Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Cơ chế cho vay lãi suất thoả thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.07 KB, 52 trang )

Lời nói đầu
Tính cấp thiết của đề tài:
Nền kinh tế Việt Nam năm 2010 đã chứng kiến rất nhiều thay đổi liên quan đến
lĩnh vực tài chính ngân hàng: về tỷ giá có 2 đợt tăng tỷ giá bình quân liên ngân
hàng với mức khá mạnh, về quy định đóng cửa sàn vàng, về quy định liên quan
đến vốn cổ phần của các ngân hàng… Nhưng nổi bật lên là việc Ngân hàng nhà
nước Việt Nam chuyển đổi từ cơ chế lãi suất cơ bản đã được duy trì trong năm
2008 và 2009 sang cơ chế cho vay lãi suất thoả thuận. Đầu tiên là cho phép cho
vay lãi suất thoả thuận đối với các khoản vay trung và dài hạn với thông tư số
07/2010/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 26/2/2010 và tiếp theo đó là vào ngày
14/4/2010 NHNNVN tiếp tục đưa ra thông tư số 12/2010/TT-NHNN cho phép
áp dụng cơ chế thoả thuận hoàn toàn với cả cho vay ngắn hạn và trung dài hạn.
Trước tháng 5/2008 NHNNVN cũng đã áp dụng cơ chế cho vay lãi suất thoả
thuận nên việc áp dụng cơ chế này sang năm 2010 đã có những chuẩn bị kỹ
lưỡng hơn, hứa hẹn thành công hơn. Cơ chế cho vay không vượt quá 150% lãi
suất cơ bản đã có tác dụng khá lớn trong năm 2008 lạm phát cao và năm 2009
suy thoái kinh tế nhưng sang năm 2010 khi mà lãi suất cơ bản được giữ ổn định
trong liền 6 tháng đầu năm trong khi lãi suất cho vay biến động tăng mạnh, sự
xuất hiện của nhiều loại phí dịch vụ khiến lãi suất cho vay vượt xa trần quy định
khiến thị trường thiếu tính minh bạch và cạnh tranh thì cơ chế cho vay lãi suất
thoả thuận là cần thiết.
Mục đích nghiên cứu:
Em là sinh viên năm thứ 3 nên em đã được học hầu hết các môn đại cương và
chuyên ngành. Em viết bài này là muốn hoàn thiện những kiến thức lý luận về tài
chính ngân hàng đã được học ở trường.
1
Bài viết của em còn nhằm nghiên cứu lý thuyết và tình hình thực tế áp dụng cơ
chế lãi suất thoả thuận ở các ngân hàng thương mại Việt Nam trong những tháng
đầu năm 2010 và đưa ra những ý kiến riêng của em về vấn đề này.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của bài viết này là việc áp dụng cơ chế cho vay lãi suất


thoả thuận ở các ngân hàng thương mại ở Việt Nam trong những tháng đầu năm
2010.
Phạm vi nghiên cứu: diễn biến lãi suất từ năm 2007 đến nay để từ đó đưa ra ưu
nhược điểm của cơ chế cho vay lãi suất thoả thuận và định hướng chính sách lãi
suất trong thời gian tới.
Phương pháp nghiên cứu:
Bài viết được nghiên cứu dựa trên phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng để
phân tích đối tượng nghiên cứu một cách khoa học và khách quan nhất.
Tình hình thực tế về cơ chế cho vay lãi suất thoả thuận được thực hiện dựa trên
phương pháp thống kê, phân tích, so sánh các số liệu và tài liệu nghiên cứu.
Kết cấu của đề tài:
Gồm 3 phần:
Phần 1: Tổng quan về lãi suất và cơ chế cho vay lãi suất thoả thuận.
Phần 2: Thực trạng chính sách lãi suất thoả thuận ở Việt Nam từ 2007 đến
nay.
phần 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện cho vay theo lãi suất thoả
thuận.
2
Chương 1.
Tổng quan về lãi suất và cơ chế cho vay lãi suất thoả
thuận
1.1 Khái quát về lãi suất:[5]
1.1.1 Khái niệm:
Định tính: Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn vay trong một
khoảng thời gian nhất định mà người sử dụng phải trả cho người sở hữu.
Định lượng: Lãi suất là tỷ lệ phần trăm của phần tăng thêm này so với
phần vốn vay ban đầu.
Do đó lãi suất có đặc điểm: có đặc trưng của một loại giá cả và biến động
rất thường xuyên do tác động của nhiều nhân tố.
1.1.2 Phân loại lãi suất theo một số tiêu chí chủ yếu:

Căn cứ vào thời hạn tín dụng: gồm 3 loại
Lãi suất ngắn hạn: < 1 năm
Lãi suất trung hạn: từ 1 – 5 năm
Lãi suất dài hạn: > 5 năm
Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất:
Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào
thời điểm nghiên cứu hay là lãi suất chưa trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất thực tế: là lãi suất đã được điều chỉnh cho đúng với những thay
đổi về lạm phát hay là lãi suất đã trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát
Do đó: i danh nghĩa > tỷ lệ lạm phát => i thực dương
i danh nghĩa = tỷ lệ lạm phát => i thực bằng 0
i danh nghĩa < tỷ lệ lạm phát => i thực âm.
3
Lãi suất thực có 2 loại:
Lãi suất thực dự tính là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay
đổi dự tính của lạm phát.
Lãi suất thực thực tế là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi
trên thực tế của lạm phát.
Căn cứ vào chủ thể tham gia quan hệ tín dụng:
Lãi suất tín dụng thương mại: áp dụng trong quan hệ mua bán chịu giữa
các doanh nghiệp.
Lãi suất tín dụng doanh nghiệp: áp dụng khi các doanh nghiệp đi vay
dưới hình thức phát hành trái phiếu hay cấp tín dụng cho người tiêu dùng.
Lãi suất tín dụng nhà nước: áp dụng khi nhà nước đi vay các chủ thể
khác nhau trong xã hội.
Lãi suất tín dụng ngân hàng: áp dụng trong các quan hệ:
Ngân hàng với ngân hàng
Ngân hàng với NHTW
Ngân hàng với khách hàng

1.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất:
• Dưới góc độ cung cầu quỹ cho vay:
Cầu quỹ cho vay: là nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc
tiêu dùng của các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế, bao gồm: doanh nghiệp –
có nhu cầu về vốn cao nhất, cá nhân hộ gia đình, khu vực chính phủ, chủ thể
nước ngoài như doanh nghiệp, chính phủ nước ngoài, các tổ chức trung gian tài
chính nước ngoài.
Sự biến động của lãi suất thị trường độc lập với nhu cầu vốn của khu vực
chính phủ nhưng lại tác động mạnh đến nhu cầu vốn của các chủ thể khác trong
nền kinh tế tức là khi lãi suất tăng thì cầu về vốn cho vay giảm và ngược lại.
4
Đường cầu quỹ cho vay kí hiệu là D có dạng dốc xuống do cầu quỹ cho vay biến
động ngược chiều với lãi suất.
Đồ thị 1.1
(nguồn: giáo trình Tiền tê – Ngân hàng của HVNH)
Cung quỹ cho vay là khối lượng vốn dùng để cho vay kiếm lời của các
chủ thể trong xã hội bao gồm:
Tiền gửi tiết kiệm của các cá nhân, hộ gia đình.
Nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời của doanh nghiệp
Các khoản thu chưa sử dụng của Ngân sách nhà nước
Nguồn vốn của chủ thể nước ngoài.
Sự biến động của lãi suất độc lập với khả năng cung ứng vốn của khu
vực chính phủ nhưng lại có tác động mạnh đến khả năng cung ứng vốn của các
chủ thể khác tức là khi lãi suất tăng thì cung về vốn tăng và ngược lại. Đường
cung quỹ cho vay kí hiệu là S có dạng dốc lên do cung quỹ cho vay biến động
cùng chiều với lãi suất.
Các nhân tố làm ảnh hưởng đến cung cầu quỹ cho vay cũng là những nhân
tố ảnh hưởng tới lãi suất:
Những nhân tố làm dịch chuyển đường cung quỹ cho vay:
5

Tài sản và thu nhập:
Khi nền kinh tế đang tăng trưởng thì tài sản và thu nhập của các chủ thể
kinh tế tăng lền làm tăng khả năng cung ứng vốn ở mọi mức lãi suất. Cung quỹ
cho vay tăng lên và đường cung quỹ cho vay dịch phải, lãi suất giảm. Trong giai
đoạn suy thoái kinh tế làm đường cung quỹ cho vay dịch trái, lãi suất tăng.
Tỷ suất lợi tức dự tính của công cụ nợ:
Trong trường hợp lãi suất thị trường có xu hướng tăng lên trong tương
lai, giá thị trường của công cụ nợ dài hạn sẽ bị giảm đi, tỷ suất lợi tức dự tính của
nó theo đó giảm. Công cụ nợ hiện tại trở nên kém hấp dẫn làm giảm nhu cầu
mua của các chủ thể kinh tế, cung quỹ cho vay giảm và đường cung quỹ cho vay
dịch trái và ngược lại.
Sự thay đổi về lạm phát dự tính cũng làm thay đổi mối tương quan giữa
tỷ suất lợi tức dự tính của tài sản thực (nhàm ô tô,…) và tỷ suất lợi tức dự tính
của công cụ nợ. Khi lạm phát dự tính tăng lam tăng tỷ suất lợi tức dự tính của tài
sản thực và giảm tỷ suất lợi tức dự tính của công cụ nợ. Lượng cầu công cụ nợ
giảm làm dương cung quỹ cho vay dịch trái và ngược lại.
Rủi ro:
Khi mức rủi ro của công cụ nợ tăng lên so với công cụ đầu tư khác sẽ
làm nhu cầu mua công cụ nợ giảm đi, làm cung quỹ cho vay giảm, làm đường
cung quỹ cho vay dịch trái và ngược lại.
Tính lỏng của các công cụ đầu tư:
Tính lỏng của các công cụ đầu tư là nói tới khả năng chuyển đổi thành
tiền mặt của công cụ đó một cách nhanh chóng và ít tốn kém. Nếu tính lỏng của
công cụ nợ cao hơn tính lỏng của các công cụ đầu tư khác sẽ làm tăng tính hấp
dẫn của công cụ nợ, làm cầu công cụ nợ tăng lên ở mọi mức lãi suất và đường
cung quỹ cho vay dịch phải và ngược lại.
Những nhân tố làm dịch chuyển đường cầu quỹ cho vay:
Lợi tức dự tính của các cơ hội đầu tư:
6
Trong giai đoạn nền kinh tế tăng trưởng có nhiều cơ hội đầu tư được

trông mong là sinh lợi và làm tăng nhu cầu vay vốn để tài trợ cho các dự án đầu
tư của doanh nghiệp. Lượng cầu quỹ cho vay tăng lên ở mọi mức lãi suất và
đường cầu quỹ cho vay dịch phải làm lãi suất tăng. Trong giai đoạn nền kinh tế
suy thoái thì ngược lại, D dịch trái làm lãi suất giảm.
Lạm phát dự tính:
Sự tăng lên của mức lạm phát dự tính làm cho chi phí thực dự tính của
việc vay tiền ở mọi mức lãi suất giảm xuống, người vay vốn được lợi làm tăng
nhu cầu vay vốn. Lượng cầu quỹ cho vay tăng lên ở mọi mức lãi suất và đường
cầu quỹ cho vay dịch phải. Sự giảm xuống của lạm phát dự tính có tác động
ngược lại làm đường cầu quỹ cho vay dịch trái.
Tình trạng thâm hụt Ngân sách nhà nước:
Khi mức bội chi ngân sách nhà nước tăng, nhu cầu vay vốn tài trợ thiếu
hụt ngân sách nhà nước tăng ở mọi mức lãi suất làm tăng lượng cầu quỹ cho vay,
đường cầu quỹ cho vay dịch phải và ngược lại.
• Dưới góc độ cung cầu tiền:
Đồ thị 1.2
Cầu tiền là số lượng tiền tệ mà dân chúng, các doanh nghiệp và các tổ
chức xã hội, các cơ quan nhà nước giữ nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và bảo
7
toàn giá trị trong điều kiện giá cả và các biến số vĩ mô cho trước. Đường cầu tiền
kí hiệu là MD.
Cung tiền tệ là khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông bao gồm các tài
sản là tiền và các tài sản khác được coi là tiền nhằm đáp ứng nhu cầu giao dịch
và nhu cầu cất giữ giá trị của các chủ thể phi ngân hàng. Đường cung tiền kí hiệu
là MS.
Các nhân tố ảnh hưởng đến cung cầu tiền:
Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu tiền:
Thu nhập thực tế:
Loại trừ ảnh hưởng của yếu tố biến động giá ra khỏi thu nhập danh nghĩa
ta có thu nhập thực tế. Khi nền kinh tế đang tăng trưởng, thu nhập thực tế tăng

lên, các chủ thể kinh tế muốn giữ thêm tiền làm nơi dự trữ giá trị đòng thời muốn
chi tiêu dùng nhiều hơn làm cầu tiền tăng. Khi nền kinh tế suy thoái thì ngược
lại.
Mức giá cả:
Người ta muốn giữ tiền chỉ vì sức mua hàng hoá hay vì khả năng trao đổi
lấy hàng hoá và dịch vụ của nó chứ không phải vì bản thân nó. Khi giá cả tăng
làm sức mua của tiền tệ giảm xuống, người ta muốn nắm giữ lượng tiền nhiều
hơn để đảm bảo vẫn mua được lượng hàng hoá dịch vụ như trước kia, làm cầu
tiền tăng, đường cầu tiền dịch phải và ngược lại.
Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu tiền:
Sự thay đổi mức cung ứng tiền do Ngân hàng Trung ương quyết định.
Khi NHTW tăng cung ứng tiền sẽ làm đường cung tiền dịch phải và ngược lại.
1.1.4 Ảnh hưởng của sự thay đổi lãi suất tới sự phát triển của nền
kinh tế:
• Kích thích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiền tiết kiệm của các
chủ thể kinh tế:
8
Tiết kiệm là phần thu ngân hàngập còn lại sau khi tiêu dùng ở hiện tại
của các chủ thể kinh tế. Với việc tạo ra thu ngân hàngập cho người tiết kiệm, lãi
suất trở thành nhân tố cơ bản điều tiết tiêu dùng và tiết kiệm. Lãi suất cao
khuyến khích người ta hy sinh tiêu dùng hiện tại, tiết kiệm nhiều hơn để có các
khoản tiêu dùng cao hơn trong tương lai và ngược lại.
• Là công cụ phân phối vốn và kích thích sử dụng vốn có hiệu quả:
Đối với ngân hàngững dự án đầu tư có mức độ rủi ro như nhau, dự án
nào có lãi suất cao hơn thường thu hút được vốn nhanh hơn, nhiều hơn. Còn đối
với ngân hàngững dự án nào chứa đựng nhiều rủi ro hơn thì phải trả lãi suất cao
hơn mới có khả năng thu hút được vốn. Bằng việc buộc phải trả lãi đã kích thích
các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả, vốn phải có tác dụng thúc đẩy sản
xuất kinh doanh, tạo thu ngân hàngập để bù đắp chi phí, có lợi nhuận, tạo cơ sở
trả lãi.

• Là công cụ đo lường sức khoẻ của nền kinh tế:
Người ta thấy rằng: Trong giai đoạn đang phát triển của nền kinh tế lãi
suất thường có xu hướng tăng do cung cầu quỹ cho vay đều tăng lên trong đó tốc
độ tăng của cầu quỹ cho vay lớn hơn tốc độ tăng của cung quỹ cho vay. Ngược
lại trong giai đoạn suy thoái của nền kinh tế lãi suất thường có xu hướng giảm
xuống. Các xu hướng biến động của lãi suất được phản ánh trên đường cong lãi
suất. Do vậy, nhìn vào đường cong lãi suất có thể thấy được xu hướng biến động
của lãi suất và tình trạng sức khoẻ của nền kinh tế.
• Là công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô và công cụ thực hiện chính sách
tiền tệ quốc gia:
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cũng như nền kinh tế tài chính
chưa phát triển, lãi suất là công cụ trực tiếp tác động đến mục tiêu trung gian và
qua đó tới mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ. NHTW sử dụng loại công
cụ này dưới hình thức ấn định trực tiếp lãi suất kinh doanh cho các ngân hàng
hoặc khung lãi suất tiền gửi – lãi suất cho vay hoặc trần lãi suất cho vay.
9
Trong điều kiện thị trường tài chính phát triển, NHTW sử dụng công cụ
lãi suất gián tiếp như lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay cầm cố… để tác
động gián tiếp tới lãi suất thị trường. Lãi suất thị trường thay đổi sẽ tác động tới
các biến số vĩ mô.
Tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế:
đồ thị 1.3
Ta thấy như trên đồ thị khi cung tiền giảm (MS dịch trái từ MS0 sang
MS1) làm lãi suất tăng từ i0 lên i1 -> hạn chế đầu tư (I giảm từ I0 xuống I1) mà
AD= C+I+G+EX-IM nên làm tổng cầu giảm (AD dịch trái từ AD0 sang AD1) ->
sản lượng giảm từ Y0 xuống Y1, giá cả giảm, thất nghiệp tăng…
Khi cung tiền tăng thì có tác động ngược lại làm sản lượng tăng, giá cả
tăng, thất nghiệp giảm…
1.2 Lãi suất tín dụng ngân hàng: [5]
Áp dụng trong quan hệ giữa ngân hàng với công chúng và doanh nghiệp

trong việc thu hút tiền gửi và cho vay, trong hoạt động tái cấp vốn của NHTW
10
cho các ngân hàng và trong quan hệ giữa các ngân hàng với nhau trên thị trường
liên ngân hàng.
1.2.1 Lãi suất liên ngân hàng:
Lãi suất Liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho
nhau vay trên thị trường liên ngân hàng nhằm bù đắp thiếu hụt vốn khả dụng.
1.2.2 Lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn:
Lãi suất cơ bản: là lãi suất được các NHTG sử dụng làm cơ sở để ấn định
mức lãi suất kinh doanh của mình.
Tại Việt Nam: LSCB được NHTW xác định và công bố hàng tháng
Cặp lãi suất chỉ đạo: lãi suất tái chiết khấu và lãi suất cầm cố thế chấp
hay lãi suất tái cấp vốn
Lãi suất tái chiết khấu áp dụng khi NHTW tái cấp vốn cho các ngân hàng
dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc GTCG ngắn hạn chưa đến hạn
thanh toán của các ngân hàng.
Lãi suất cầm cố thế chấp hay lãi suất tái cấp vốn áp dụng khi NHTW tái
cấp vốn cho các ngân hàng dưới hình thức cầm cố, thế chấp các GTCG chưa
đến hạn thanh toán của ngân hàng.
Cặp lãi suất kiểm soát thường xuyên: bao gồm lãi suất tiền gửi tại
NHTW và lãi suất cho vay qua đêm của NHTW với vai trò ngăn không cho lãi
suất liên ngân hàng biến động vượt quá giới hạn của cặp lãi suất này.
đồ thị 1.4
1.2.3 Lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay
11
1.2.3.1 Lãi suất tiền gửi:
Áp dụng cho các khoản tiền khách hàng gửi vào ngân hàng.
Đa dạng phụ thuộc vào thời hạn, quy mô, đối tượng gửi tiền, loại tiền
gửi, tính chất của NHTG.
Chính sách LSTG là một công cụ để kiềm chế lạm phát.

NHTG áp dụng chính sách lãi suất phù hợp và chiến lược Marketing phù
hợp để thu hút tiền gửi.
 Lãi suất huy động phụ thuộc một số nhân tố chủ yếu sau:
Chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn ngoài tiền gửi ở ngân hàng do với
cùng một số tiền thì nhà đầu tư có thể sử dụng vào các mục đích khác nhau.
Lạm phát: đảm bảo lãi suất thực dương
Nhu cầu vốn của ngân hàng, các kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng.
Tính cạnh tranh giữa các ngân hàng
Chính sách của nhà nước, NHTW…
 Các nguồn vốn huy động và vốn đi vay của ngân hàng:
Vốn huy động bao gồm:
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc
nào, mục đích gửi tiền là để đảm bảo an toàn và thuận tiện trong thanh toán.
Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi khách hàng rút sau một khoảng thời
gian nhất định, mục đích đầu tư hưởng lãi.
Tiền gửi tiết kiệm: là tiền để dành của dân cư gửi vào ngân hàng với mục
đích hưởng lãi.
Vốn đi vay:
Phát hành GTCG: ngân hàng chủ động phát hành giấy nhận nợ để huy
động cho những mục đích đã xác định.
Vay NHTW: ngân hàng vay để bổ sung nhu cầu vốn khả dụng gồm chiết
khấu GTCG, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố GTCG
Vay các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác
12
Vay nước ngoài
Vay khác.
1.2.3.2 Lãi suất cho vay:
LSCV = LSHĐ + CHI PHÍ + MỨC BÙ RỦI RO + LỢI NHUẬN DỰ KIẾN
 Lãi suất chiết khấu: lãi suất áp dụng khi NHTG cho khách hàng vay dưới
hình thức chiết khấu GTCG.

Tiền lãi chiết khấu = F * lãi suất chiết khấu * thời hạn còn lại
 Lãi suất cầm cố, thế chấp: lãi suất áp dụng khi NHTG cho khách hàng vay
dưới hình thức cầm cố GTCG hoặc thế chấp bằng bất động sản.
Tiền lãi = số tiền vay * lãi suất * thời hạn cho vay
 Lãi suất cho vay phụ thuộc các nhân tố sau:
Chi phí trả lãi cho người gửi tiền
Chi phí hoạt động của ngân hàng như lương nhân viên, quản lý, dịch vụ
khác…
Rủi ro dự tính của các khoản vay đó
Thời hạn, khối lượng cho vay, mức độ tín nhiệm của khách hàng (khách
hàng mới hay cũ, lịch sử tín dụng như thế nào)
Chi phí tác nghiệp: chi phí thuê, đào tạo nhân viên, kiểm tra khách
hàng…
Lợi nhuận dự tính của ngân hàng đảm bảo ngân hàng tồn tại và phát triển
tuỳ thuộc vào chính sách từng ngân hàng khác nhau.
Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW
 Các nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng gồm:
Cho vay ngắn hạn, cho vay trung dài hạn
Nghiệp vụ đầu tư
Đầu tư vào chứng khoán: trái phiếu, cổ phiếu
Góp vốn liên doanh
13
Nghiệp vụ tài sản có khác: sử dụng vốn để hình thành nên vốn hiện vật
của ngân hàng như các tài sản cố định, đất đai, văn phòng…
Dịch vụ thu phí và dịch vụ khác: dịch vụ thanh toán, kinh doanh vàng và
ngoại hối, uỷ thác và đại lý, tư vấn tài chính, dịch vụ khác như bảo quản tài
sản…
1.2.3.3 Cơ chế lãi suất thoả thuận:
Khái niệm:
Cơ chế lãi suất thoả thuận hay lãi suất thả nổi là khi ngân hàng và khách

hàng có quyền thoả thuận, thương lượng về lãi suất cho vay từ đó đưa ra được lãi
suất cho vay hợp lý đối với cả ngân hàng và khách hàng. Mức lãi suất cho vay
này được kí kết và ghi vào hợp đồng tín dụng.
Ưu nhược điểm của cơ chế thoả thuận lãi suất:
 Ưu điểm:
Lãi suất cho vay được xác định dựa trên quan hệ cung cầu vốn và mức
độ tín nhiệm với khách hàng do đó lãi suất cho vay phản ánh đúng nhu cầu về
vốn và khả năng cung ứng vốn của nền kinh tế, sức khoẻ của nền kinh tế.
Cơ chế lãi suất thoả thuận tạo cho ngân hàng sự linh hoạt, chủ động
trong kinh doanh do ngân hàng sẽ áp dụng lãi suất khác nhau cho các khách hàng
có mức độ rủi ro khác nhau. Những khách hàng nào có độ rủi ro cao thì lãi suất
cho vay áp dụng sẽ cao còn đối với khách hàng có độ rủi ro thấp, khách hàng
truyền thống thì lãi suất cho vay thấp hơn đối với khoản vay cùng loại, cùng quy
mô, cùng thời kỳ.
Cơ chế thoả thuận lãi suất tăng tính cạnh tranh giữa các ngân hàng và sự
sáng tạo trong việc kinh doanh của các ngân hàng đặc biệt là các ngân hàng nhỏ
do nó tạo sự khác biệt giữa các ngân hàng. Để thu hút được nhiều khách hàng thì
ngân hàng phải đưa ra lãi suất cho vay hợp lý, thấp từ đó sẽ tạo ra sự cạnh tranh
giữa các ngân hàng bằng các biện pháp giảm lãi suất.
14
Nếu NHTW chỉ quy định áp dụng cơ chế lãi suất do NHTW can thiệp có
thể qua trực tiếp hoặc gián tiếp thì khi các điều kiện thị trường cũng như những
biến số kinh tế vĩ mô thay đổi nhanh chóng thì NHTW chưa thể can thiệp kip
thời, có thể gây ra nhiều hậu quả không tốt.
Áp dụng cơ chế thoả thuận lãi suất giúp tăng tính minh bạch cho thị
trường. Vì khi áp dụng một cơ chế lãi suất không phản ánh đúng cung cầu thị
trường như quy định lãi suất cho vay không vượt quá 150% lãi suất cơ bản của
NHTW Việt Nam trước đây thì do một mặt lãi suất huy động cao nên lãi suất
cho vay dù có kịch trần thì cũng không đáp ứng đủ lợi nhuận dự kiến của các
ngân hàng và bù đắp chi phí, rủi ro nên các ngân hàng nảy sinh ra lãi suất cho

vay ngầm cao hơn hẳn trần lãi suất cho vay do có cộng thêm nhiều loại phí. Vì
vậy nó đã dẫn đến nhiều hiện tượng xấu như các quan hệ ngầm giữa cán bộ tín
dụng và khách hàng, rủi ro đạo đức…
Áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận là tạo cho chính thị trường tính cạnh
tranh, đưa lãi suất về mức hợp lý chứ không tạo ra lãi suất bất thường, chỗ thì rất
cao vì không quan hệ tốt và chỗ có thể vay thấp hơn nếu biết quan hệ.
Tạo cho người đi vay và người cho vay tính toán chặt chẽ, sử dụng đồng
vốn vay một cách hiệu quả vào sản xuất kinh doanh, góp phần vào tăng trưởng
nền kinh tế.
 Nhược điểm:
Cơ chế lãi suất thoả thuận cần được xây dựng trong điều kiện một nước
có nền kinh tế thị trường phát triển đầy đủ bao gồm:
Thứ nhất là không có một sự phân biệt nào giữa các thành phần kinh tế
trong việc thực hiện các nghĩa vụ cũng như các quyền lợi được pháp luật thừa
nhận.
Thứ hai là Nhà nước luôn quan tâm đầy đủ đến việc tạo ra các cơ sở
pháp lý cho việc mọi thành viên trong xã hội phát huy hết năng lực của mình đặc
biệt trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
15
Thứ ba là hoạt động của thị trường tài chính tiền tệ đặc biệt là thị trường
vốn phát triển một cách bền vững ổn định. Các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp
luôn luôn có điều kiện tiếp cận với các nguồn vốn khác nhau trên thị trường. Do
vậy cơ hội để các ngân hàng thương mại giữ vị trí độc quyền về cung ứng vốn
trên thị trường là không lớn. Đây cũng là lý do để các doanh nghiệp khi vay vốn
ngân hàng không phải chấp nhận các điều kiện mang tính sức ép từ phía các
ngân hàng.
Thứ tư là tính thống nhất trong các quy định pháp luật về các vấn đề liên
quan trong các lĩnh vực của đời sống xã hội là cao.
Thứ năm là các quy luật của kinh tế thị trường được xem trọng trong việc
điều hành và quản lý kinh tế.

Thứ bảy nhìn chung tốc độ tăng trưởng kinh tế khá ổn định, tốc độ lạm
phát thấp.
Với các điều kiện này thì không phải nước nào cũng có thể áp dụng cơ
chế thoả thuận lãi suất thành công, mà nên tuy theo điều kiện nền kinh tế để đưa
ra cơ chế lãi suất phù hợp.
1.3 Vai trò của NHTW trong việc điều tiết lãi suất:[4]
Các công cụ chủ yếu mà NHTW sử dụng gồm tỷ lệ dự trữ bắt buộc,
nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ tái cấp vốn.
1.3.1 Nghiệp vụ thị trường mở: là nghiệp vụ mua bán ngắn hạn các
GTCG.
 Cơ chế tác động:
Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng:
NHTW mua bán GTCG -> dự trữ hệ thống ngân hàng -> khả năng cho
vay -> hệ số nhân tiền – m -> MS thay đổi
Ví dụ khi NHTW mua GTCG -> dự trữ hệ thống ngân hàng tăng làm khả
năng cho vay tăng -> m tăng -> MS tăng.
Tác động qua lãi suất:
16
NHTW mua bán gtcg ->cung cầu MB (tiền trung ương) -> lãi suất liên
ngân hàng -> lãi suất thị trường -> đầu tư -> AD
Ví dụ khi mua gtcg làm cung MB tăng từ đó làm lãi suất liên ngân hàng
giảm -> lãi suất thị trường giảm -> đầu tư tăng -> AD tăng.
 Các hình thức giao gịch:
Giao dịch không hoàn lại: mua đứt bạn đoạn chuyển giao quyền sở hữu
GTCG
Điều kiện các GTCG là công cụ nợ, mức độ rủi ro thấp, chuyển nhượng
được, được phát hành bởi các tổ chức có đủ điều kiện quy định.
Giao dịch hoàn lại: mua bán ngắn hạn, có thời hạn nhất định theo hợp
đồng mua lại hoặc hợp đồng mua lại đảo ngược.
Điều kiện GTCG: là công cụ nợ hoặc chứng khoán vốn, chuyển nhượng

được hoặc không chuyển nhượng được, được phát hành bởi các tổ chức có đủ
điều kiện quy định.
1.3.2 Nghiệp vụ tái cấp vốn:
 Khái niệm:
Là hoạt động tín dụng của NHTW trong việc cung ứng tiền cho nền kinh
tế thông qua việc cho vay đối với các tổ chức tín dụng và kho bạc Nhà nước trên
nguyên tắc cho vay có hoàn trả theo quy định.
 Các hình thức:
Cho vay với tư cách là người cho vay cuối cùng nhằm điều tiết ngắn hạn
nhu cầu về khả năng thanh toán của các ngân hàng từ đó hạn chế áp lực của lãi
suất qua đêm. Bao gồm cho vay lombard và cho vay thấu chi.
nghiệp vụ chiết khấu: chiết khấu, tái chiết khấu là việc NHTW mua hoặc
mua lại các GTCG còn thời hạn thanh toán, thuộc quyền sở hữu của các ngân
hàng. Các GTCG này đã được các ngân hàng mua trên thị trường sơ cấp hoặc thị
trường thứ cấp.
17
1.3.3 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
 Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các ngân hàng thương mại buộc phải duy trì
trên một tài khoản tiền gửi tại NHTW.
 Cơ chế tác động:
Tác động về mặt lượng:
NHTW tăng tỷ lệ DTBB làm số tiền DTBB của NHTM tại NHTW tăng
-> nhu cầu vốn khả dụng của NHTM tăng do dự trữ dư thừa giảm vì đã sử dụng
để đáp ứng yêu cầu tăng lên của DTBB -> khả năng cho vay giảm -> m giảm ->
MS giảm và ngược lại.
Tác động về giá:
NHTW tăng tỷ lệ DTBB -> số tiền DTBB của NHTM tại NHTW tăng ->
chi phí của một đồng vốn vay tăng -> lãi suất cho vay tăng -> khả năng cho vay
giảm -> m giảm-> MS giảm đồng thời lãi suất cho vay tăng làm lãi suất thị
trường tăng làm đầu tư giảm và AD giảm.

NHTW giảm tỷ lệ DTBB thì ngược lại.
18
Chương 2.
Thực trạng chính sách lãi suất thoả thuận ở Việt Nam
2.1 Các văn bản pháp quy về chính sách lãi suất thoả
thuận ở Việt Nam từ 2007 đến nay
Chính sách lãi suất của NHNN Việt Nam bao gồm 3 giai đoạn cơ bản từ
năm 2007 đến nay là:
Năm 2007 và 5 tháng đầu năm 2008 cơ chế thoả thuận lãi suất vẫn được
duy trì từ lần đầu tiên cơ chế LSTT được NHNN đề cập trong Quyết định số
546/2002/QĐ-NHNN ngày 30-5-2002, trong đó ghi: “Nay thực hiện cơ chế lãi
suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của
TCTD đối với khách hàng. Tổ chức tín dụng xác định lãi suất cho vay bằng đồng
Việt Nam trên cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm đối với khách
hàng vay ”.
Năm 2008 do những điều kiện kinh tế vĩ mô thay đổi mạnh như những
biến động bất lợi và phức tạp của kinh tế thế giới: 6 tháng đầu năm giá dầu,
lương thực tăng, sự sụt giảm của thị trường chứng khoán và bất động sản, thì
trong 6 tháng cuối năm giá dầu, lương thực lại giảm mạnh, tỷ lệ thất nghiệp cao
và áp lực giảm phát, trong nước: đầu năm lạm phát mạnh, thâm hụt cán cân
thương mại, thị trường chứng khoán sụt giảm, cuối năm thì suy thoái, giảm phát
do tác động của kinh tế toàn cầu nên NHNNVN ban hành quyết định số
16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng
Đồng Việt Nam. Trong đó quy định “các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh
doanh(lãi suất huy động, lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam đối với khách
hàng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNNVN công bố để áp
19
dụng trong từng thời kỳ” và quyết định 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2008
hết hiệu lực thi hành. Quyết định này có hiệu lực thi hành từ ngày 19/5/2008.
Năm 2009 cơ chế cho vay không quá 150% lãi suất cơ bản vẫn được duy

trì. Hoàn cảnh 2009: lạm phát ở mức một con số nhưng do ảnh hưởng của suy
thoái kinh tế toàn cầu và Việt Nam. Do đó chính phủ đã thực hiện các gói kích
cầu trong đó có 2 đợt hỗ trợ lãi suất tức là lãi vay chênh lệch giữa lãi suất thực
ngân hàng được hưởng và khách hàng phải trả sẽ được Ngân hàng nhà nước trả
thay cho người đi vay cho các Ngân hàng thương mại. Đợt hỗ trợ lãi suất này đã
có tác động khá mạnh đến tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ sản xuất kinh doanh cho
các doanh nghiệp.
Năm 2010 với 6 tháng liên tiếp giữ nguyên lãi suất cơ bản chứng tỏ vai
trò của lãi suất cơ bản trong xác định trần cho vay không còn nữa thêm vào đó là
việc các ngân hàng đã vượt trần cho vay là 150% lãi suất cơ bản rất xa do cộng
thêm nhiều phí dịch vụ làm lãi suất cho vay tăng cao, giảm tính minh bạch trên
thị trường. Do đó NHNNVN đã chuyển đổi cũ sang cơ chế lãi suất thoả thuận,
bước đầu là vào ngày 26/2/2010 NHNNVN đưa ra thông tư số 07/2010/TT-
NHNN quy định vế cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thoả thuận của tổ
chức tín dụng với khách hàng áp dụng cho cho vay trung dài hạn cho sản xuất
kinh doanh và cả ngắn, trung và dài hạn đối với cho vay tiêu dùng. Tiếp sau đó
vào ngày 14/4/2010 NHNN ban hành tiếp thông tư 12/2010/TT-NHNN hướng
dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi
suất thoả thuận đối với cho vay sản xuất kinh doanh và cho vay tiêu dùng cả
ngắn, trung và dài hạn.
2.2 Tình hình thực hiện chính sách lãi suất từ 2007 đến
nay
2.2.1 Diễn biến lãi suất cho vay trước cơ chế cho vay lãi suất thoả thuận
mới theo thông tư số 7 và 10 năm 2010 của NHNNVN:
2.2.1.11 Diễn biến lãi suất cho vay và huy động năm 2007[24]
20
biểu đồ 2.1
đơn vị: %/năm
(nguồn: Annual report 2007 – State bank of VietNam)[24]
Năm 2007 lạm phát tăng khá mạnh thể hiện ở mức tăng chỉ số giá tiêu

dùng (CPI) là 12,63%, cao hơn 6,6% của năm 2006 và lạm phát bình quân cũng
tăng từ 7,45% lên 8,3%. Một số nguyên nhân chủ yếu do tác động bất lợi của
kinh tế toàn cầu như sự tăng giá mạnh của các mặt hàng thiết yếu như dầu thô,
lương thực, thép… trong khi nhập khẩu của Việt Nam chiếm tới 80% GDP, nền
kinh tế đôla hoá và có khoảng 70% hàng xuất khẩu nguyên liệu từ hàng nhập
khẩu. Trong nước thì dịch bệnh nhiều, thời tiết bất lợi, thêm vào đó Việt Nam
mở cửa thị trường tài chính tạo cơ hội cho đầu tư phát triển nhưng cũng làm tăng
khối lượng tiền trong nền kinh tế, nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh để tăng
cạnh tranh của doanh nghiệp làm cho tín dụng tăng nhưng hiệu quả đầu tư chưa
cao gây áp lực lạm phát.
Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh gấp 5 lần năm
2006 làm cho tổng phương tiện thanh toán cùng với tín dụng trong nước tăng
21
mạnh, cung ngoại tệ tăng gây sức ép tăng giá VNĐ, mặt bằng lãi suất tương đối
ổn định, giảm nhẹ trong 6 tháng đầu năm do vốn khả dụng của các NHTM dư
thừa.
Năm 2007 quyết định 546/2002/QĐ-NHNN vẫn có hiệu lực do đó ta có
thể thấy nhìn chung thì mặt bằng lãi suất cho vay và huy động khá ổn định do
giữa các tổ chức tín dụng vẫn có sự cạnh tranh lẫn nhau, dè chừng khi đưa ra lãi
suất so với các ngân hàng bạn.
Lãi suất VNĐ trong bốn tháng đầu năm 2007 có sự điều chỉnh tăng nhẹ
từ 0,06% đến 0,12%/năm đối với nhóm NHTM cổ phần là do các tổ chức tín
dụng phát hành GTCG với lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn
khoảng 0,12% - 0,6%/năm (kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi…) để đáp ứng nhu cầu
thanh toán của khách hàng trong dịp tết nguyên đán. Từ giữa tháng 5/2007 đến
tháng 11/2007 lãi suất huy động VND giảm khoảng 0,1% - 0,2%/năm do các tổ
chức tín dụng thời điểm này dư thừa vốn. Từ giữa tháng 11/2007 đến hết năm
2007 lãi suất huy động VND có biểu hiện tăng cục bộ ở một số NHTM cổ phần,
nhưng chưa có ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất chung do lãi suất của nhóm
NHTM nhà nước (chiếm thị phần 60%) vẫn duy trì ổn định.

2.2.1.2 Diễn biến lãi suất cho vay và huy động năm 2008[3]
Nền kinh tế Việt Nam trong năm 2008, không những phải đối mặt với
những diễn biến khó lường của kinh tế thế giới, mà còn phải đối mặt với nhiều
khó khăn nội tại: Lạm phát tăng mạnh (giá xăng, giá gạo leo thang cùng với
những tin đồn thất thiệt), thâm hụt cán cân thương mại cũng đạt mức kỷ lục (hơn
14% GDP), thị trường chứng khoán liên tục sụt giảm. Trước tình hình đó, để giữ
ổn định kinh tế vĩ mô, tạo nền tảng cho tăng trưởng bền vững, Chính phủ đã điều
chỉnh từ mục tiêu tăng trưởng cao sang mục tiêu kiềm chế lạm phát là ưu tiên
hàng đầu và tăng trưởng duy trì ở mức hợp lý. Tuy nhiên, những tháng cuối năm,
do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu và áp lực giảm phát, diễn biến
22
kinh tế và lạm phát của Việt Nam cũng nằm trong xu hướng chung của kinh tế
thế giới, nên các giải pháp vĩ mô cũng có sự thay đổi cho phù hợp.
biểu đồ 2.2
đơn vị: %/năm
(nguồn: IMF - Vietnam: 2008 Article IV Consultation—Staff Report)[23]
Năm 2008 có lẽ có thể được coi là năm của lãi suất khi lãi suất biến động
trái triều với một biên độ lớn chỉ trong vòng 12 tháng và việc NHNNVN có
những điều chỉnh lãi suất cơ bản và các mức lãi suất khác theo định hướng thị
trường với một biên độ nhanh nhạy khiến nhiều người bất ngờ, đặc biệt là trong
thời gian cuối năm. Việc điều hành lãi suất và chính sách tiền tệ, tuy còn nhiều
sai sót và chậm chễ nhưng nói chung đã tương đối thành công trong một năm
2008 đầy biến động. Diễn biến lãi suất năm 2008 gồm 2 giai đoạn chính: cuộc
đua tăng lãi suất của các ngân hàng vào nửa đầu năm 2008 và một cuộc đua khác
là đua giảm lãi suất kém quyết liệt hơn.
Trong những tháng đầu năm 2008, đặc biệt là trong khoảng thời gian
tháng 2/2008 đến tháng 5/2008, lãi suất huy động liên tục tăng cao trong cuộc
chạy đua về lãi suất giữa các ngân hàng do nhiều nguyên nhân cả chủ quan và
23
khách quan. NHNN đã có công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26.2.2008 quy định

LS trần huy động không quá 12%/năm (đây là giải pháp hành chính cần thiết để
đảm bảo tính an toàn hệ thống vào thời điểm đó). Đây là giai đoạn mà lãi suất cơ
bản hầu như ít biến động do lúc này thì 546/2002/QĐ-NHNN vẫn có hiệu lực
nên lãi suất đi theo hướng thị trường vào khoảng tháng 1 và 2 nhưng sang tháng
3 thì do NHNN đã sử dụng các công cụ khác của chính sách tiền tệ thắt chặt để
giảm lạm phát nên lãi suất tăng nhanh và mạnh hơn so với quy luật thị trường.
Xét nguyên nhân yếu tố thị trường: trong điều kiện lạm phát, việc tăng
lãi suất là phù hợp, nhằm đảm bảo lợi ích của các thành viên của thị trường tiền
tệ (ngân hàng, người gửi tiền, người vay tiền). Tác động của việc thực thi chính
sách tiền tệ thắt chặt: việc thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ của NHTW thông
qua công cụ dự trữ bắt buộc, phát hành tín phiếu bắt buộc và công cụ lãi suất đã
tác động trực tiếp đến thị trường tiền tệ và hoạt động kinh doanh của các NHTM,
theo hướng làm giảm quy mô nguồn vốn; giảm khả năng cho vay. Quá trình này
tác động làm tăng chi phí kinh doanh, tăng lãi suất cho vay của các NHTM và
trực tiếp đến thanh khoản của các NHTM trong thời gian này.
Yếu tố chủ quan: Lãi suất tăng nhanh và tăng cao ngoài 2 yếu tố mang
tính khách quan, còn do yếu tố chủ quan đó là quá trình khai thác và sử dụng
nguồn vốn của các NHTM chưa hợp lý. Trong đó việc tăng trưởng tín dụng quá
nóng, vượt khả năng nguồn vốn của một số NHTM cổ phần đã tạo ra áp lực về
thanh khoản rất lớn. Trong khi đó nguồn vốn bị thu hẹp (do phải tăng dự trữ bắt
buộc, mua tín phiếu NHNN bắt buộc) càng làm cho một số NHTM cổ phần khó
khăn về vốn trong thanh khoản – diễn biến này đã đẩy lãi suất huy động tăng cao
và tăng nhanh nhằm thu hút nguồn tiền gửi từ dân cư để đáp ứng nhu cầu thanh
khoản.Cùng với quá trình “hút” tiền về của NHTW, quá trình này đã tác động
hiệu ứng đến toàn hệ thống và làm xuất hiện cuộc đua lãi suất trong khoảng thời
gian cuối tháng 2 và nửa đầu tháng 3/2008.
Diễn biến phức tạp của tình hình lãi suất đã làm phát sinh nhiều loại phí
dịch vụ tín dụng như: phí thu xếp vốn, phí thẩm định, phí giải ngân…. Lãi suất
24
huy động tăng kèm theo các loại phí dịch vụ làm lãi suất cho vay liên tục tăng

mạnh. Trong quá trình này, một số TCTD còn đã thực hiện việc ký quỹ đối với
khách hàng vay tiền, đã làm phát sinh chi phí, làm tăng chi phí khoản vay. Hình
thức này đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến quan hệ khách hàng – ngân hàng, gây
khó khăn cho khách hàng vay vốn.
Trong nhiều năm khi có cơ chế thoả thuận lãi suất thì mặc dù lãi suất thị
trường có biến động nhưng lãi suất cơ bản hầu như không biến động. Từ lần điều
chỉnh lãi suất cơ bản ngày 19/5/2008 theo quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN từ
8,75% lên 12%/năm thì lãi suất cơ bản đã trả lại vai trò kim chỉ nam của thị
trường khi lãi suất cho vay không được quá 150% lãi suất cơ bản. Cơ chế cho
vay huy động vốn dựa trên trần lãi suất của NHNN cũng như lãi suất thoả thuận
của hiệp hội Ngân hàng bị huỷ bỏ. Trên cơ sở một mức tăng lạm phát kỷ lục
trong năm 2007, 2008, sự thiếu hụt vốn khả dụng của nhiều ngân hàng đặc biệt
là NHTMCP nhỏ thì cuộc chạy đua thu hút vốn giữa các ngân hàng bùng phát
mạnh nhất vào tháng 5 và tháng 6 đã đưa lãi suất huy động lên mức 14 –
18%/năm. Cuộc đua này chỉ thoái trào vào tháng 7/2008 với việc vốn khả dụng
của nhiều ngân hàng trở nên đảm bảo và nhiều biện pháp can thiệp mạnh tay
cũng như là sự linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNNVN.
Trước quyết định 16 thì việc tăng DTBB và yêu cầu mua tín phiếu bắt buộc đã
tạo ra sự căng thẳng vể thanh khoản cho hệ thống ngân hàng nhưng sự căng
thẳng này đã được giảm bớt với việc trả lại vai trò định hướng của lãi suất cơ
bản từ ngày 19/5/2008. Điều đó được thể hiện rõ qua sự biến động tuy có tăng
nhưng ít và khá ổn định của lãi suất cho vay từ tháng 6 -9/2008 là từ 21,2% –
21,8%/năm và lãi suất huy động là từ 17,3% - 18,3%/năm.
Vào giai đoạn cuối năm 2008 cụ thể là từ tháng 9, trước những diễn biến
bất lợi của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và sự giảm sút của nền kinh tế
trong nước, NHNNVN đã liên tục cắt giảm lãi suất cơ bản và chuyển khá nhanh
từ chính sách thắt chặt tiền tệ sang nới lòng tiền tệ, theo đó các ngân hàng đã
phải liên tục điều chỉnh lãi suất huy động và lãi suất cho vay và bắt đầu một cuộc
25

×