Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

NHẬN XÉT LÂM SÀNG MÁU TỤ TRONG NÃO SAU CHẤN THƯƠNG pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.93 KB, 9 trang )

NHẬN XÉT LÂM SÀNG MÁU TỤ TRONG NÃO SAU
CHẤN THƯƠNG



TÓM TẮT
Tác giả nghiên cứu các dấu hiệu lâm sàng trên 182 trường hợp máu tụ trong
não (MTTN) sau chấn thương được chẩn đoán bằng CT Scanner. Chính
những thay đổi rất khác nhau về tri giác sau chấn thương (do MTTN phần
lớn kèm theo các thương tổn khác của não) là dấu hiệu đặc trưng của
MTTN. Như vậy, sau một chấn thương nếu người bệnh có rối loạn tri giác
thì chẩn đoán bằng hình ảnh là bước không thể thiếu được.
SUMMARY
CT Scanner is the diagnosis procedure to determine the traumatic
intracerebral hematoma.Those are hematomas located in the brain tissue or
involved with the brain cortex. They are usually come along with the other
complex lesions such as: contusion, DAI acute subdural hematoma. During
the time from November, 1994 to August 1996, we received to treat 182
cases of intracerebral hematoma at Cho Ray Hospital, HoChiMinh City, that
included 15 cases of the younger than 15 year old children. Most of cases are
the traffic accidents. In the clinical features, the consciousness changing is
the brilliant sign but not specialized for intracerebral hematoma. 76,93%
patients had coma immediately after accident or consciousness level had
been going down after the following up time. The neurological deficits, as
unilateral paralysis, pupil unequal deletions, only have 6,57% cases, the
other signs (pulse, blood pressure changing, scalp injury ) only have
responsible to play as in the rescucitation or intracranial hematoma as the
rule. It isnt a specialized sign for intracerebral hematoma. To evaluate how
is coma level, we have been using Glasgow scale score: GCS = 14 - 15
(23,07%); GCS = 9 - 13 (41,20%); GCS = 3 - 8 (35,71%) We can tell that
the consciousness changing after trauma is the main sign to indicate for


doing CT Scanner and CT Scanner is a very important diagnosis procedure
for discovering the lesions of serious head injury in which it include
intracerebral
MỞ ÐẦU
Nhờ sử dụng CT Scanner trong chẩn đoán chấn thương sọ não (CTSN) mà
máu tụ trong não (MTTN) được phát hiện ngày càng tăng lên
(5,7)
.
Dựa vào 182 trường hợp MTTN đã được chẩn đoán bằng CT Scanner chúng
tôi tìm hiểu đặc điểm lâm sàng của các trường hợp này, để qua đó có thể rút
ra những dấu hiệu được xem như đặc trưng nhằm giúp cho những đồng
nghiệp ở tuyến trước có hướng chẩn đoán và xử lý thích hợp trước một
trường hợp MTTN nói riêng và có thể CTSN nói chung.
TƯ LIỆU - PHƯƠNG PHÁP
Trong thời gian từ tháng 11/1994 đến tháng 8/1996, có 182 trường hợp được
chẩn đoán là MTTN sau CTSN tại khoa Phẫu thuật Thần kinh Bệnh viện
Chợ Rẫy.
Dựa vào một bệnh án thống nhất, chúng tôi khai thác các yếu tố lâm sàng,
hình ảnh, và xử lý các số liệu thu được bằng chương trình Epi 6.0.
(Các bệnh nhân bị đa chấn thương không nằm trong đối tượng nghiên cứu).
KẾT QUẢ
Bảng 1: Nguyên nhân

Số lư
ợng
bệnh nhân
T
ỷ lệ
%
Tai n

ạn giao
thông (TNGT)
162 89,01
Tai n
ạn lao
động (TNLÐ)
2 1,09
Ðã th
ương
(ÐT)
3 1,64
Tai n
ạn sinh
hoạt (TNSH)
11 6,04
Nguyên nhân
khác
4 2,19
Tổng số 182 100%
Bảng 2: Rối loạn tri giác sau chấn thương.

Số lư
ợng
bệnh nhân
Tỷ lệ %

Mê ngay sau
tai nạn
81 44,51
Có kho

ảng
tĩnh
59 32,42
Không r
ối
loạn tri giác
42 23,07
Tổng số
182 100%
Bảng 3: Ðiểm hôn mê Glasgow (GCS = Glasgow coma score).

Số lư
ợng
bệnh nhân
T
ỷ lệ %
GSC = 14 - 15

42 23,07
GCS = 9 - 13 75 41,20
GCS = 3 - 8 65 35,71
Tổng số 182 100%
Bảng 4: Dấu hiệu thần kinh khu trú.

Số lư
ợng
bệnh nhân
T
ỷ lệ
%

Không đáp
ứng
nữa người (1)
46 25,27

Ð
ồng tử không
đều (2)
37 20,33

(1) + (2) 12 6,59
Bảng 5: Kích thước đồng tử.

Số lư
ợng
bệnh nhân
T
ỷ lệ
%
Ðư
ờng kính <
2mm
36 19,78

Ðư
ờng kính >
4mm
8 4,4
Không đều 37 20,33


BÀN LUẬN
Chúng tôi quan niệm MTTN là khi khối máu tụ nằm trong nhu mô não
nhưng có thể:
 Nằm trọn trong nhu mô.
 Hoặc có một phần nằm ở vỏ não.
Quan niệm này được chia xẻ bởi Weisberg. L và cs
(9)
.
Với định nghĩa như trên, tỷ lệ MTTN của chúng tôi cao hơn hẳn các tác giả
khác quan niệm MTTN là khi nó nằm trong nhu mô, không có phần nào liên
quan với vỏ não
(5,6)
.
Sở dĩ chúng tôi khảo sát MTTN theo hình thái này vì đây là thương tổng khá
phổ biến gặp sau chấn thương (do tai nạn giao thông hoặc do ngã). MTTN
được hình thành từ các ổ dập não chảy máu ở trán hay thái dương sau một
chấn thương dội (contre-coup injury)
(4,5,6,7)
.
Những biến đổi về tri giác sau chấn thương được ghi nhận qua các giai đoạn
khác nhau. Trước hết là chấn động não đã được Paré.A mô tả từ thế kỷ 16 và
Gennarelli định nghĩa: "bất tỉnh ngay sau chấn thương với sự hồi phục lại
bình thường tri giác trong vòng 24 giờ"
(2)
.
Tất cả bệnh nhân của chúng tôi đều trải qua giai đoạn này. Sau đó, có thể
bệnh nhân vào viện trong tình trạng tỉnh táo (Glasgow 14, 15 điểm), chỉ có
các triệu chứng như đau đầu, ói mửa và được chẩn đoán trên CT Scanner là
có MTTN: chúng tôi có 42 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 23,08%.
Tình huống thứ hai của diễn tiến tri giác: bệnh nhân mê kéo dài ngày sau

chấn thương (chiếm 44,5%). Trước đây khi chưa sử dụng CT Scanner người
ta thường cho đó là biểu hiện đặc trưng của giập não
(6)
. Qua khảo sát CT
Scanner, chúng tôi thấy có 82,41% giập não kèm MTTN và 19,23% MTTN
kèm thương tổn sợi trục lan tỏa (TTSTLT). TTSTLT bản thân nó là nguyên
nhân gây hôn mê ngay sau chấn thương. Do đó, hôn mê tức thì là biểu hiện
của nhiều thương tổn nguyên phát.

×