn đến sự gia tăng lượng tiền trong lưu thông, góp phần tăng
cung xã hội để có thể cân đối tăng cầu về tiền.

2.2. Lãi suất tài chiết khấu.
Chính sách tài chiết khấu thể hiện qua việc Ngân hàng Trung ương cung
ứng vốn tín dụng cho Ngân hàng thương mại. Chính sách tài chiết khấu được
thực hiện thông qua các cửa sổ chiết khấu. Ngân hàng Trung ương áp dụng lãi
suất chiêt khấu và qui định các điều kiện để tài chiết khấu cho các tổ chức tín
dụng.
Ngân hàng Trung ương áp dụng chính sách tài chiết khấu: Là lãi suất mà
Ngân hàng Trung ương áp dụng để chiết khấu lại các giấy tờ có giá của Ngân
hàng thương mại. Đây là loại cho vay có đảm bảo.
Lãi suất tài chiết khấu tác động vào giá tín dụng nên khi lãi suất tài chiết
khấu tăng sẽ tác động vào mặt bằng giá vốn đầu tư của Ngân hàng thương
mại, gây áp lực và lãi suất nền kinh tế sẽ tăng theo, thu hẹp khả năng cho vay
của Ngân hàng thương mại dẫn đến hệ số tạo tiền giảm và ngược lại. Việc
tăng lãi suất tài chiết khấu cũng gây hiệu ứng thông báo, nhà kinh doanh sẽ
biết tác động của Ngân hàng Trung ương thông qua chính sách chiết khấu tối
thị trường. Người đầu tư giám sát sự thông báo lãi suất của Ngân hàng Trung
ương để dự tính được xu hướng thay đổi lãi suất để tìm biện pháp phòng
ngõa, ngăn chặn làm thay đổi tiền gửi và lãi xuất cho vay đồng thời tác động
giá chứng khoán.
Đi kèm với lãi suất tài chiết khấu Ngân hàng Trung ương còn qui định
hạn mức tài chiết khấu tức là qui định cho vay tối đa trên cơ sở lãi suất đã qui
định để gây ảnh hưởng về lượng vốn mà các tổ chức tín dụng vay của Ngân
hàng Trung ương. Đồng thời Ngân hàng Trung ương còn qui định các tiêu
chuẩn thể hiện tài chiết khấu nh về thời hạn về thể loại giấy tờ có giá, chất
7
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A
lượng giấy tờ có giá, và uy tín của tổ chức tín dụng khi vay vốn của Ngân
hàng Trung ương.
2.3. Nghiệp vụ thị trường mở.

Thị trường mở là thị trường tiền tệ mà ở đố người ta thực hiện việc mua
bán các công cụ tài chính ngắn hạn.
Nghiệp vụ thị trường mở sẽ tác động vào các mục tiêu của chính sách
tiền tệ cả về mặt giá và lượng.
Về mặt lượng: Là ảnh hưởng của nghiệp vụ thị trường mở vào dự trữ của
Ngân hàng thương mại. Khi Ngân hàng Trung ương thực hiện việc mua
chứng từ có giá trên thị trường mở, kết quả làm dự trữ của Ngân hàng thương
mại tăng lên và khi Ngân hàng Trung ương bán các chứng từ có giá trên thị
trường mở dẫn đến dự trữ của Ngân hàng thương mại giảm đi. Như vậy khi
Ngân hàng Trung ương thực hiện nghiệp vụ thị trường mở nã sẽ tác động vào
dự trữ của Ngân hàng thương mại làm ảnh hưởng đến khối lượng tiền cung
ứng.
Về mặt giá: Khi Ngân hàng Trung ương mua các giấy tờ có giá sẽ làm
tăng dự trữ của Ngân hàng thương mại , cung vốn tín dụng cũng tăng lên.
Điều đó sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn làm lãi suất ngắn hạncó xu hướng
giảm xuống và tác động vào lãi suất có kỳ hạn giảm xuống. Bên cạnh đó
Ngân hàng Trung ương thực hiện mua chứng từ có giá trị trên thị trường mở
sẽ ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của các chứng từ có giá, đẫn đến có sự
chuyển dịch vốn đầu tư làm ảnh hưởng đến lãi suất thị trường, tác động vào
cung cầu vốn trên nền kinh tế, ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng.
Khi Ngân hàng Trung ương thực hiện mua, bán các chứng từ có giá trên
thị trường mở sẽ tác động vào giá cả của chứng từ cá giá và khi Ngân hàng
Trung ương thực hiện can thiệp vào giá cả của các chứng từ có khối lượng
8
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A
chiếm tỷ trọng lớn thì vai trò can thiệp của Ngân hàng Trung ương càng có ý
nghĩa quan trọng tác động vào lượng tiền cung ứng.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT
NAM.

I. BỐI CẢNH CHUNG.
Đảng Cộng Sản Việt nam lần thứ 6 đã đánh dấu sự chuyển đổi từ cơ chế
kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Bước ngoặt này là tiền đề khách quan, là điều kiện mới cho cải cách tổ chức
hoạt động hệ thống Ngân hàng và định hướng chính sách tiền tệ ở Việt nam.
Từ năm 1990, sau khi 2 pháp lệnh Ngân hàng được ban hành (pháp lệch
về Ngân hàng Nhà nước và pháp lệch Ngân hàng - Hợp tác xã tín dông -
Công ty tài chính), hệ thống Ngân hàng Việt nam chuyển đổi từ một cấp sang
2 cấp, phân định ró chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh
tiền tệ của các tổ chức tín dụng, bước đầu thích ứng dần với hệ thống Ngân
hàng của nền kinh tế tiền tệ.
Chính sách tiền tệ được xác định thông qua xây dựng các chính sách cụ
thể: chính sách tín dụng tạo ra nhiều công cụ huy động vốn và đồng thời mở
rộng cho vay đến mọi thành phần kinh tế; chính sách lãi suất (xoá bỏ bao cấp
qua lãi suất cho vay, thực hiện chính sách lãi suất thực dương, điều chỉnh lãi
suất huy động và cho vay phù hợp với sự biến động của chỉ số lạm phát );
chính sách quản lý ngoại hối và một số các công cụ hỡ trợ khác.
Đến tháng 10 năm 1998, luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức
tín dụng bắt đầu được thực thi, thay thế hai pháp lệnh năm 1990 nhằm giúp
9
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A
hoạt động của hệ thống Ngân hàng tự do hơn, thông thoáng hơn phù hợp với
thay đổi lớn lao trong hệ thống Ngân hàng.
II. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN.
Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương là tổng hoà các giải pháp
đảm bảo ổn định đồng tiền và thị trường tiền tệ , góp phần giải quyết các mục
tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Đứng trên phương diện này, thời kỳ 1986 đến nay
có thể chia làm 4 giai đoạn.
1. Giai đoạn 1986 - 1988.

Đây là giai đoạn đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tổng
cầu luôn vượt tổng cung. Nền kinh tế đang ở giai đoạn khủng hoảng do thiếu
hụt ngân sách. Nh vậy Nhà nước đã bành trướng tăng tiền làm cho lạm phát
đạt kỷ lục 3 con số. Nhiệm vụ trung tâm lúc này là chống lạm phát. Do vậy đã
có 2 thay đổi lớn trong lĩnh vực tiền tệ: Đưa tỷ giá hối đoái nên ngang mức
giá thị trường và thi hành lãi suất thực dương nhằm tạo nên xung lực mạnh
mẽ làm đảo lộn tình hình trên thực tế, hai biện pháp này đã đẩy lùi được lạm
phát và khủng hoảng, khôi phục lòng tin của người dân vào đồng tiền tạo
động lực để thực hiện đổi mới.
2. Giai đoạn 1989 -1991.
Đây là giai đoạn nền kinh tế đong trong quá trình chuyển đổi, tuy các
chính sách kinh tế mới đã cắt được lạm phát cao nhưng lạm phát năm 1990 -
1991 vẫn lên tới 60%. Nhà nước đã thực hiện những biện pháp thắt chặt chi
tiêu tài chính, tiết kiệm chi, giảm bội chi, tăng cường hoạt động của các Ngân
hàng nhằm đảm bảo nguồn vốn cần thiết cho tăng trưởng. Đặc biệt việc cải
cách hệ thống thuế đã tăng cường các nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
3. Giai doạn 1992 - 1995.
Chính sách tiền tệ ở Việt nam được coi là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà
nước về tiền tệ do Ngân hàng trung ương chịu trách nhiệm soạn thảo và thực
10
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A
thi nhằm ổn định giá trị đồng tiền, ổn định tăng trưởng kinh tế. Thời kỳ này
mục tiêu của chính sách tiền tệ đặt ra là: ổn định tiền tệ bao gồm ổn định sức
mua đối nội và đối ngoại của đông tiền, tăng trưởng kinh tế, công ăn việc làm
cao. Nhận thức nội dung chủ yếu của thời kỳ này thông qua các chính sách:
Chính sách cung ứng và điều tiết khối lượng tiền, chính sách ngoại hối, chính
sách tạm ứng cho ngân sách, chính sách cung ứng và điều tiết tiền lúc này đã
nhận thức được khối tiền tệ:
M

1
: Tiền mặt lưu thông ngoài hệ thông Ngân hàng và tiền gửi không kỳ
hạn tại Ngân Hàng.
M
2
: Gồn M
1
và tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn.
M
3
: Gồn M
2
và các loại tiền gửi các định chế tổ chức khác.
L: Gồm M
3
và các giấy tờ có giá
Khối lượng tiền cung ứng tăng thêm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, do đó
trong quá trình xác định chi tiêu này Ngân hàng Nhà nước quán triệt các
nguyên tắc:
- Căn cứ vào tình hình tăng trưởng kinh tế. Khối lượng tiền tệ tương ứng
với mức tăng trưởng kinh tế.
- Khối lượng tiền cung ứng có tính đến phạm vi tỷ lệ lạm phát.
- Khối lượng tiền cung ứng dùa vào ngoại hối trong tay người cư trú.
- Tiền cung ứng chịu ảnh hưởng bởi tốc đọ lưu thông tiền tệ theo công
thức:
Khối lượng tiền cung ứng tăng thêm hàng năm bao gồm tiền mặt, các
loại tiền gửi ở Ngân hàng nhằm dành cho nhu cầu đầu tư tín dụng cho nền
11
P x Q
V=

M
GNP
V=
M
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A
kinh tế, tăng dự trữ ngoại hối và tạm ứng cho ngân sách. Khối lượng tiền cung
ứng tăng thêm chỉ là một chỉ tiêu định hướng, điều quan trọng là Ngân hàng
Nhà nước phải theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, giá cả và tỷ giá hối
đoái để điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền sao cho sao cho khối lượng tiền
tăng hay giảm không làm ảnh hưởng đến giá cả hoặc thiếu phương tiện lưu
thông gây cản trở cho lưu thông hàng hoá. Việc điều chỉnh khối lượng tiền
cung ứng theo tín hiệu cuả thị trường, thông qua nhu cầu đối ứng xuất phát từ
các kênh tạo tiền (Tín dụng, Ngân hàng, thị trường ngoại hối, thị trường mở).
Chính sách tín dụng cho nền kinh tế: Kiểm soát lượng tiền cung ứng
thông qua chỉ tiêu hạn mức tín dụng. Ngân hàng Nhà nước cấp tín dụng cho
các Ngân hàng thương mại thông qua hoạt động tài cấp vốn.
Chính sách ngoại hối: Ngân hàng Nhà nước thực hiện biện pháp quản lý
ngoại hối bao gồm việc sử dụng tỷ giá nhằm điều tiết thị trường ngoại hôí,
quản lý dự trữ ngoại hối quốc gia, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Ngân
hàng Nhà nước sử dụng chính sách tỷ giá linh hoạt, có sự quản lý, phản ánh
sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả.
Các công cụ của chính sách thời kỳ này bao gồm:
+ Lãi suất: Lãi suất tài cấp vốn cho các Ngân hàng thương mại vay khi
họ có nhu cầu tiền Trung ương để thanh toán cho khách hàng rút tiền mặt,
thanh toán cho Ngân hàng khác, mua ngoại tệ của Ngân hàng Trung ương
hoặc của thị trường.
Khung lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định để chỉ đạo điều tiết lãi
suất, huy động tiền gửi và lãi suất cho vay của các Ngân hàng kinh doanh.
Ngân hàng Nhà nước quy định lãi suất tiền gửi tối thiểu, lãi suất cho vay tối

đa hoặc chỉ khống chế trần lãi suất cho vay. Tất cả các loại lãi suất trên đều có
ảnh hưởng đến lãi suất thị trường.
12
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A
+ Dù trữ bắt buộc: để kiểm soát việc tạo tiền của các Ngân hàng thương
mại và điều tiết khối lượng tind dông cho nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước
Việt nam áp dụng công cụ dự trữ bắt buộc.
Tiền DTBB = Tỷ lệ DTBB x Số dư tiền gửi huy động
Theo pháp lệnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10 - 30% nhưng Ngân hàng Nhà
nước thường xuyên áp dụng ở mức 10% cho tất cả tiền gửi huy động. Sau đó
có thể quy định riêng cho tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn. Thời
kỳ này còn áp dụng cơ cấu dự trữ bắt buộc bao gồm: Tiền gửi trên tài khoản
tại Ngân hàng Nhà nước và tiền mặt ngân phiếu tại quỹ của Ngân hàng
thương mại, cũng có khi cho phép cả khoản mua tín phiếu kho bạc cũng được
coi là dự trữ bắt buộc và để giảm bớt gánh nặng dự trữ bắt buộc cho các Ngân
hàng.
+ Hạn mức tín dụng: Là công cụ để Ngân hàng Nhà nước khống chế
mức tăng lượng tiền cung ứng. Trong thời kỳ này công cu hạn mức tín dụng
được hiểu là mức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước sử dụng để cấp cho nền
kinh tế thông qua hệ thông hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng kết hợp với
sử dụng nghiệp vụ tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu để khống chế mức tăng
khối lượng tiền cung ứng phù hợp với yêu cầu của kiểm soát lạm phát.
Tóm lại, trong giai đoạn này, nền kinh tế đã đi dần vào trạng thái ổn định
và tăng trưởng cao: tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1994 đạt 8,8%, năm 1995
đạt 9,5%. Nhân tố quyết định trạng thái ổn định này là do Nhà nước qua kinh
nghiệm điều hành đã nhận thức được rõ tác dụng của cung ứng tiền tệ lên lạm
phát nên đã thực hiện đổi mới mạnh mẽ hoạt động ngân hàng và thực hiện
thành công chính sách tiền tệ.
Giai đoạn này đã tạo ra nhiều yếu tố quyết định cho chiều hướng thuận

lợi cho chính sách tiền tệ.và sự phát triển trong tiền tệ ở giai đoạn sau.
4. Giai đoạn từ 1996 đến nay.
13
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A
Tháng 12/1997 bộ luật Ngân hàng boa gồm luật Ngân hàng Nhà nước và
luật tổ chức tín dụng thì hệ thống Ngân hàng được tiếp tục đổi mới và bước
voà thời kỳ đổi mới căn bản và toàn diện trên tất cả các mặt. Theo đó chính
sách tiền tệ mới bắt đầu xây dựng và từng bước được đi vào thực hiện, di dân
từ thấp đến cao phú hợp với tình hình thực tế. Theo luật Ngân hàng Nhà nước
Việt nam thì các công cụ chính sách tiền tệ boa gồm:
- Dù trữ bắt buộc.
- Lãi suất.
- Tài cấp vốn.
- Thị trường mở
- Tỷ giá
Hiện nay thực tế vận hành chính sách tiền tệ Quốc gia Ngân hàng Nhà
nước Việt nam sử dụng các công cụ:
+ Công cụ hạn mức tín dụng: Công cụ này được Ngân hàng Nhà nước áp
dụng trong điều hành chính sách tiền tệ từ năm 1994 đã có tác dụng hiệu quả
đến tốc độ tăng lượng tiền cung ứng và qua đó kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên
trong những năm gần đây việc áp dụng công cụ này đã mất dần vai trò của nó.
Hơn nữa việc mở rộng tín dụng trong giai đoạn này là cần thiết để thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế nhưng nếu tiếp tục thực hiện hạn mức tín dụng sẽ tạo
thêm những khó khăn cho các Ngân hàng thương mại mở rộng tín dụng do
vậy từ quý II năm 1998 Ngân hàng Nhà nước đã không sử dụng công cụ
thường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ.
+ Áp dông quy chế dự trữ bắt buộc đối với các Ngân hàng và các tổ chức
tín dụng khác có huy động tiền gửi để điều tiết khối lượng tiền cung ứng theo
năm kế hoạch.

14
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A
+ Công cụ tài cấp vốn: Ngân hàng Nhà nước thực hiện tài cấp vốn ngắn
hạn nhằm bù đắp khó khăn tạm thời về thanh toán cho các Ngân hàng thương
mại theo các hình thức:
\ Cho vay theo hồ sơ tín dụng.
\ Chiết khấu, tài chiết khấuthương phiếu và các chứng từ có giá ngằn
hạnkhác.
\ Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các chứng từ có giá
ngắn hạn khác.
+ Công cụ lãi suất: Chính sách lãi suất được Ngân hàng Nhà nước sử
dụng trong mối quan hệ điều hoà với tỷ giá. Ngân hàng Nhà nước tiếp tục
thực hiện việc kiểm soát lãi suất trên thị trường tiền tệ bằng chính sách quy
định trần lãi suất cho vay đối với VNĐ và ngoại tệ, trên cơ sở đó các tổ chức
tín dụng Ên định các mức lãi suất huy động phù hợp với cung - cầu tín dụng.
Hiện nay đang tiến hành tới quy định lãi suất cơ bản.
+ Công cụ tỷ giá: Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh giữa 2 đồng tiền hay
giá cả một đơn vị tiền nước này bằng bao nhiêu đơn vị tiền nước khác.
Ngân hàng Nhà nước thực hiện biện pháp điều hành tỷ giá linh hoạt, phù
hợp với diễn biến trên thị trường ngoại hối trong khu vực.
+ Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Hiện nay Việt nam đang chuẩn bị
các điều kiện cần thiết để đưa công cụ nào về vận hành. Vừa qua mới ban
hành quy chế và đang thí điểm, thể hiện Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua
bán tín phiếu ngăng hạn, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước để tác động vào
lượng tiền cung ứng, việc thực hiện ban đầy gặp lhó khăn, song do hàng hoá ở
thị trường chưa có nhiều, vì vậy công cụ này chưa phát huy được hiệu quả.
Từ năm 1996, hàng năm Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền
tệ bằng cách xác định mục tiêu của chính sách tiền tệ. Mục tiêu cuảu chính
sách tiền tệ phụ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế của chính phủ, diễn

15
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A
biến tiền tệ của năm trước như: Tốc độ tăng trưởng phương tiện thanh toán,
tốc độ tăng tín dụng, tốc độ tăng huy động tiền gửi, tốc độ tăng dự trữ ngoại
tệ.
Hướng điều hành chính sách tiền tệ: Ngân hàng Nhà nước phải xác định
được khối lượng tiền tăng thêm hàng năm, xác định công cụ chính sách tiền tệ
như lãi suất, dự trữ bắt buộc, tài cấp vốn, tỷ giá, quản lý ngoại hối.
III. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT
NAM.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc điều hành chính sách tiền tệ ở
Việt nam cũng đang được bộc lé những hạn chế thiếu sót nhất định. Hiện
tượng thiếu lành mạnh trong hệ thống tài chính tiền tệ nói chung và sự thiếu
nhất quán về một số mặt trong chính sách vĩ mô, trong đó có chính sách tiền
tệ cóng bộc lé khá sớm, đe doạ sự ổn định của nền kinh tế về trung và dài hạn.
Bên cạnh đó vòng xoái tụt dốc “đô mi nô” về tăng trưởng kinh tế cũng ảnh
hưởng đến Việt nam Ýt nhất là trong vòng 2 đến 3 năm kể từ năm 1997. Tình
hình xấu đi càng bộc lé rõ những khó khăn và tồn tại trong việc hoạch định và
điều hành chính sách tiền tệ trong vòng 5 năm trở lại đây. Có thể nêu một số
điều chủ yếu sau:
- Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ chưa được hoàn chỉnh theo cơ
chế thị trường và còn ở rạng sơ khai. Yêu cầu kiện toàn chính sách lãi suất
trong mối tương quan chế độ tỷ giá hối đoái thích hợp hơn vẫn chưa được xử
lý tốt.
- Kinh doanh của hầu hết các Ngân hàng thương mại bị gò bã , thiếu chủ
động tự chủ. Hơn nữa phần lớn các Ngân hàng thương mại cổ phần hiện nay
đều trong tình trạng thua lỗ, cho vay không hiệu quả, tỷ lệ nợ khó đòi, nợ quá
hạn, nợ không sinh lời khá cao. Nhìn chung rủi ro tín dụng Ngân hàng là đáng
lo ngại, bên cạnh đó là các loại rủi ro khác về tỷ giá, về thanh toán đối ngoại

16
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A
Thị trường liên Ngân hàng nội ngoại tệ được thành lập và đi vào hoạt
động từ những năm 1993 - 1994 nhưng chưa phát triển sôi động, chưa trở
thành giao điểm hội tụ và định hướng chuyển dịch các dòng vốn nhàn rỗi giữa
các Ngân hàng thương mại. Các giao dịch ngoại tệ chinhd thức bị gò bó, chi
phối chưa mạnh và kịp thời với biến đọng tỷ giá hối đoái thị trường. Thị
trường vốn mới ở dạng “manh nha” nên khả năng cung ứng vốn đầu tư trung,
dài hạn cho nền kinh tế còn rất yếu. Việc tạo lập các công cụ và thể chế phát
triển thị trường tiền tệ ngắn hạn và thị trường vốn dài hạn nói chung mới bắt
đầu và còn gặp không Ýt khó khăn: Đó là những trở ngại lớn cho Ngân hàng
Nhà nước trong việc tiến hành nghiệp vụ thị trường mở để kiểm soát, điều
chỉnh kịp thời tổng lượng tiền trong lưu thông.
- Sù thâm hụt lớn của cán cân vãng lai do nhập siêu triền miên và gánh
nặng của bội chi ngân sách tạo nên những áp lực từ nhiều phía đe doạ tính ổn
định, độc lập tương đối của chính sách tiền tệ mà bước đầu đã tạo dựng được
ở giai đoạn chống lạm phát trước đây, thâm hụt cán cân vãng lai chủ yếu phải
bù đắp bằng nhập khẩu vốn là nguyên nhân chính gây ra nạn “dollar hoá”
khiến VNĐ bị đánh giá quá cao kích thích tâm lý tích luỹ giá trị dưới dạng
ngoại tệ, không gian tiền tệ bị méo mó. Trong khi đó sự nôn nóng uốn nắn
một cách cứng nhắc hoạt động tiền tệ tín dụng và Ngân hàng sau một vụ đổ
vỡ tài chính làm tái phát xu hướng bao cấp tràn lan qua hạn mức tín dụng, qua
lãi suất ưu đãi, qua áp lực chỉ định cho vay của các cấp chính quyền Đó là
những trở ngại không dễ dỡ bỏ trong quá trình hoàn thiện chính sách tiền tệ
hiện nay.
17
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A
CHƯƠNG III. HẠN CHẾ CỦA CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNHTRỰC

TIẾP TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM VÀ
CÁC ĐIỀU KIỆN NHẰM CHUYỂN ĐỔI CÁC CÔNG CỤ CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ TỪ TRỰC TIẾP SANG GIÁN TIẾP.
I. HẠN CHẾ CỦA CƠ CHẾ ĐIỀU CHỈNH TRỰC TIẾP TRONG ĐIỀU HÀNH
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM.
Hiện nay Ngân hàng Nhà nước Việt nam đang sử dụng một hệ thống các
công cụ chính sách tiền tệ trực tiếp bao gồm: Hạn mức tín dụng, lãi suất
(thông qua hệ thống trần lãi suất cho vay), tỉ giá. Bên cạnh đó các công cụ
gián tiếp nh dù trữ bắt buộc và chính sách tài cấp vốn (bao gồm hạn mức tài
cấp vốn và lãi suất tài cấp vốn) cũng được sử dụng nhưng hiệu quả tác động
còn hạn chế. Để bổ trợ cho các công cụ trên, Ngân hàng Nhà nước Việt nam
còn sử dụng một loạt các chính sách điều chỉnh trực tiếp nh chính sách tín
dụng, chính sách quản lý ngoại hối.
Việc sử dụng hệ thống công cụ điều tiết trực tiếp trong thời 10 năm qua
mặc dù những hạn chế của nó được biết trước là hoàn toàn phù hợp với điều
kiện cụ thể của Việt nam khi những điều kiện sử dụng công cụ gián tiếp chưa
được hình thành.
Thứ nhất: Ngân hàng Nhà nước Việt nam không có khả nảng kiểm soát
chính xác sự biến động số dư dự trữ của hệ thông Ngân hàng, một trong
những căn cứ quan trọng để có thể sử dụng cơ chế điều chỉnh gián tiếp. Khả
năng cập nhật thông tin và những phương tiện kỹ thuật phụ trợ hiện tại làm
hạn chế khả năng của Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm soát và dự boá
chính xác sự biến độngmức dự trữ của hệ thống Ngân hàng.
Thứ hai: Mối quan hệ giữa lượng tiền cung ứng là rất khó dự đoán do sự
biến động bất thường của cả cơ sở tiền tệ và các nhân tố ảnh hưởng đến hệ số
tạo tiền.
18
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A
Thứ ba: Hệ thống thị trường tài chính và khả năng chứng khoán hoá các

nhu cầu vốn chưa phát triển và chưa trở thành thãi quen của cộng đồng.
đương nhiên khi các điều kiện của cơ chế gián tiếp chưa hình thành thì việc
sử dụng cơ chế trực tiếp là tất yếu.
Trong thực tế, cơ chế điều chỉnh trực tiếp đã đem lại sự thành công đáng
kể cho chính sách tiền tệ trong thập kỷ 90 khi nhìn vào sự biến động của các
mục tiêu vĩ mô, lạm phát, sản lượng và công ăn việc làm. chính sách tiền tệ đã
đạt được hiệu quả tối đa của nó.
Nếu quan niệm rằng mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ là ổn định
giá trị tiền tệ với ý nghĩa là ổn định tỷ lệ lạm phát ở mức thấp thì trong thời
gian vưa qua mục tiêu này chưa được thực hiện một cách hoàn hảo tỷ lệ lạm
phát biến động tương đối mạnh và khó dự đoán từ năm này qua năm khác.
Những biến động về hiệu quả và phân phối lại các lạm phát do ảnh hưởng đến
giá trị thực của các chỉ tiêu giá trị không chỉ nảy sinh từ mức lạm phát cao mà
chủ yếu từ sự bất ổn định của tỷ lệ lạm phát. Vì điều quan trọng bắt đầu từ
năm 1996, mặc dù tổng phương tiện thanh toán tăng liên tục nhưng giấ cả có
xu hướng giảm ở các tháng đầu năm 1996, 1997, 1998 và sự giảm giá này
diễn ra ở hầu hết các tháng trong năm 1999. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng
giảm mạnh từ năm 1998. Điều này chứng tỏ chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Nhà nước tỏ ra lúng túng và thiếu chủ động trong việc điều tiết lượng tiền
cung ứng để đảm bảo cho phù hợp vỡi nhu cầu về tiền tệ của nền kinh tế.
Lý do chủ yếu dẫn đến tình trạng trên có lẽ xuất phát từ hạn chế vốn có
của cơ chế điều chỉnh trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ mà ngày
càng bộc lé rõ nét:
Một là: Các công cu trực tiếp không cho phép Ngân hàng Nhà nước có
thể điều chỉnh linh hoạt lượng vốn khả dụng trong điều kiện ứ thừa.
Tình trạng dự trữ không mong muốn ở các Ngân hàng thương mại bắt
đầu từ năm 1994 và kéo dài đến nau. Lý do ban đầu có lẽ bởi việc duy trì lãi
19
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A

suất tiền gửi cao cùng với việc khống chế trần tín dụng trong những năm 1994
- 1996, bởi dự trữ ngoại tệ tăng lên rất mạnh trong thời gian này và tỷ lệ tiền
gửi có xu hướng giảm xuống. Tuy nhiên lý do chủ yếu của tình trạng này từ
năm 1997 đến nay lại nằm ở sự giảm sút tổng cầu cuả nền kinh tế, phản ánh
sự giảm sút nhu cầu tiền tệ đặc biệt nhu cầu về giao dịch. Thực tế này làm cho
các Ngân hàng thương mại phải chịu áp lực rất mạnh về chi phí vốn đông thời
làm giảm thiểu hiệu quả cuẩ chính sách tiền tệ. Ngoài dự trữ bắt buộc (thay
đổi rất chậm) Ngân hàng Nhà nước không có công cụ để hấp thụ lượng vốn
khả dụng thừa một cách chủ động. Thực tế năm 1996 Ngân hàng Nhà nước đã
thí điểm phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước để đạt được mục đích này.
Nhưng vì nhiều lý do nó đã không tồn tại.
Hai là: Công cụ trực tiếp ngày càng tỏ ra thiếu chủ động trong công việc
điều hành lượng tiền cung ứng cà do đó làm giảm hiệu lực của chính sách tiền
tệ. Điều này được thể hiện rõ trong hai năm 1998, 1999 khi trần lãi suất công
cụ chính sách tiền tệ chủ yếu giảm liên tục nhưng giá cả và sản lượng không
những không tăng mà tiếp tục giảm. Đương nhiên sự giảm sút này xuất phát
chủ yếu từ các yếu tố thực của nền kinh tế chứ không hoàn toàn xuất phát từ
yếu tố danh nghĩa. Nhưng chính sách tiền tệ đã không chủ động khi đối lập
với tình trạng này và do đó làm cho sự tác động của chính sách tiền tệ trở nên
kém hiệu quả.
Ba là: hiệu lực tác động của chính sách tiền tệ bị hạn chế vì không lợi
dụng được các kênh dẫn truyền đa dạng qua lãi suất, qua kênh tín dụng và qua
thị trường tài chính với những ảnh hưởng qua giá trái phiếu, cổ phiếu và giá
ngoại tệ.
Việc sử dụng các công cụ trực tiếp và các chính sách điều chỉnh như
hiện nay chỉ cho phép chính sách tiền tệ tác động đến các mục tiêu thông qua
các kênh dẫn truyền trực tiếp và chủ yếu thông qua tác động về mặt khối
lượng.
20
Tiu Lun Kinh T V Vụ Lờ Mnh

Cng_CH13A
Kờnh dn truyn trc tip:
Kờnh dn truyn giỏn tip ch yu li dng c ch tỏc ng ca th
trng ti chớnh thụng qua sự thay i ca gia ti sn v s c cu li danh
mc u t ca ngi u t. Vi cỏc cụng c giỏn tip, c bit l nghip v
th trng m, Ngõn hng Trung ng cú th a phng truyn tỏc ng ca
nú n mc tiờu cui cựng ca chớnh sỏch tin t, bao bm cỏc kờnh dn
truyn trc tip v giỏn tip.
21
GNP thực tế tăng
Lạm phát tăng
MS Chỉ tiêu tăng GNP danh nghĩa tăng

Chính sách tín dụng
Chính sách quản lý ngoại hối
Nhập khẩu tăng
Xuất khẩu giảm
Tài khoản
vãng lai bội
chi
VNĐ giảm giá
Tiu Lun Kinh T V Vụ Lờ Mnh
Cng_CH13A
Kờnh dn truyn giỏn tip.
Vic phõn tớch nhng hn ch cụng c trc tip cũng nh ch ra li
th ca cụng cgiỏn tip trong iu hnh chớnh sỏch tin t khụng ph nhn
22
MS tăng
Lãi suất ngănd hạn giảm
Cơ cấu lại danh mục đầu t

Lãi suất hoặc tỷ lệ sinh lời
giảm
Chi tiêu cho những khu vực
nhạy cảm với lãi suất tăng
GNP danh nghĩa tăng
Lợngmua
Tín phiếu tăng Giá tín phiếu
tăng Mức sinh lời giảm
Trái phiếu tăng Giá trái phiếu
giảm mức sinh lời giảm
Cổ phiếu tăng Giá cổ phiếu
tăng Mức sinh lời giảm
Chi tiêu cho các đồ dùng cần
thiết
Thay đổi danh mục đầu t
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A
hoàn toàn tác động tích cực của chúng trong điều tiết lượng tiền cung ứng thời
gian qua. Trong thực tế khi các điều kiện sử dụng công cụ gián tiếp chưa chín
muồi bao gồm:
- Hệ thống Ngân hàng hoạt động lành mạnh trong cơ chế cạnh tranh.
- Thị trường tiền tệ thứ cấp tích cực và được điều tiết hiệu quả.
- Các công cụ ảnh hưởng có hiệu quả đến lãi suất và các kênh truyền dẫn
được hoàn thiện thì việc sử dụng các công cu trực tiếp đảm bảo tính hiệu qảu
nhất định của nó. Tuy nhiên đã đén lúc cơ chế điều chỉnh chính sách tiền tệ
cần được thay đổi. Nền kinh tế đang đứng trước thách thức của nhu cầu hội
nhập và mở cửa toàn diện, một chính sách tiền tệ cứng nhắc và kém hiệu quả
sẽ không đảm bảo cho nã tranh được những ảnh hưởng mạnh mẽ từ thị trường
bên ngoài. Hơn nữa, sau 10 năm đổi mới và những cải cách mạnh mẽ trong
lĩnh vực Ngân hàng, những điều kiện cho phép sử dụng cơ chế điều chỉnh

gián tiếp đang dần hình thành hứa hẹn một khả năng chắc chắn cho sự chuyển
đổi cơ chế điều tiết lượng tiền cung ứng. Công việc cần phải làm tiếp theo là
đánh giá và dự tính hiệu quả tác động của công cụ gián tiếp trong điều kiện cụ
thể của Việt nam.
II. CÁC ĐIỀU KIỆN NHẰM CHUYỂN ĐỔI CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN
TỆ TỪ TRỰC TIẾP SANG GIÁN TIẾP.
Chuyển đổi việc diều hành chính sách tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếp
là một quá trình phức tạp, thường đòi hỏi một thời gian khá dài để hoàn thành.
Kinh nghệm một số nước đã cho thấy quá trình chuyển đổi có thể gặp phải
những khó khăn, chi phí nặng nề và có thể kéo dài nếu không có một phương
pháp tiếp cận toàn diệnvới các công cụ gián tiếp. Đặc biệt ở những nước
không thực hiện những biện pháp hỗ trợ đầy đủ. Hiệu quả kiểm soát tiền tệ đã
giảm xuống và một số nước đã đình chỉ (hoặc đi ngược lại) những lỗ lực
chuyển đổi của họ. Để khắc phục những khó khăn ở mức thấp nhất và tạo
23
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A
điều kiện thực hiện chuyển đổi trôi chảy chung ta cần phải giải quyết các vấn
đề cơ bản sau:
1. Phát triển thị trường tài chính.
Việc sử dụng các công cụ gián tiếp của Ngân hàng Trung ương sé có
hiệu lực hơn nếu được cạnh tranh thực hiện trong điều kiện thị trường tài
chính phát triển. Vì vậy, để Ngân hàng Nhà nước Việt nam có thể thực hiện
quá trình chuyển việc điều hành chính sách tiền tệ từ công cụ trực tiếp sang
công cụ gián tiếp một cách có hiệu quả thì cần phải phát triển thị trường tài
chính. Dười đây là một vài giải pháp phát triển thị trường tài chính Việt nam.
- Việc phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc phải tập trung vào một đầu
mối thông qua Ngân hàng Trung ương làm đại lý.
- Ngân hàng Trung ương cần nghiên cứu cơ chế phát hành tind phiếu
Ngân hàng Trung ương.

- Ngân hàng Trung ương cũng cần xem xét để có thể cho phép một số
nước Ngân hàng thương mại được phép phát hành các loại chứng từ tiền gửi,
các công cụ sẽ có hiệu quả hơn nếu thị trường tiền tệ phản ứng nhanh nhạy
với các hành vi của Ngân hàng Trung ương. Hiện nay thị trường tiền tệ phát
triển cần có các điều kiện sau: Góp phần cung cấp hàng hoá cho thị trường
tiền tệ, từ đó thúc đẩy hoạt động thị trường mở phát huy ưu thế vốn có của nó.
- Tiến tới có cơ chế lãi suất linh hoạt và chịu sự điều tiết của thị trường.
- Đảm bảo sự ổn định của giá trị đồng tiền Việt nam trong giới hạn cho
phép.
- Thị trường tiền tệ và thị trường liên Ngân hàng cần được củng cố và
liên kết chặt chẽ. Một thị trường năng động là đặc biệt quan trong vì điều này
sẽ giúp xác định rõ thời điểm và khối lượng của hoạt động thị trường mở. Các
công cụ gián tiếp nói chung sẽ có hiệu quả hơn nếu thị trường tiền tệ phản
ững nhanh nhạy với các hành vi của Ngân hàng Trung ương. Do đó cần phải
24
Tiểu Luận Kinh Tế Vĩ Vô Lê Mạnh
Cường_CH13A
phát triển cơ sở hạ tầng của thị trường - các hệ thồng và thủ tục thanh toán.
Khuân mẫu pháp lý và điều tiết thị trường đồng thời đưa vào sử dụng các
công cụ và kỹ thuật thị trường phù hợp. Một số nước sử dụng cửa sổ chiết
khấu để hạn chế, phạt hoặc cấm vay ngắn hạn tại Ngân hàng Trung ương.
Ngân hàng trung ương cũng có thể khuyến khích các giao dịch trên thị trường
liên Ngân hàng thông qua một số biện pháp khác nh sử dụng cơ chế chuyển
giao và thanh toán để nắm chắc các nguồn giao dịch liên Ngân hàng. Hiện nay
các thoả thuận mua lại (repos) được coi là hình thức tài trợ linh hoạt và thuận
tiện nats. Repos là nghiệp vụ theo đó những người tham gia thị trường mua
hoặc bán các chứng khoán lấy tiền mặt thoả thuận thực hiện một giao dịch
ngược lại vào một thời điểm sau đó. Nghiệp vụ này giúp tăng tính năng động
của thị trường và giúp cho thị trường phát triển thuận lợi.
- Khuôn mẫu giám sát và điều tiết cần được củng cố. Các nước cần xây

dựng những hành lang an toàn dưới hình thức các tiêu chuẩn về vốn tối thiểu
lập quỹ phòng ngõa rủ ro, các yếu tố về cần cố vốn, bảo lãnh, thế chấp và các
cơ chế khác nhằm khuyến khích các hành vi thận trọng trong kinh doanh tiền
tệ. Các báo cáo tài chính phải qua kiểm toán và đảm bảo tính công khai để
cho thị trường và các nhà chức trách có thể thực hiện hữu hiệu vai trò của họ
trong kỷ cương tài chính.
- Có mạng lưới thông tin hoàn chỉnh.
2. Cải cách hệ thống Ngân hàng.
2.1. Cải cách hệ thống Ngân hàng thương mại.
Hệ thống Ngân hàng thương mại cần được cơ cấu lại nhằm xây dựng
những Ngân hàng thương mại mại mạnh và thúc đẩy quá trình cạnh tranh.
Khu vực Ngân hàng hiện nay đang đứng trước một áp lực mạnh mẽ từ sự tăng
trưởng chậm lại cải nền kinh tế và điều kiện tài chính ngày càng xấu đi của
một bộ phận lớn doanh nghiệp Nhà nước. Hiện tỷ lệ xấu (Bao gồm nợ quá
hạn khó đòi, nợ đã được khoanh, nợ chờ xử lý) của các Ngân hàng thương
25

×