Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tiểu luận: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Trung Quốc doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.51 KB, 34 trang )


Tiểu luận
Thực trạng đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại
Trung Quốc
MỤC LỤC
1.Khái quát về nền kinh tế Trung Quốc
2. Thực trạng đầu tư nước ngoài của Trung Quốc.
2.1. Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc.
2.2. Thực trạng thu hút đầu tư của Trung Quốc
2.3. Các chính sách đầu tư nước ngoài của TQ
3. Tình hình đầu tư nước ngoài tại VN và bài học kinh nghiệm từ TQ
3.1.Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam rút ra từ thực trạng đầu tư nước
ngoài tại Trung Quốc
1. Khái quát về nền kinh tế Trung Quốc
Đất nước Trung Quốc nổi tiếng là
một trong những cái nôi văn minh
nhân loại sớm nhất với lịch sử tồn tại
trên 3.500 năm. Với lịch sử hàng
nghìn năm phát triển, Trung Quốc
luôn biết mở cửa tiếp nhận tinh hoa
thế giới, thâu hoá tri thức, tạo dựng
nên gia tài văn hoá đầy trí tuệ mà luôn
giữ được sắc thái riêng biệt của mình
Năm 1978, Trung Quốc tiến hành công cuộc cải cách mở cửa và thực hiện một
cuộc thay đổi vĩ đại trong lịch sử của, và đã đạt được những thành tựu đáng khâm
phục. Gần 30 năm thực hiện cải cách mở cửa, Trung Quốc đã thu được những thành
tựu to lớn, trở thành cường quốc với nền kinh tế đứng thứ hai thế giới. Từ năm 1979
đến 2005, GDP bình quân hàng năm của Trung Quốc tăng trên 9,4%, đạt mức cao nhất
thế giới. Tính riêng năm 2005, năm cuối cùng thực hiện "Kế hoạch 5 năm lần thứ 10",


GDP của Trung Quốc tăng trưởng 9,9%, đạt khoảng 2200 tỷ USD (gấp 50 lần so với
năm 1978), xếp thứ 4 thế giới; thu nhập bình quân của cư dân ở thành thị đạt khoảng
1295 USD, ở nông thôn đạt khoảng 403 USD. Về kinh tế đối ngoại, Trung Quốc kết
thúc thời gian quá độ sau khi gia nhập WTO; tổng kim ngạch thương mại đạt 1422 tỷ
USD, tăng 23,2%, xếp thứ 3 thế giới (gấp 60 lần so với năm 1978); dự trữ ngoại tệ đạt
941 tỷ USD, đứng đầu thế giới. Kể từ năm 2003, Trung Quốc đã vượt Mỹ trở thành
nước thu hút đầu tư nước ngoài FDI lớn nhất thế giới; năm 2005 FDI thực tế đạt 60,3
tỷ USD, đưa tổng số vốn đầu tư thực tế vượt 620 tỷ USD.
Tên
nước
Nước Cộng hoà Nhân dân Trung
Hoa
Thủ đô Bắc Kinh
Diện
tích
1,39 tỷ người (tính đến 2010)
Dân tộc 56 dân tộc (dân tộc Hán là chủ
yếu)
Tôn
giáo
Phật giáo, Đạo giáo, Đạo Hồi,
Thiên chúa giáo
Ngôn
ngữ
Tiếng Hán là tiếng phổ thông
Hành
chính
31 tỉnh, trong đó thành phố gồm
22 tỉnh, 5 khu tự trị, 4 thành phố
trực thuộc TƯ

Về đầu tư nước ngoài, năm 1989, chính quyền đã ban hành các đạo luật và nghị
định về khuyến khích nước ngoài đầu tư vào các vùng và các lĩnh vực ưu tiên cao.
Một ví dụ điển hình của chính sách này là Danh mục ngành khuyến khích, quy định
mức độ nước ngoài có thể được phép tham gia trong nhiều lĩnh vực công nghiệp khác
nhau. Mở cửa cho bên ngoài vẫn là trọng tâm của quá trình phát triển của Trung Quốc.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất khoảng 45% hàng xuất khẩu
Trung Quốc (dù đa số đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc đến từ Hồng Kông, Đài Loan
và Ma Cao, hai trong số này thuộc quyền quản lý của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa),
và Trung Hoa Đại lục tiếp tục thu hút dòng đầu tư to lớn. Năm 2005, dự trữ ngoại tệ
vượt mức 800 tỷ USD, hơn gấp đôi mức năm 2003 và trong tháng 11 năm 2006,
Trung Hoa đại lục trở thành nước có dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới, vượt mức
1.000 tỷ USD.
Về đối ngoại, Trung Quốc khẳng định sẽ tiếp tục đi theo con đường phát triển hòa
bình, kiên trì mở cửa đối ngoại, sẵn sàng hợp tác cùng có lợi với các nước trên thế
giới, trong đó Trung Quốc hết sức coi trọng phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị với
các nước láng giềng theo phương châm "mục lân, an lân, phú lân" (thân thiện với láng
giềng, ổn định với láng giềng và cùng làm giàu với láng giềng). Hầu hết các quốc gia
và khu vực đều có nhu cầu thiết lập và mở rộng hợp tác với Trung Quốc trên mọi lĩnh
vực. Tính đến nay, Trung Quốc đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 38 quốc gia Đông
á, Đông Nam á, Nam á và Tây á. Các mối quan hệ này ngày càng được gia tăng lòng
tin về chính trị và hợp tác toàn diện, chặt chẽ về kinh tế.
Với tiềm năng kinh tế của mình, Trung Quốc ngày càng đẩy nhanh tốc độ và mở
rộng không gian hợp tác kinh tế thương mại với các quốc gia châu á, đặc biệt là đẩy
mạnh đầu tư quốc tế. Nhiều ý kiến cho rằng, Trung Quốc sẽ còn vươn lên mạnh mẽ
hơn nhiều trong thế kỷ XXI, trở thành đối thủ cạnh tranh nặng ký trên trường quốc tế -
cả về kinh tế lẫn vai trò chính trị. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng đang và sẽ phải đối
mặt với nhiều thách thức gay gắt trước những khó khăn trong nước cũng như trong
quan hệ với các nước, nhất là các nước liên quan trực tiếp đến quyền lợi của Trung
Quốc. Cả thành công, cơ hội và khó khăn, thách thức đều đặt Trung Quốc trước một
nhiệm vụ và trách nhiệm nặng nề để thể hiện vị thế nước lớn của mình.

2. Thực trạng đầu tư nước ngoài của Trung Quốc.
2.1. Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc.
2.1.1.Tình hình đầu tư nước ngoài của Trung Quốc trong
những năm gần đây.
Chiến lược đầu tư ra nước ngoài của các tập đoàn Trung Quốc song hành với
chiến lược tìm kiếm nguyên vật liệu nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước có thể
giúp kinh tế toàn cầu bước vào một chu kỳ tăng trưởng mới.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) của các công ty Trung Quốc
đã tăng từ 5,5 tỷ USD trong năm
2004 lên 48 tỷ USD năm 2009. Phó
chủ nhiệm Ủy ban Phát triển và
Cải cách Trung Quốc Trương Hiểu
Cường cho biết từ tháng 1 đến
tháng 9/2010 Trung Quốc đã đầu
tư 36,3 tỉ USD vào 2.246 xí nghiệp
ở 118 nước, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước. Tổng đầu tư nước ngoài của Trung
Quốc hiện đã lên tới 1.000 tỉ USD, trong đó FDI chiếm 245,8 tỉ USD, đứng thứ 15 thế
giới và thứ 3 trong các nước đang phát triển. Và kết quả là FDI ra nước ngoài của
Trung Quốc đạt 59 tỷ USD vào năm 2010. Các quan chức Trung Quốc dự đoán con số
này có thể đạt 100 tỷ USD vào năm 2013.
Khu vực đầu tư chủ yếu của Trung Quốc là châu Á và tiếp đó là châu Phi. Hiện
có hơn 2.000 doanh nghiệp Trung Quốc làm ăn ở Châu Phi với tổng đầu tư 32,2 tỉ
USD. Các nước và vùng lãnh thổ có kim ngạch FDI lớn của Trung Quốc là Hong
Hong, Mỹ, Nga, Nhật Bản, Các Tiểu vương quốc Arập thống nhất (UAE), Việt Nam,
Australia và Đức Xuất khẩu tư bản ra nước ngoài cũng kéo theo đông đảo dòng lao
động Trung Quốc ra nước ngoài. Số liệu chính thức cho biết tổng số nhân viên công ty
và lao động Trung Quốc ở nước ngoài vào khoảng 4 triệu người. Các lĩnh vực mà
doanh nghiệp Trung Quốc tập trung vào là năng lượng, khai khoáng và nông nghiệp.
Đây là số đầu tư trực tiếp phi tài chính, không bao gồm đầu tư của các ngân hàng,

công ty bảo hiểm và chứng khoán.
Bảng 1.1: Khái quát FDI ra nước ngoài của Trung Quốc những năm gần
đây:
2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
5,5 tỷ 12,3 tỷ 21,16
tỷ
22,5 tỷ 52.15
tỷ
48 tỷ 59 tỷ
Nguồn (UNITED NATIONS CONFERENCE ON TRADE AND DEVELOPMENT)

2.1.2. Chiến lược đầu tư FDI của Trung Quốc hiện nay.
Để thu được lợi nhuận tối đa từ các khoản đầu tư ra nước ngoài thì các doanh
nghiệp Trung Quốc đang được chính phủ hỗ trợ bằng các chính sách để sử dụng vốn
một các có hiệu quả.
Với sự hậu thuẫn của chính phủ, các doanh nghiệp Trung Quốc hiện đang ráo
riết “thôn tính” các doanh nghiệp nước ngoài để thực hiện giấc mộng trở thành “trùm
sò FDI” của thế giới. Giấc mộng này ấp ủ ngay từ khi Trung Quốc tiến hành cải cách
mở cửa hồi đầu những năm 1980, với “Chiến lược con lăn” hay còn gọi là “Chiến lược
tuần hoàn”. Trước tiên là “hút” nhiều FDI về nước để hiện đại hóa, tiếp đó ra sức xuất
khẩu hàng hóa, tích lũy tư bản, rồi chuyển sang xuất khẩu tư bản ra thế giới, tức “tiến
ra ngoài”. Cứ “lăn đi lăn lại” như vậy cho tới khi Trung Quốc thực hiện được giấc
mộng thâu tóm các doanh nghiệp lớn của thế giới.
Để thực hiện chiến lược này, trong hơn 30 năm qua kể từ năm 1980 đến tới cuối
năm 2006, Trung Quốc đã “hút” FDI tới 685,4 tỉ USD với trên 590.000 hạng mục
công trình, đứng đầu bảng các nước đang phát triển và đứng thứ 5 thế giới. Cùng với
“hút” FDI, Trung Quốc đẩy mạnh phát triển ngoại thương chiếm lĩnh thị trường. Số
liệu thống kê của Trung Quốc cho biết kim ngạch ngoại thương Trung Quốc đã tăng từ
509,7 tỉ USD (năm 2001) lên 2.100 tỉ USD (năm 2007). Năm 2010, Trung Quốc đã trở
thành nước có GDP thứ hai thế giới sau Mỹ và vượt Đức trở thành nước xuất khẩu lớn

thứ nhất thế giới. Từ đó, Trung Quốc đã tích lũy được lượng tư bản to lớn, với 2.648,3
tỉ USD dự trữ ngoại tệ (tính tới 10/2010).
Đây chính là điều kiện để Trung Quốc có thể trở thành “trùm sò FDI” của thế
giới, tranh giành bá quyền với Mỹ. Đây cũng là nguyên nhân khiến cho xung đột kinh
tế và thương mại giữa Trung Quốc với Mỹ và các nước Phương Tây đã trở nên gay gắt
thời gian qua và tiếp tục nghiêm trọng hơn trong thời gian tới.
Có hai yếu tố giúp thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc.
Thứ nhất là Trung Quốc đã tạo ra một thế hệ công ty đủ sức cạnh tranh quốc tế, có thể
cung cấp cho các nước đang phát triển những đoàn tàu tốc hành, trạm điện, máy móc
khai mỏ và thiết bị viễn thông đủ chất lượng với giá cả thường thấp hơn nhiều so với
các nhà cung cấp khác. Yếu tố thứ hai là sự hỗ trợ của một hệ thống ngân hàng được
chính phủ huy động để hậu thuẫn cho các doanh nghiệp nói trên. Chiến lược của chính
phủ Trung Quốc là tạo thật nhiều chân rết trên khắp thế giới, nơi nào cũng phải có sự
hiện diện của Trung Quốc, từ đó dùng tiền của mình để tạo ra sức mạnh và ảnh hưởng
của mình trên toàn thế giới.
Quan chức cấp cao Yi Huiman của Ngân hàng Công thương Trung Quốc đã tiết
lộ trong một cuộc hội thảo gần đây rằng ngân hàng của ông đang làm việc với chính
phủ để cung cấp “đường sắt đi kèm tài trợ” trên toàn thế giới. Vale, công ty khai mỏ
của Braxin tuần qua thông báo đã ký với hai ngân hàng Trung Quốc một thỏa thuận
cung cấp tín dụng 1,23 tỷ USD để mua 12 tàu thủy chở hàng cỡ lớn của Trung Quốc
để dùng làm phương tiện chuyên chở quặng sắt giữa hai nước.
Các ngân hàng Trung Quốc cũng đã cho công ty dầu mỏ Petrobras của Braxin
vay 10 tỷ USD và cho công ty khai khoáng quặng sắt Vale vay 1,23 tỷ USD. Năm
ngoái, Trung Quốc đã vượt Mỹ trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Braxin. Mối
quan hệ kinh tế ngày càng chặt chẽ giữa hai cường quốc kinh tế đang phát triển này
trong thập kỷ qua đã trở thành một biểu tượng của sự dịch chuyển kinh tế toàn cầu.
Rất có thể cặp đôi này cũng sẽ mở đường cho một trong những sự điều chỉnh lớn nhất
của nền kinh tế thế giới trong thập kỷ tới. Trung Quốc sẽ trở thành nhà đầu tư trực tiếp
nước ngoài lớn nhất ở Braxin năm nay sau khi ký một loạt thỏa thuận trong các lĩnh
vực khai mỏ, luyện thép, thiết bị xây dựng và phân phối điện.

Các dự án đầu tư nói trên là một phần của một xu hướng âm thầm nhưng vô
cùng quan trọng. Vượt Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, Trung
Quốc đang trở thành điểm tựa cho một chu kỳ mới tăng trưởng kinh tế bền vững giữa
châu Á và phần còn lại của thế giới đang phát triển.
Nếu đầu tư vào Braxin là một biểu tượng của thời kỳ mới trong đó kinh tế
Trung Quốc thâm nhập sâu hơn vào các nước đang phát triển, thì một biểu tượng nữa
đó là một loạt mạng lưới đường sắt do Trung Quốc xây dựng đang lan tỏa ra toàn cầu.
Các công ty chế tạo đường sắt Trung Quốc hiện nằm trong số những công ty làm ăn
hiệu quả nhất và trong nhiều năm qua đã hoạt động ở một số nước láng giềng Trung
và Đông Nam Á. Trong năm qua, các công ty này cũng đã ký được nhiều hợp đồng ở
những nơi khác như Ucraina, Thổ Nhĩ Kỳ và Áchentina. Các công ty đường sắt Trung
Quốc không chỉ đơn thuần lắp đặt đường ray mà còn hy vọng ký kết được nhiều hợp
đồng bán thiết bị đường sắt cao tốc cho nước ngoài, trong đó có đầu máy và hệ thống
điều khiển đường sắt. Khách hàng đầu tiên có thể là tuyến đường sắt cao tốc sắp được
xây dựng nối liền Sao Paulo với Rio de Janeiro.
Nếu đầu tư của Trung Quốc thực sự giúp tạo ra một chu kỳ tăng trưởng mới ở
các nước đang phát triển, nó sẽ là một liều thuốc bổ cho nền kinh tế toàn cầu, giữa lúc
nhiều nền kinh tế hàng đầu vẫn rất u ám, thậm chí đối mặt với nguy cơ suy thoái kép.
Sự kết hợp giữa nhu cầu nhập khẩu và đầu tư tăng mạnh của Trung Quốc là một lý do
giúp kinh tế Braxin đạt được mức tăng trưởng 8,9% trong nửa đầu năm 2010.
Tuy nhiên, đối với các nền kinh tế phương Tây, sự hiện diện của Trung Quốc
mang lại nhiều rủi ro. Chiến lược đầu tư của Bắc Kinh xem ra có thể mở đầu một thời
kỳ cạnh tranh gay gắt giữa các tập đoàn đa quốc gia của các nước phát triển và các
công ty quốc doanh Trung Quốc. Sự hỗ trợ tài chính mạnh mẽ từ phía chính phủ cũng
là lý do khiến các công ty Trung Quốc bị cáo buộc cạnh tranh không bình đẳng.
Không có gì ngạc nhiên, khi một số tập đoàn đa quốc gia như GE và Siemens trong
thời gian gần đây lên tiếng chỉ trích các chính sách công nghiệp của Bắc Kinh. Đây
chính là những tập đoàn hoạt động trong các lĩnh vực mà Trung Quốc đang ngày càng
có sức cạnh tranh như thiết bị điện và đường sắt.
Sức mạnh nổi lên của Trung Quốc cũng đặt ra vấn đề về tương lai của đồng

USD. Các quan chức Trung Quốc đã nói về mục tiêu dài hạn loại bỏ vai trò dự trữ
quốc tế của đồng USD bằng một giỏ tiền tệ khác, trong đó có thể bao gồm đồng nhân
dân tệ. Do thương mại với các nước đang phát triển phát triển mạnh, Bắc Kinh bắt đầu
có các bước đi quan trọng nhằm mở rộng phạm vi sử dụng đồng nhân nhân tệ, bao
gồm cho phép các quỹ đầu tư nước ngoài sử dụng đồng tiền này đầu tư vào thị trường
trái phiếu trong nước. Một số nhà kinh tế cho rằng đồng nhân dân tệ có thể sẽ trở
thành đồng tiền giao dịch trong các hợp đồng buôn bán ở châu Á trong thập kỷ tới.
Nhìn ở khía cạnh nào thì cũng thấy là nền kinh tế Trung Quốc đang tăng trưởng
rất ấn tượng và số tiền dự trữ của các doanh nhân Trung Quốc cũng không nhỏ hơn
Quỹ Dự Trữ Ngoại Hối (FX Reserve) của Chính phủ là bao nhiêu. Điều này gây ra
một hiện tượng mới bắt đầu từ 10 năm qua là Trung Quốc hiện đang tài trợ cho rất
nhiều hoạt động kinh tế của thế giới, đã phát triển và đang phát triển. Trong khi Chính
phủ Trung Quốc dùng tiền dự trữ để mua trái phiếu và các khoáng sản cho nhu cầu sản
xuất nội địa; thì doanh nghiệp tư nhân có khuynh hướng mở rộng hoạt động xuất khẩu
của mình bằng cách mua lại các công ty Âu Mỹ có giá trị gia tăng cho hệ thống phân
phối (logistics) của ngành nghề mình. Một ưa thích khác của doanh nghiệp tư nhân
Trung Quốc là việc mua lại thương hiệu (Geely mua Volvo, Levono mua IBM PC…)
và đầu tư vào các liên doanh để mua công nghệ cao (không thành công lắm vì Âu Mỹ
vẫn bảo vệ kỹ những lợi thế cạnh tranh của họ).
Nhìn vào số tiền họ đã đầu tư như một bản đồ cho tương lai, ta có thể nhận rõ
những cá tính của đầu tư Trung Quốc. Điều này rất quan trọng cho những doanh nhân
muốn tiếp cận nguồn vốn này và cho những người làm chính sách kinh tế muốn tránh
những ảo tưởng về ý đồ của Trung Quốc. Theo luật lệ Trung Quốc, mỗi đầu tư ra nước
ngoài của doanh nghiệp hay công dân Trung Quốc trên 200.000 USD đều phải được
sự chấp thuận của Cục Đầu Tư Nước Ngoài nói trên. Dĩ nhiên con số đầu tư “chui”
của các tư nhân và số tiền chuyển ra nước ngoài để che dấu tài sản cũng là một con số
khổng lồ, nhưng không ai biết chính xác để rút kết luận. Điều chắc chắn là mọi hoạt
động đầu tư của doanh nghiệp Trung Quốc ở nước ngoài chịu sự kiểm soát và điều
hành chặt chẽ bởi chính phủ Trung Ương và nằm trong kế hoạch về kinh tế vĩ mô của
chính phủ. Xin ghi nhớ ở đây là Cục Đầu Tư Nước Ngoài nằm dưới sự điều khiển trực

tiếp của Bộ Kế Hoạch Quốc Gia.
Theo những tuyên bố của ông Fan Chung Yong - Cục Trưởng Cục Đầu Tư Nước
Ngoài của Trung Quốc, ta có thể rút ra các ngụ ý của ông về tiêu chí đầu tư FDI của
Trung Quốc ở nước ngoài. Sách lược gồm 4 điểm chính:
1. Giúp chính phủ thực hiện các mục tiêu chính trị;
2. Giúp kinh tế Trung Quốc phát triển bền vững bằng cách thu gom những
tài nguyên và công nghệ cao;
3. Giúp các doanh nghiệp Trung Quốc cạnh tranh hữu hiệu hơn với quốc tế
về thị phần, về kỹ năng quản trị, về thương hiệu;
4. Tạo ra lợi nhuận tốt đẹp hơn so với hoạt động nội địa.
Đây là kế hoạch chính thức; nhưng khi nhìn vào những dự án đầu tư đã giải ngân,
ta lại phát hiện vài sự kiện thú vị:
1. Nếu tiêu chí số một là mục tiêu chính trị, thì chính phủ Trung Quốc đã
không sử dụng tối đa vũ khí FDI này của mình. Lấy trường hợp một đồng minh
thân thiết nhất của Trung Quốc là Bắc Triều Tiên. Nếu Trung Quốc thực sự muốn
giúp Bắc Triều Tiên phát triển kinh tế thì chỉ cần 10% số tiền FDI năm 2009 (20 tỉ
USD), Bắc Triều Tiên sẽ có bước tiến nhảy vọt về GDP vì hiện nay GDP của họ
rất nghèo nàn (dưới 26 tỉ USD vào 2008). Có thể họ muốn giữ Bắc Triều Tiên
nghèo khó để phải luôn luôn tùy thuộc vào Trung Quốc và dễ sai bảo hơn? Tôi
không biết gì về chính trị nhưng nhìn vào kinh tế, ta thấy có nhiều câu hỏi hơn là
câu trả lời cho quan hệ giữa Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Một nước anh em về
chủ nghĩa khác của Trung Quốc là Cuba (GDP phỏng đoán là dưới 52 tỉ USD vào
2009) đã chỉ nhận khoảng 5 triệu USD đầu tư FDI của Trung Quốc. Với các quốc
gia cực tả, chống Mỹ như Iran hay Venezuela, FDI của Trung Quốc đều nhắm vào
dầu khí thay vì chính trị. Có lẻ “bụt nhà không thiêng”?
2. Về thu tóm tài nguyên, nhất là khoảng sản và dầu khí, thì Trung Quốc rất
năng động trong lãnh vực này. Những hoạt động của Trung Quốc tại Châu Phi, Úc,
Trung Đông đã tốn khá nhiều giấy mực và bình luận của thế giới. Tuy vậy, về công
nghệ cao, các công ty Trung Quốc đã thất bại phần lớn tại các quốc gia Âu, Mỹ,
Nhật, Úc. Các xứ này hiểu rõ lợi thế cạnh tranh duy nhất của họ với Trung Quốc là

công nghệ cao và thương hiệu, cũng như kỹ năng quản trị, nên họ đã tìm mọi cách
vô hiệu hóa chiến lược này của Trung Quốc. Vả lại, ngày nào mà Trung Quốc chưa
nghiêm túc xử lý các luật lệ về bản quyền trí tuệ, của Trung Quốc cũng như của
quốc tế, thì các doanh nghiệp IT và công nghệ cao sẽ tránh né Trung Quốc và coi
họ như kí sinh trùng.
3. Mặc dù Trung Quốc đã đầu tư FDI nhiều nhất vào Âu, Mỹ, Úc (khoảng
58% của tổng số FDI trên toàn cầu), nhưng ngoài hai thương hiệu Volvo và IBM
PC, họ đã không có một thành tích gì khác để trưng bày. Tuy vậy con số 58% này
nói rõ sự liên hệ mật thiết của nền kinh tế Trung Quốc và Âu Mỹ Úc. Trung Quốc
hiểu rất rõ rằng Trung Quốc không thể phát triển đơn phương như ước muốn mà
phải tùy thuộc rất nhiều vào thị trường, kỹ năng quản trị, công nghệ và ngay cả tài
nguyên của các nước Tây phương. Ngay cả Quỹ Dự Trữ Ngoại Hối của quốc gia
cũng đầu tư chủ yếu vào tiền mặt và trái phiếu của Âu Mỹ Nhật Úc. Một sự thực
mà các nhà yêu nước Trung Quốc không muốn nhìn nhận Trung Quốc cần Âu Mỹ
Nhật Úc hơn là ngược lại.
4. Điểm sau cùng của chính sách đầu tư FDI của Trung Quốc là tìm lợi
nhuận. Đây là thất bại lớn nhất của chính sách này. Theo lời thú nhận của ông Zhu
Zhixin, Phó Chủ tịch của Sở Kế Hoạch Quốc Gia (State Planning Commission vừa
đổi tên thành National Development and Reform Commission NDRC), thống kê
đến 2008 cho thấy chỉ 28% các hoạt động tại nước ngoài của doanh nghiệp Trung
Quốc là có lời; 47% là hòa vốn và 25% phải chịu lỗ liên tục hoặc đã đóng cửa rút
lui. Nhận thức được những bất lợi này, ông Bộ trưởng đã nêu ra 5 vấn đề lớn mà
doanh nghiệp Trung Quốc phải đối phó khi đầu tư vào nước ngoài:
+ Doanh nghiệp nhỏ hơn doanh nghiệp đối thủ, lại làm quá nhiều lĩnh vực, nên
không đi sâu vào ngành nghề gì.
+ Doanh nghiệp có truyền thống địa phương hóa, không quan tâm đến chuyện lan
rộng ra thế giới.
+ Không có công nghệ hay thương hiệu riêng.
+ Tổ chức doanh nghiệp còn luộm thuộm.
+ Doanh nghiệp vừa và nhỏ học nhiều bài học xấu từ các công ty quốc doanh lớn.

Điều này cho thấy Trung Quốc còn phải học nhiều về vấn đề đầu tư FDI tại nước
ngoài. Nhật đã trả nhiều bài học đắt giá về đầu tư nước ngoài ở hai thập niên 70’s và
80’s khi kinh tế của Nhật bứt phá ngoạn mục. Chỉ sau này, sau 20 năm phiêu lưu, đầu
tư nước ngoài của Nhật mới ổn định và thâu lợi.
2.2.2. Thực trạng thu hút đầu tư của Trung Quốc
Sau hơn 20 năm (từ 1979 đến nay) thực hiện chính sách cải cách mở cửa, kinh
tế Trung Quốc đã đạt được những thành tựu to lớn, thu hút sự chú ý của cả thế giới.
Kim ngạch ngoại thương hai chiều của Trung Quốc đã tăng từ 28 tỷ USD năm 1982
lên 510 tỷ USD năm 2001. Năm 2001, Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu đứng thứ
bẩy thế giới (266,3 tỷ USD) và là nước nhập khẩu đứng thứ 8 trên thế giới (243,7 tỷ
USD). Cho đến nay, tương ứng với các thời kỳ, nền kinh tế Trung Quốc vẫn dẫn đầu
thế giới về tốc độ tăng trưởng. Vị thế và ảnh hưởng của Trung Quốc đã tăng lên rõ rệt.
Nhiều nhà kinh tế nhận định rằng, từ nay đến hết thập niên đầu thế kỉ XXI vẫn là thời
kỳ phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc.
Một trong những yếu tố tạo nền sự phát triển mạnh mẽ kinh tế của Trung Quốc
trong hơn 20 năm qua là sự thành công trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI). Từ năm 1992 đến nay, Trung Quốc liên tục đứng đầu các nước đang phát triển
và đứng trong tốp đầu trên thế giới về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và thậm chí
đã vượt qua Hoa Kỳ vào năm 2002 với 52,7 tỷ USD. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trở
thành động lực của sự phát triển kinh tế Trung Quốc và chính nó là yếu tố then chốt để
nước này thực hiện công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Quan trọng hơn, nó là cơ sở
chủ yếu để Trung Quốc thực hiện bước chuyển từ một nước nông nghiệp, khai thác tài
nguyên, xuất khẩu nguyên liệu là chính sang thành nước sản xuất và xuất khẩu chủ
yếu các mặt hàng công nghiệp chế tạo. Nhờ có đầu tư trực tiếp nước ngoài mà đất
nước Trung Quốc đã thay da đổi thịt. Nếu như trước khi mở cửa, Trung Quốc được ví
như một hành tinh chết, không sinh sôi, không nảy nở, phát triển thì sau 20 năm mở
cửa, một đất nước Trung Quốc lớn mạnh đang hình thành, tạo nên một trong những
“điều thần kỳ kinh tế vĩ đại nhất của thế kỷ”.
• Nguồn FDI vào Trung Quốc tăng, từ hơn 3 tỷ USD (năm 1990) lên 40
tỷ USD (năm 2000) và 53 tỷ USD (năm 2005)

Kể từ khi cải cách kinh tế và mở cửa ra bên ngoài, Trung Quốc đã thu hút
ngày càng lớn số vốn nước ngoài. Có ba hình thức chủ yếu của dòng vốn đầu tư
nước ngoài : vốn vay nước ngoài, đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư nước ngoài
khác
Giữa năm 1979 và 2000, thực tế sử dụng của Trung Quốc vốn nước ngoài hơn
500.000.000.000 đô la Mỹ, hơn hai phần ba vốn nước ngoài theo hình thức đầu tư trực
tiếp. Tầm quan trọng của FDI đã tăng mạnh kể từ cuối những năm 1970 và đầu những
năm 1980. Những năm 1980 , dòng vốn FDI chỉ chiếm 12% tổng vốn nước ngoài sử
dụng thực tế. Nhiều yếu tố góp phần làm chậm tiến độ tương đối của Trung Quốc
trong việc thu hút FDI trong giai đoạn này. Ví dụ, chính phủ yêu cầu rằng tất cả các
doanh nghiệp liên doanh nước ngoài duy trì bảng cân đối ngoại tệ đã gây khó khăn
cho các nhà đầu tư nước ngoài, lợi nhuận bằng ngoại tệ mạnh không thu được. Một
phần lý do là các nhà đầu tư nước ngoài không chắc chắn về môi trường chính sách
trong những năm đầu của cải cách. Tỷ lệ sử dụng tăng lên trong nửa sau của năm 1980
do cải thiện môi trường kinh doanh nhưng đã bắt đầu giảm sau năm 1989. Những bất
ổn chính trị vào năm 1989 góp phần vào việc giảm tỷ lệ sử dụng vốn FDI. Ngoài ra,
vấn đề thiếu hụt do bóp chặt tín dụng của chính phủ để kiểm soát nền kinh tế quá
nóng. Cuối cùng, nhiều dự án công bố cũng có thể gian lận, liên doanh giả mạo được
thiết lập để tận dụng lợi thế của thuận lợi ưu đãi thuế. Vì vậy, trong những năm 1990,
trong khi hợp đồng FDI đăng ký tăng lên một con số cao kỷ lục nhưng thực tế sử dụng
vốn FDI chỉ tăng từ từ. Tỷ lệ FDI sử dụng đã giảm xuống mức thấp nhất dưới 20%
vào năm 1992 nhưng sau đó tăng lên đều đặn trong suốt những năm 1990.
Sự tăng trưởng trong FDI đã bắt đầu tăng từ giữa những năm 1980, khi một loạt
các biện pháp đã được áp dụng để cải thiện môi trường đầu tư tại Trung Quốc. Năm
1980 và đầu những năm 1990, FDI tăng ổn định và chiếm khoảng một phần ba tổng số
vốn nước ngoài chảy vào. Dòng vốn FDI tăng nhanh kể từ năm 1992 và trở thành
nguồn quan trọng nhất của dòng vốn nước ngoài. Trung Quốc cũng đã trở thành quốc
gia nhận FDI lớn nhất trên thế giới. FDI hàng năm sử dụng đã tăng từ 4 tỷ USD / năm
vào năm 1991 lên hơn USD 45tỷ, đỉnh cao của nó (vào năm 1997 và 1998). Năm
1999 và 2000, dòng vốn FDI giảm từ cấp cao nhất, nhưng vẫn còn số tiền hơn 40 tỷ

USD một năm.
Trong những năm gần đây, FDI từ các nước vào Trung Quốc tăng rất nhanh .
Năm 2010, tổng vốn FDI là 105,7 tỷ USD. Nguyên nhân của sự gia tăng nhanh chóng
đó là bởi vì sức mạnh nền kinh tế Trung Quốc ngày càng được thể hiện sâu sắc. Hơn
thế nữa,cơ sở hạ tầng được đầu tư theo tiêu chuẩn,tạo điều kiện tốt cho các doanh
nghiệp phát triển. Hành lang pháp lý tại đất nước này ngày càng chặt chẽ và thông
thoáng nhất có thể giúp doanh nghiệp nước ngoài yên tâm đầu tư.
• Tác động của FDI:
- FDI có mặt ở nhiều ngành Công nghiệp của Trung Quốc, đóng góp vào việc
chuyển đổi cơ cấu công nghiệp. Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực FDI trong
giá trị sản xuất công nghiệp của Trung Quốc đã tăng từ 7% năm 1990 lên 28% năm
2000. Các doanh nghiệp FDI là những doanh nghiệp có năng suất cao nhất (gấp đôi so
với doanh nghiệp nhà nước).
- Năm 1995, các doanh nghiệp FDI của Trung Quốc chiếm tới 61% sản lượng
quần áo và giày dép xuất khẩu của Trung Quốc, tạo nhiều việc làm, chiếm 3% lao
động thành thị và đóng vai trò quan trọng trong quá trình tư nhân hóa. Vấn đề việc làm
là vấn đề nhức nhối của xã hội Trung Quốc. Do dân số đông đúc và thiếu việc làm
dẫn tới đời sống nhân đân khó khăn. Khi vốn FDI tăng cường sẽ tạo ra nhiều công ăn
việc làm cho người dân,góp phần cải thiện và đảm bảo đời sống cho người dân.
- Doanh nghiệp Trung Quốc liên doanh với nước ngoài là cách tiếp cận nhanh
nhất và thuận lợi nhất đối với các nguồn vốn ngân hàng nước ngoài. Doanh nghiệp
Trung Quốc có cơ hội được sử dụng lượng vốn lớn để mở rộng quy mô sản xuất,tăng
khả năng cạnh tranh cho sản phẩm.
- Vai trò của FDI không lớn nếu xét về mặt đóng góp tài chính vào cán cân
thanh toán, nhưng giúp cán cân thanh toán của Trung Quốc mạnh lên trong những năm
qua và sau đó lại làm tăng mạnh dự trữ ngoại tệ (năm 2001 tăng thêm khoảng 50 tỷ
USD). Đồng thời, FDI đã góp phần quan trọng trong toàn bộ vốn đầu tư, chiếm
khoảng 35% GDP và do đó góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế. FDI còn góp phần
vào tỷ trọng trong thuế giá trị gia tăng của Trung Quốc.
- FDI vào Trung Quốc còn có vai trò quan trọng khác, chứng tỏ Trung Quốc là

một thị trường hấp dẫn, nên đã thu hút được nhiều FDI hơn các nước: Achentina,
Braxin … , và làm cho các nước Đông Nam á lo ngại vì nguồn FDI chảy hết về Trung
Quốc. FDI tăng nhanh làm cho vị thế của quốc gia này ngày càng vững mạnh
hơn,chứng tỏ sức mạnh của nền kinh tế Trung Quốc.
• Những nguyên nhân làm tăng FDI vào Trung Quốc :
- Trung Quốc có một thị trường tiêu thụ rộng lớn, đặc biệt quy mô thị trường có
tầm quan trọng đối với FDI từ Mỹ và Châu Âu.
- Trung Quốc có lợi thế so sánh về nguồn lao động so với các nước khác trong
khu vực. Đây là một yếu tố rất quan trọng trong thu hút FDI hướng vào xuất khẩu từ
Hồng Công và Đài Loan.
- Cơ sở hạ tầng của Trung Quốc tương đối tốt hơn so với các nước khác trong
khu vực.
- Đóng vai trò trung tâm trong việc mở cửa từng bước nền kinh tế đối với các
nhà đầu tư nước ngoài và sự khác nhau quan trọng giữa các vùng này với các vùng
khác ở Trung Quốc là các khu kinh tế mở. Tại đây đã có sự phân quyền quản lý và cho
phép đầu tư vào các vùng kinh tế mở vượt kế hoạch Nhà nước.
Còn một số nguyên nhân khác, trong đó yếu tố văn hóa - dân tộc có vai trò tích
cực (50% FDI vào Trung Quốc là từ Hồng Công, Đài Loan và Xingapo, những nơi có
nhiều người Hoa sinh sống, do có tương đồng văn hóa và các nhà đầu tư này cũng có
lợi trong việc qua được những rắc rối quan liêu và tham nhũng). Đồng thời, yếu tố cơ
cấu kinh tế và thể chế chính trị cũng đóng vai trò quan trọng.
• Những tồn tại và khó khăn:
- Sự tập trung vốn của FDI ở Trung Quốc thấp hơn so với các nước và vùng
lãnh thổ khác. Chẳng hạn, FDI chảy vào 3 ngành công nghiệp hàng đầu của Hồng
Công và Đài Loan là 86%, Inđônêxia là 79% và của Malaixia là 75% , còn Trung
Quốc chỉ chiếm 47% FDI.
- FDI có mặt ở nhiều tỉnh, kể cả các tỉnh Nội Mông nghèo, nhưng phân bố
không đều (các tỉnh miền Tây chỉ thu hút được 3%, các tỉnh miền Trung 9%, trong khi
đó các vùng Duyên hải thu hút tới gần 88% các dòng vốn FDI), đã tạo ra chênh lệch
phát triển giữa các vùng.

- Chính sách thuế của Trung Quốc rất phức tạp và còn nhiều bất cập, hiện đang
khắc phục dần. Từ năm 1994 đến cuối năm 2000, khả năng mang lại lợi nhuận trước
thuế trung bình của các doanh nghiệp FDI ở Trung Quốc là 8%; riêng với các doanh
nghiệp FDI từ Mỹ trong những năm 1990 hoặc nửa cuối những năm 1990 là khoảng
14%, tương đương với khả năng mang lại lợi nhuận của doanh nghiệp FDI từ Mỹ vào
các nước như Achentina, Braxin, Mêhicô và Thổ Nhĩ Kỳ.
Tóm lại, trong hơn hai thập kỷ chuyển đổi về kinh tế, Trung Quốc đã thu được
những thành công rực rỡ: Tốc độ tăng trưởng cao, tỷ lệ đói nghèo giảm, và khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh. Một trong những động lực thúc đẩy sự
chuyển đổi thành công này là việc khai thác hiệu quả nguồn vốn FDI.
Ngoài những yếu tố quyết định đối với việc thu hút FDI như quy mô thị trường
lớn, giá lao động rẻ, cơ sở hạ tầng được cải thiện đi cùng với các chính sách FDI cởi
mở, và đặc biệt là việc thành lập các khu kinh tế mở, còn có thể rút ra một số bài học
khác cho nhiều nước đang phát triển
2.3. Các chính sách đầu tư nước ngoài của TQ.
2.3.1.Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Việc thực hiện các chính sách thu hút ĐTNN trong thời kỳ này có thể được chia
thành giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: Từ năm 1979 đến năm 1982. Các Xí nghiệp dùng vốn nước ngoài
chủ yếu dưới 3 hình thức: liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh và 100% vốn nước
ngoài, lầu đầu tiên được thành lập ở các ĐKKT, tiếp đó là ở các thành phố mở cửa ven
biển trên cơ sở thử nghiệm. Trong thời gian này, chủ ĐTNN vẫn còn băn khoăn nghi
ngại về môi trường đầu tư, hầu hết các chủ đầu tư vào Trung Quốc khi đó là những
Hoa kiều từ Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan, với quy mô đầu tư nhỏ. Hoạt động kinh
doanh cũng chủ yếu là gia công, lắp đặt các linh kiện và phụ tùng nhập khẩu. Trong
suốt thời kỳ này, cũng chỉ có 992 dự án ĐTNN được phê chuẩn với tổng giá trị hợp
đồng và giá trị cam kết tương ứng là 6 tỷ và 1,166 tỷ USD.
Giai đoạn 2: Từ năm 1983 đến năm 1985. Năm 1983 nhiều Công ty nước ngoài
tăng đầu tư vào Trung Quốc. Số dự đầu tư mới tăng thêm tới 470, khối lượng vốn
được phê chuẩn và vốn thực tế sử dụng tương ứng là 1,732 tỷ và 0,636 tỷ USD. Địa

bàn thu hút ĐTNN được mở rộng thêm trong các năm 1984 và 1985 như mở cửa 14
thành phố ven biển và 3 khu phát triển kinh tế. Chính quyền địa phương ở các khu vực
này đã thực hiện nhiều biện pháp để cải thiện cơ sở hạ tầng như phát triển mạng lưới
giao thông vận tải, thông tin, cấp điện, cấp nước thực hiện nhiều chính sách ưu đãi
về thuế, lợi nhuận, đơn giản hoá các thủ tục hành chính như lập hồ sơ, kiểm tra, phê
chuẩn và đăng ký dự án Tháng 4/1984, Trung Quốc công bố Quy định về các Xí
nghiệp hợp tác Trung Quốc - nước ngoài các cấp chính quyền địa phương lại đưa ra
nhiều các biện pháp ưu đãi đối với ĐTNN. Kết quả là số các dự án FDI vào Trung
Quốc tăng rất nhanh qua từng năm. Năm 1984 số Xí nghiệp dùng vốn nước ngoài mới
tăng lên 1857, gấp hơn 2 lần mức năm 1983. Năm 1985, mức tăng số Xí nghiệp mới
đạt 65% (3.073). Khối lượng vốn đầu tư cam kết trong các năm 1984 và 1985 tăng
53% và 120% so với các năm trước.
Giai đoạn 3: Từ năm 11986 đến năm 1988. Sau khi đạt được những đỉnh cao
trong thu hút ĐTNN. Trong các năm 1984 và 1985, Trung Quốc dường như cần có
thời gian để "tiêu hoá", ổn định lượng FDI mới và cũng để xem xét, tổng kết kinh
nghiệm, hoàn thiện hơn nữa môi trường đầu tư. Ngày 12/4/1986, Quốc hội Trung
Quốc thông qua Luật các công trình dùng vốn nước ngoài của Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa, đồng thời Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra các quy định tạm thời của Hội
đồng Nhà nước về khuyến khích ĐTNN (còn gọi là 22 điều khoản) vào tháng 10 năm
1986. Trong khi đó, các phòng ban của Chính phủ và chính quyền các địa phương đã
liên tiếp công bố hàng loạt các biện pháp triển khai thực hiện các quy định này. Nhiều
nơi đưa ra các biện pháp ưu đãi, khuyến khích đầu tư vào các dự án sản xuất các sản
phẩm xuất khẩu và sử dụng kỹ thuật mới. Năm 1987, Chính phủ Trung Quốc chỉ đạo
các cơ quan hữu quan kiểm tra, xem xét tình hình thực hiện 22 điều khoản ở trên.
Tháng 7/1988 Chính phủ lại công bố Luật và các quy định khuyến khích các nhà đầu
tư Đài Loan đầu tư vào Đại lục. Do vậy, một làn sóng FDI mới lại đến Trung Quốc
trong năm 1988. Các dự án đầu tư mới tăng 166% so với năm 1987, đạt con số 5.945.
Khối lượng vốn đầu tư mới theo cam kết đạt 5,297 tỷ USD, tăng 3%.
Giai đoạn 4: Từ năm 1989 đến năm 1991. Do tác động của sự kiện Thiên An
Môn (4/6/1989) các dự án ĐTNN mới phê chuẩn trong năm 1989 giảm 2,8% so với

năm 1988, còn 5.579 dự án, nhưng khối lượng cam kết theo hợp đồng và khối lượng
đầu tư thực tế lại tăng tương ứng là 5,6% và 6,3%, đạt 5,6 tỷ USD và 3,393 tỷ USD.
Tháng 4/1990, sau khi tổng kết kinh nghiệm 10 năm thu hút vốn ĐTNN và tham
khảo kinh nghiệm quốc tế, Trung Quốc đã sửa đổi luật Liên doanh Trung Quốc - nước
ngoài của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa công bố năm 1979, đồng thời cụ thể Luật
thành cá điều khoản như: không thực hiện quốc hữu hoá các Xí nghiệp có vốn nước
ngoài, giới hạn thời gian thực hiện hợp đồng, bổ nhiệm chủ tịch Hội đồng quản trị,
miễn giảm thuế Tháng 5/1990, Chính phủ Trung Quốc lại công bố quy định về
khuyến khích đầu tư của người Hoa và Hoa kiều yêu nước ở Hồng Kông, Ma Cao và
Đài Loan và đến tháng 9 năm đã phê chuẩn quy định về khuyến khích ĐTNN và miễn
thuế thu nhập và thuế kinh doanh cho các Xí nghiệp dùng vốn nước ngoài ở Khu mới
Phố Đông Thượng Hải. Tháng 10, Bộ Ngoại thương và Hợp tác quốc tế Trung Quốc
cho xuất bản cuốn Các Quy định chi tiết về thực hiện Luật công trình dùng vốn nước
ngoài. Tất cả các biện pháp này đã cho thế giới thấy lập trường của Trung Quốc rất
kiên định trong thực hiện các chính sách mở cửa kinh tế và bảo vệ quyền lợi pháp lý
cũng như lợi ích của các nhà ĐTNN, đặc biệt đối với người Hoa và Hoa Kiều. Do vậy,
dù các nước phương Tây đã thực hiện các biện pháp trừng phạt Trung Quốc sau sự
kiện Thiên An Môn, ĐTNN và các hoạt động kinh doanh của Hoa kiều ở Trung Quốc
vẫn gia tăng trong năm 1990, với 7.237 dự án đầu tư mới phê chuẩn, tăng 29% so với
năm 1989. Trong năm 1991, lượng FDI lại tăng hơn nữa, với 12.000 dự án đầu tư mới
phê chuẩn, tăng 65% so với năm 1990, các mức đầu tư cam kết và thực tế tương ứng
đạt 12 tỷ USD (tăng 82%) và 4,37% tỷ USD (tăng 25%).
Tóm lại, trong suốt thập kỷ 80 Trung Quốc thực hiện nhiều các chính sách, biện
pháp để thu hút vón ĐTNN và đã thu được kết quả đáng kể. Tuy nhiên, các chính
sách, biện pháp này mới ở giai đoạn đầu và được thực hiện theo hướng: mở rộng dần
dần địa bàn thu hút vốn, củng cố cơ sở hạ tầng cứng, từng bước xây dựng và hoàn
thiện cơ sở hạ tầng mềm. Thành công lớn nhất của Trung Quốc trong thời kỳ này là
xây dựng được lòng tin về một môi trường đầu tư tốt, ổn định trong các nhà đầu tư.
Cùng với những cố gắng trong cải cách ngoại thương, thành công này giúp Trung
Quốc chuẩn bị tốt hơn cho sự phát triển thương mại và thu hút ĐTNN mạnh mẽ hơn,

từ đó có thể hội nhập quốc tế mạnh hơn, chắc chắn hơn ở giai đoạn sau.
2.3.2.Chính sách đầu tư nước ngoài trong giai đoạn 1992 đến
nay.
• Tiếp tục mở rộng các vùng lãnh thổ mở cửa.
Bước vào thập kỷ 90, đặc biệt là từ năm 1992, vốn ĐTNN vào Trung Quốc tăng
rất nhanh. Đầu năm 1992, khắp Trung Quốc dấy lên cao trào mới về mở cửa đối
ngoại, đánh dấu sự chuyển hướng sang một giai đoạn mới về mở đối ngoại ở nước
này. Tháng 3/1992, Quốc vụ viện Trung Quốc quyết định mở cửa 4 thành phố mở cửa
ven biên giới phía Bắc. Đó là các thành phố Bắc Hà, Noãn Phần Hà, Huy Xuân và
Mãn Châu Lý. Tháng 6 cùng năm, Quốc vụ viện Trung Quốc lại quyết định mở cửa
thêm các thành phố (huyện, thị) ven biên giới như Bằng Tường, Đông Hưng (Khu tự
trị Quảng Tây), Văn Đĩnh, Thụy Lệ, Hà Khẩu (tỉnh Vân Nam).
Về sau Trung Quốc còn tiếp tục mở cửa thêm một số thủ phủ, tỉnh lỵ ở cả khu
vực ven biển, ven biên giới, ven sông Trường Giang và một số nơi ở sâu trong nội địa.
Cho đến nay, ở Trung Quốc đã hình thành thêm 3 vùng mở cửa lớn với mục tiêu
mở cửa để thu hút ĐTNN và khai thác thị trường các nước xung quanh, đó là:
- Vùng Tây Bắc Trung Quốc, chủ yếu hướng sang các nước SNG, Đông Âu,
Pakistan và một số nước Trung á.
- Vùng Tây Nam Trung Quốc, chủ yếu hướng về Đông và Nam á như các nước
ấn Độ, Nê Pan, Myanma, Lào, Bănglađét.
Như vậy là sau 20 năm, Trung Quốc đã dần dần hình thành cục diện mở cửa đối
ngoại trọng điểm, nhiều tầng nấc từ Nam đến Bắc, từ Đông sang Tây.
• Điều chỉnh chính sách
Để tiếp tục duy trì nhịp độ phát triển cao và bền vững trong những năm cuối thế
kỷ, từ đầu thập kỷ 90, Trung Quốc liên tục ban hành nhiều chính sách, biện pháp quan
trọng nhằm cải thiện môi trường đầu tư cho phù hợp với những đòi hỏi của nền kinh tế
thế giới cũng như nhu cầu đầu tư quốc tế. Những chính sách, biện pháp điều chỉnh
chính là:
a. Trọng tâm của các yêu cầu ĐTNN được chuyển từ số lượng sang chất
lượng.

Hiện Trung Quốc rất coi trọng thu hút các Công ty xuyên quốc gia lớn đầu tư
vào các dự án sử dụng kỹ thuật cao. Để đạt được điều này, Chính phủ Trung Quốc đã
nới lỏng kiểm soát việc thành lập các Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài và các Xí
nghiệp do người nước ngoài điều phối.
Trong suốt thập kỷ 80, hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài còn rất ít. Từ
năm 1992, sau quyết định đẩy nhanh tôc độc cải cách và mở cửa, thiết lập thể chế thị
trường xã hội chủ nghĩa, hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài ngày càng được mở
rộng. Từ năm 1993, cùng với sự gia tăng đầu tư của các Công ty xuyên quốc gia, tốc
độ tăng trưởng của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài về số hạng mục đầu tư, khối
lượng vốn cam kết và thực tế sử dụng đều vượt số tương ứng của các loại hình chung
vốn và hợp tác kinh doanh. Năm 1994, các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tăng
34% so với năm trước. Đặc biệt, quy mô mỗi hạng mục được mở rộng, các hạng mục
kỹ thuật cao - mới của các khu khai thác kinh tế kỹ thuật ven biển đã nâng cao từ 10%
trong mấy năm trước lên 30% năm 1994. Quy mô mỗi hạng mục tăng từ 1,8 triệu USD
năm 1993 lên 2,2 triệu USD năm 1994.
b. Từng bước xoá bỏ các chính sách ưu tiên đối với FDI thông qua tái điều
chỉnh biểu thuế quan cho phù hợp với các xu hướng mới của quốc tế.
Các chính sách này được bắt đầu thực hiện từ 1/4/1996 với việc xoá bỏ các điều
khoản miễn, giảm thuế nhập khẩu thiết bị và nguyên vật liệu cho các Xí nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài và các Xí nghiệp ở các đặc khu kinh tế. Ngày 1/1/1988, Trung
Quốc đã quyết định miễn giảm thuế hải quan đối và thuế giá trị gia tăng cho việc nhập
khẩu các thiết bị phục vụ sản xuất, đồng thời còn công bố Chỉ dẫn ĐTNN vào các
ngành, trong đó các lĩnh vực được khuyến khích là:
- Nông nghiệp: ngũ cốc, rau quả, thịt, bảo quản các sản phẩm thuỷ sản, kỹ thuật
mới để bảo quản thực phẩm tươi sống, sử dụng kỹ thuật tổng hợp và chế biến các loại
sản phẩm mới từ tre, kỹ thuật phục vụ tưới tiêu và bảo quản nguồn nước, kỹ thuật mới
chế tạo máy nông nghiệp.
- Các loại vật liệu xây dựng mới như các vật liệu làm tường, vật liệu trang trí và
sửa chữa, vật liệu chịu nhiệt và không thấm nước (đặc biệt coi trọng việc phục vụ xây
dựng nhà ở).

- Dịch vụ: thương mại quốc tế, khoa học kỹ thuật, tư vấn bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng đã nới lỏng những hạn chế về các lĩnh vực được
nhận FDI. Danh mục ưu tiên được áp dụng đối với nhiều loại kỹ thuật và sản phẩm.
Nhiều lĩnh vực trước kia còn hạn chế, nay cũng được mở ra cho các nhà ĐTNN và
Trung Quốc sẽ tiếp tục xem xét đưa ra nhiều điều khoản thuận lợi để khuyến khích
FDI vào các khu miền Trung và miền Tây.
Hiện FDI được mở ra cho hầu như mọi lĩnh vực. Một số hạn chế về thị trường
cũng được xoá bỏ thông qua từng bước loại dần các quy định về tỷ lệ hàng hoá giành
cho xuất khẩu.
c. Thúc đẩy cải cách tài chính và cải cách hệ thống ngoại thương, giảm tối
thiểu những hạn chế cho hoạt động của các Xí nghiệp dùng vốn nước ngoài.
Từ 1/12/1996, việc Trung Quốc thực hiện chuyển đổi đồng Nhân dân tệ (NDT)
trong tài khoản vãn lại đã giúp các Xí nghiệp dùng vốn nước ngoài loại trừ được
những hạn chế trong thanh toán quốc tế - chi trả các đối tác bên ngoài và chuyển lợi
nhuận về nước. Điều này làm cho Trung Quốc có thêm sức hấp dẫn đối với các nhà
ĐTNN. Bên cạnh đó, các liên doanh hoạt động trong lĩnh vực thương mại cũng được
phép thành lập các cơ sở kinh doanh ở Phú Đông - Thượng Hải và ở Đặc khu Thâm
Quyến trên nguyên tắc thử nghiệm. Đồng thời một số các ngân hàng nước ngoài cũng
bắt đầu được phép kinh doanh bằng đồng NDT.
d. Khuyến khích các nhà ĐTNN đầu tư vào các khu vực miền Trung và miền
Tây.
Giữa những năm 1990, ở khu vực ven biển Trung Quốc, sản xuất của một số
ngành như dệt, may mặc, đồ chơi, công nghiệp nhẹ, máy móc, sản xuất nguyên vật
liệu đã đạt kết mức bão hoà trên thị trường. Kết cấu đầu tư đòi hỏi phải được nâng
cấp. Song vùng này do trang thiết bị cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện, thiếu vốn, thiếu kỹ
thuật, hiệu quả tương đối thấp. Vì vậy, có nhiều khó khăn trong nâng cấp kết cấu đầu
tư.
Ở một số tỉnh trong nội địa, tuy có cơ sở cho những ngành nghề tập trung nhiều
tiền vốn, nhưng hiệu quả lao động không cao, lại thiếu thốn các điều kiện kinh tế bên
trong và ngoài ngành, làm cho việc thu hút ĐTNN bị hạn chế. Bên cạnh đó, các hạng

mục đầu tư của các Xí nghiệp lớn gần đây có tăng nhưng những hạng mục này vẫn chỉ
giới hạn ở những thành phố lớn (ở Thượng Hải có tới 78,8% số Công ty xuyên quốc
gia đầu tư vào Trung Quốc). Trước tình hình đó, Trung Quốc khuyến khích các vùng
ven biển thu hút vốn với kỹ thuật cao, và lâu dài, hình thành vùng vốn kỹ năng để
nâng cao tỷ trọng của các ngành nghề sử dụng vốn tập trung và kỹ thuật cao. Các tỉnh
nội địa, thông qua điều chỉnh kết cấu tạo ra những ngành nghề có ưu thế tương đối về
hiêu quả và năng suất lao động. Đồng thời thông qua việc phát triển các Xí nghiệp
hương trấn, các Xí nghiệp vừa và nhỏ, thu hút vốn sử dụng lao động tập trung để mở
rộng tổng lượng. Với mục đích phát triển hơn nữa các vùng này, mới đây Trung Quốc
đã quyết định cho phép các tỉnh trong các vùng sâu, vùng xa, các khu tự trị được phê
chuẩn các dự án vốn nước ngoài với tổng đầu tư lên tới 30 triệu USD - so với mức cũ
là 10 triệu USD.
Do vậy, từ năm 1992 đến nay, cùng với việc đầu tư vào các khu ven biển, ven
biên giới và ven sông, ĐTNN đã có xu thế phát triển vươn vào các khu nằm sâu trong
nội địa, đặc biệt là các khu vực miền Trung và miền Tây, phát huy các ưu thế về lao
động và tài nguyên dồi dào của Trung Quốc. Đầu tư nước ngoài cho đến nay đã phát
triển rất nhanh ở các tỉnh Hà Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên ở khu vực Tây Nam cũng như
các tỉnh Cam Túc, Tân Cương, Ninh Hạ, Thanh Hải ở vùng Tây Bắc Trung Quốc.
e. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường bảo vệ quyền lợi của các
nhà kinh doanh nước ngoài qua tăng cường các quy định pháp luật.
Từ ngày 1/1/1997, Thâm Quyến đã áp dụng các mức giá dịch vụ thống nhất
khiến các Xí nghiệp nước ngoài dùng vốn nước ngoài cùng nhân viên của họ được
hưởng mọi quy chế như các doanh nghiệp và công nhân Trung Quốc đối với vấn đề thị
trường. Sự cải thiện môi trường đầu tư còn được biểu hiện ở chủ trương tăng hiệu quả
làm việc của các cấp chính quyền địa phương qua đơn giản hoá các thủ tục phê chuẩn

×