Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh - Giải phóng con người potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.44 KB, 5 trang )

Nhìn tổng thể trên phạm vi toàn xã hội, các yếu tố chính trị, kinh tế và văn hóa hợp thành trụ cột
cơ bản của mô hình xã hội và đều hướng tới giải phóng, phát triển con người một cách toàn
diện. Mục tiêu tối thượng của mô hình xã hội này là con người Việt Nam mới, ngày càng có khả
năng và điều kiện thực tế để làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình. Như vậy, nguyên lý về vai
trò của con người như là mục tiêu cao nhất đồng thời là động lực của sự nghiệp giải phóng, sự
hài hòa giữa cá nhân và xã hội như là đặc trưng cao nhất của xã hội mới đang được chúng ta
vận dụng vào việc hình thành và xây dựng mô hình xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Thực chất của nguyên lý đó là giải phóng tiềm năng con người như là động lực,
hướng vào phục vụ con người như là mục tiêu cao nhất của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa "con
người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, phát triển
toàn diện".
*
Nhìn lại thực tế lịch sử cũng như công cuộc xây dựng, phát triển đất nước hiện nay, có thể thấy
và khẳng định rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa, đất nước ta, dân tộc ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên con đường đi tới giải
phóng con người toàn diện. Từ một chế độ thuộc địa, dưới sự thống trị của đế quốc, thực dân,
phong kiến, dân tộc ta đã giành được độc lập, tự do, xây dựng nên một quốc gia ngày càng có vị
thế quan trọng trên trường quốc tế. Từ thân phận nô lệ, mất nước, nhân dân ta đã trở thành chủ
nhân của chế độ, tự quyết định vận mệnh của mình, có cơm ăn, áo mặc, được học hành và có
cuộc sống đang được cải thiện từng ngày. Tuy là một quốc gia mới đạt trình độ thấp về sản xuất
vật chất, nhưng chúng ta có thể tự hào về chỉ số phát triển con người nhờ tính chất ưu việt trong
chế độ giáo dục, chăm sóc sức khỏe và sự nỗ lực trong xóa đói, giảm nghèo. Những thành tựu
ấy không thể nói là nhỏ trong điều kiện đất nước mới chỉ có được 30 năm bước ra khỏi cuộc
chiến tranh vào loại khốc liệt nhất thời đại, trong đó hàng chục năm vẫn phải chiến đấu bảo vệ
toàn vẹn biên giới, lãnh thổ và chủ quyền đất nước. Những bước đi lên, những tiến bộ trên con
đường giải phóng con người, thực hiện lý tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước ta
không thể nói là nhỏ, khi chúng ta bắt tay vào xây dựng từ đống đổ nát của chiến tranh, từ những
di hại nặng nề về con người, thiên nhiên do bom đạn và chất độc hóa học gây nên, từ nền sản
xuất vật chất lạc hậu, manh mún, chưa lo đủ miếng ăn đói, tấm áo manh cho mỗi người dân. Và
tất cả những điều đó cũng vừa là hệ quả tất yếu, vừa là minh chứng hùng hồn cho tính nhân văn
cao cả của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.


Ngày nay, nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế thế giới với việc gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Cùng với những cơ hội to lớn, những điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển, chúng ta cũng sẽ đứng trước những khó khăn, thách thức và rủi ro không nhỏ.
Sự cạnh tranh gay gắt hơn có thể dẫn tới sự phá sản của một số doanh nghiệp. Văn hóa, truyền
thông từ khắp thế giới tràn vào sẽ có thể gây ra những xáo trộn trong quan hệ gia đình, xã hội,
tâm lý và nhận thức của người dân, nhất là thế hệ trẻ. Sự tác động của cơ chế kinh tế thị trường
cùng sự phát triển nền sản xuất vật chất sẽ dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc hơn, gây ra
những chia rẽ trong cộng đồng nhân dân Điều kiện đó đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta phải chủ
động tìm ra những cơ chế, giải pháp nhằm bảo vệ và tiếp tục cải thiện, nâng cao trình độ giải
phóng, phát triển con người của mọi tầng lớp nhân dân lao động. Điều đó có ý nghĩa như sự biểu
hiện bản chất tốt đẹp của chế độ. Hơn nữa, chỉ có như thế, chúng ta mới có thể tạo ra được
nguồn lực quyết định cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước - nguồn lực con người.
Cũng cần phải nói thêm rằng, C. Mác và Ph. Ăng-ghen luôn xuất phát từ quan điểm lịch sử, cụ
thể để nhìn nhận những vấn đề đặt ra trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Theo quan điểm
ấy, việc vân dụng những nguyên lý lý luận bao giờ cũng phải được đặt trong những điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trong lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1872, C. Mác và Ph.
Ăng-ghen viết: "Mặc dầu hoàn cảnh đã thay đổi nhiều trong hai mươi lăm năm qua, nhưng cho
đến nay, xét về đại thể, những nguyên lý tổng quát trình bày trong "Tuyên ngôn" này vẫn còn
hoàn toàn đúng Chính ngay "Tuyên ngôn" cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc
nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do
đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II"
(17)
. Trong
lời tựa viết cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888 ở Luân-đôn, Ph.Ăng-ghen đã một lần nữa nhắc
lại nguyên văn đoạn văn trên.
Đến nay, với thái độ khoa học, lịch sử và cụ thể, chúng ta có thể khẳng định rằng, mặc dù hoàn
cảnh đã thay đổi, nhưng những tư tưởng cơ bản, trong đó có tư tưởng về giải phóng con người
trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vẫn giữ nguyên giá trị. Đó là tư tưởng khoa học, mang
tính nhân văn cao cả và phù hợp với nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động
trên toàn thế giới. Điều đó, một mặt đòi hỏi chúng ta phải vận dụng sáng tạo, hình thành những

giải pháp hợp lý, xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta để từng bước thực hiện
mục tiêu giải phóng con người toàn diện. Mặt khác, nó cũng cho phép chúng ta càng vững tin
hơn vào những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vào con đường cách mạng mà
Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, vào sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY
VŨ QUANG TẠO (*)
Với bản chất vốn có – cách mạng và khoa học, học thuyết Mác về sự tự giải phóng của
con người, của nhân loại không chỉ mang giá trị lịch sử, mà còn mang ý nghĩa thời
đại. Với tư cách đó, học thuyết này mãi trường tồn cùng lịch sử nhân loại, mãi soi sáng
con đường cách mạng tự giải phóng của nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới trong thời
đại ngày nay. Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và khẳng định bản chất cách mạng
và khoa học của học thuyết Mác về giải phóng con người, đồng thời luận giải vai trò
và ý nghĩa lớn lao của nó đối với sự nghiệp giải phóng con người trong thời đại hiện
nay.

Giải phóng con người khỏi mọi sự khổ đau, đem lại cho con người một cuộc sống tự
do, hạnh phúc là khát vọng ngàn đời của nhân loại và cũng là điều quan tâm lớn nhất
của các nhà tư tưởng ở mọi thời đại mà C.Mác không chỉ là một trong những nhà tư
tưởng ấy, mà còn vượt lên trên họ, trở thành một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất
của mọi thời đại, người sáng lập học thuyết về sự tự giải phóng của con người.
Với trí tuệ thiên tài, với sức mạnh của tư duy biện chứng duy vật, ngay từ 1844, trong
Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844, C.Mác đã phát hiện ra tính hai mặt của lao
động, của sở hữu tư nhân và từ đó, khẳng định chính lao động bị tha hoá là nguồn gốc
cơ bản trực tiếp và sở hữu tư nhân là nguồn gốc suy đến cùng đã dẫn đến mọi nỗi khổ
đau của nhân loại, của mỗi con người và làm cho con người bị tha hoá.
Nếu như G.Ph.Hêghen chỉ nhìn thấy mặt khẳng định của lao động với tư cách nhân tố
sản sinh ra con người, thì C.Mác khẳng định lao động không chỉ là mặt khẳng định -
nhân tố tạo ra con người, giúp con người không ngừng hoàn thiện và phát triển, khi nó
là lao động tự nguyện, mà còn là mặt phủ định. Trong chế độ tư hữu, khi lao động là
lao động cưỡng bức, lao động đã bị tha hoá, thì nó là mặt phủ định, là nhân tố hành hạ,

huỷ hoại con người. Ở đây, C.Mác đã khắc phục cách nhìn phiến diện của
G.Ph.Hêghen về lao động để thay vào đó cách nhìn biện chứng, lịch sử và cụ thể về vai
trò của lao động đối với sự phát triển con người. Từ đó, C.Mác đã đi tới kết luận quan
trọng đầu tiên trong học thuyết về sự tự giải phóng con người của mình là: Sở hữu tư
nhân, nhất là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa với tư cách kết quả của quá trình lao động
bị tha hoá đã trở thành nguyên nhân suy đến cùng, nguyên nhân chủ yếu và cơ bản nhất
gây ra những tai hoạ khủng khiếp cho con người, làm tha hoá con người và do vậy, để
giải phóng con người, cần phải xoá bỏ thứ sở hữu tư nhân đó.
Với giai cấp công nhân, giai cấp chiếm đa số trong xã hội tư bản, thì chính sở hữu tư
nhân và lao động bị tha hoá đã biến lao động của họ thành hoạt động xa lạ, do chủ tư
bản quyết định, hoạt động cho nhà tư bản, vì nhà tư bản và do vậy, nó không chỉ làm
cho họ bị què quặt, kiệt quệ về thể xác và tinh thần, hạ thấp vai trò của lao động từ một
phương diện để thể hiện và phát triển những lực lượng bản chất của con người xuống
ngang bằng hoạt động của các loài động vật, chỉ còn biết dùng “lao động” để chỉ duy
trì sự tồn tại của mình, mà còn biến “cái vốn có của súc vật trở thành chức phận của
con người, còn cái có tính người thì biến thành cái vốn có của súc vật”(1). Và trong xã
hội tư bản, xu hướng ấy ngày càng phát triển, vì “công nhân càng sản xuất nhiều thì
anh ta có thể tiêu dùng càng ít; anh ta tạo ra càng nhiều giá trị thì bản thân anh ta càng
bị mất giá trị, càng bị mất phẩm cách; sản phẩm của anh ta tạo ra dáng càng đẹp thì anh
ta càng què quặt; vật phẩm do anh ta tạo ra càng văn minh thì bản thân anh ta càng
giống với người dã man; lao động càng hùng mạnh thì người công nhân càng ốm yếu;
công việc anh ta làm càng phức tạp thì bản thân anh ta càng trống rỗng về trí tuệ và
càng bị nô lệ vào giới tự nhiên”(2). Như vậy, nếu như phải mất hàng chục vạn năm để
những động vật cao cấp tiến hoá thành con người hiện đại, thì chính sở hữu tư nhân và
lao động bị tha hoá trong chế độ tư bản chủ nghĩa đã “giúp” con người trở lại, lùi về địa
vị “con vật” với đúng nghĩa của từ này.
Với giai cấp tư sản tình hình cũng không sáng sủa hơn. Đúng là trong xã hội tư bản,
giai cấp tư sản là người chủ của xã hội, họ nắm toàn bộ quyền sinh, quyền sát trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tưởng như họ được tự do tuyệt đối với niềm vui và
hạnh phúc tràn trề, nhưng không, họ cũng trở thành nô lệ cho chính những đồng tiền

của mình. Bởi vì, ông chủ thật sự của xã hội tư bản là tư bản, là tiền. Tiền là sức mạnh,
là thước đo giá trị của mỗi con người trong xã hội tư bản. Nỗi lo sợ mất tiền, cùng với
khát vọng có nhiều tiền, để có cơ hội chiến thắng trong cuộc chiến khốc liệt diễn ra
thường xuyên giữa chính những người tư sản và các tập đoàn tư bản đã vô tình xô đẩy
họ vào vòng xoáy bạo lực, bị chính những đồng tiền của mình sai khiến tới mức mù
quáng, mê muội. Ma lực của đồng tiền đã làm cho các nhà tư bản hy sinh mọi niềm
vui, hạnh phúc chân chính của con người. Vì tiền, họ có thể bán cả lương tâm, danh dự,
tình yêu, phẩm giá, hy sinh cả người ruột thịt, chém giết, đoạ đày đồng loại, thậm chí
hy sinh cả tính mạng của mình. Thực tiễn đã chứng minh: nếu lợi nhuận 100% thì nhà
tư bản bất chấp pháp luật, còn lợi nhuận 300% thì có treo cổ nó lên, nó vẫn làm. Như
vậy, với mong muốn có nhiều tiền để sống tự do, hạnh phúc, những người tư sản đã
không từ một thủ đoạn nào; nhưng càng có nhiều tiền, họ càng mù quáng, mê muội,
càng mất tự do, càng mất đi hạnh phúc làm người.
Cách cảm, cách nghĩ của giai cấp tư sản, giai cấp thống trị nền sản xuất xã hội đã chi
phối, quyết định cách nhìn, cách nghĩ của mọi giai tầng khác trong xã hội. Theo
C.Mác, “chế độ tư hữu và lao động bị tha hoá là cái làm cho suy nghĩ của con người trở
nên “ngu xuẩn và phiến diện”, làm “thô lỗ hoá” mọi nhu cầu của con người, biến mọi
cảm giác vô cùng đa dạng, phong phú của con người thành “cảm giác chiếm hữu”. Đâu
đâu cũng là hoạt động bóc lột những lực lượng bản chất người; bóc lột, tàn phá tự
nhiên; làm tha hoá con người. Mỗi sản phẩm của người này sáng tạo ra đều như những
miếng mồi nhử nhằm đưa người khác vào cái bẫy sa đoạ, đánh mất nhân tính của mình.
Nền sản xuất của xã hội tư bản đã biến toàn bộ con người thành con người hàng hoá,
thành “một thực thể mất hết tính người cả về tinh thần lẫn thể xác”. Đây chính là tai
hoạ lớn nhất, khủng khiếp nhất mà chế độ tư hữu và lao động bị tha hoá trong xã hội tư
bản đã đưa đến cho con người. Vì thế, C.Mác đã khẳng định, xoá bỏ chế độ tư hữu và
lao động bị tha hoá là lời kêu gọi khẩn thiết nhất nhằm cứu lấy con người, giải phóng
con người(3).
Cũng với tư duy biện chứng duy vật và trên cơ sở kế thừa những tư tưởng tiến bộ của
các nhà triết học, xã hội học tiền bối và đương thời, C.Mác đã khẳng định chủ nghĩa
cộng sản chính là sự phủ định một cách tất yếu, tự nhiên mà lịch sử xã hội loài người

dành cho chế độ tư hữu và cũng là một bước tiến lớn của lịch sử trong sự nghiệp giải
phóng con người, để trả lại những gì mà chế độ tư hữu đã cướp đi, đã lấy đi của con
người. Chủ nghĩa cộng sản ấy là sự giải phóng triệt để mọi lực lượng bản chất của con
người; biến mọi cảm giác, thuộc tính và nhu cầu của con người thành cảm giác, thuộc
tính và nhu cầu xã hội; biến cả thế giới đối tượng thành “thế giới đối tượng có tính chất
người”; giải phóng con người khỏi cả tôn giáo - một biểu hiện cơ bản của sự tha hoá
con người về ý thức, tinh thần và giải phóng con người khỏi cả chế độ tư hữu - nhân tố
cơ bản làm con người tha hoá trong hiện thực. Do vậy, chủ nghĩa cộng sản như là “sự
xoá bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu – sự tự tha hoá ấy của con người”, là “chủ
nghĩa tự nhiên hoàn bị” với tư cách yêu cầu khách quan của cuộc sống, là “chủ nghĩa
nhân đạo hoàn bị”, là “sự chiếm hữu một cách thực sự bản chất con người bởi con
người, vì con người”(4). Chủ nghĩa cộng sản ấy quyết không phải là thứ chủ nghĩa
cộng sản thô lỗ, cùng khổ, phủ nhận toàn bộ sự phát triển của văn hoá, văn minh trước
đó để trở về trạng thái giản đơn, trái tự nhiên, làm mất hết nhu cầu phong phú của con
người, đưa con người xuống địa vị còn thấp hơn cả địa vị của con người trong chế độ
tư hữu.
Nhưng, xóa bỏ chế độ tư hữu một cách tích cực để xây dựng chủ nghĩa cộng sản và
nhằm giải phóng con người là một bài toán vô cùng nan giải mà muốn giải nó, cần phải
trải qua một quá trình rất khó khăn và lâu dài trong hiện thực. Bởi, một mặt, chế độ tư
hữu đã tồn tại hàng ngàn năm; nó đã ăn sâu bám rễ một cách thâm căn cố đế, đã trở
thành nếp cảm, nếp nghĩ như một thói quen cố hữu của triệu triệu con người và do vậy,
việc xóa bỏ nó là hành động con người “tự tước bỏ mình”, hóa thân thành người khác.
Mặt khác, để xóa bỏ chế độ tư hữu, con người cần phải hiểu được bản chất của nó.
Song, như C.Mác đã khẳng định: “Đúng là con người đã hiểu khái niệm chế độ tư hữu,
nhưng nó chưa làm rõ được cho mình bản chất của chế độ đó, và do vậy, chừng nào mà
con người còn chưa nhận thức được “bản chất tích cực của chế độ tư hữu và chưa hiểu
được tính chất con người của nhu cầu” thì họ “còn bị chế độ tư hữu cầm tù và truyền
nhiễm”(5). Hơn nữa, theo C.Mác, “muốn xoá bỏ tư tưởng về chế độ tư hữu, thì tư
tưởng về chủ nghĩa cộng sản là hoàn toàn đủ rồi. Còn muốn xoá bỏ chế độ tư hữu trong
hiện thực thực tế thì phải có hành động cộng sản chủ nghĩa hiện thực”(6).

Chính vì vậy, để giải phóng con người khỏi mọi sự tha hóa, sau này, C.Mác đã tự xác
định cho mình nhiệm vụ phải làm rõ bản chất của chế độ tư hữu và phát hiện, khơi dậy,
tập hợp, phát triển những hành động cộng sản do chính lịch sử đem lại. Cũng do vậy,
ngay sau khi hoàn thành Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 và đến những phút chót
của cuộc đời, C.Mác đã dốc toàn bộ tâm lực của mình vào việc luận giải những vấn đề
lý luận và thực tiễn cách mạng, với mong muốn giúp nhân loại sớm thoát khỏi cảnh
đọa đày, đau khổ để trở về với con người với tất cả những gì tốt đẹp của từ này. Vì thế,
những tác phẩm sau này của C.Mác, như Sự khốn cùng của triết học, Tư bản,… và
những tác phẩm mà C.Mác và Ph.Ăngghen viết chung, dù rất ít, hoặc không trực tiếp
đề cập tới vấn đề giải phóng con người, thậm chí cả khi bàn về vấn đề bạo lực và chiến
tranh, vẫn thấm đượm tinh thần giải phóng con người. Bởi các tác phẩm này, cùng với
những hoạt động thực tiễn của hai ông, đều nhằm đấu tranh với những quan điểm phản
diện, giúp nhân loại nhận thức đúng bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa, nhận thức
đúng chủ nghĩa cộng sản như một nguyên tắc tất yếu, khách quan, tiên quyết của cuộc
sống hiện thực và chỉ ra những con đường, biện pháp đúng đắn để con người, trước hết
là giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động, tự giác đứng lên làm cuộc
cách mạng nhằm “xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu”, xây dựng thành công chủ
nghĩa cộng sản, hoàn thành sự nghiệp giải phóng con người
Đối với con người mới là cán bộ Đảng viên, phải có phẩm chất hết lòng phục vụ nhân
dân, chăm lo đời sống quần chúng - khổ trước nhân dân, sướng sau nhân dân. Muốn xây
dựng con người mới XHCN thì mọi người phải cần, kiệm. Sản xuất mà không tiết kiệm
thì khác nào "gió vào nhà trống". Cần, kiệm để đề phòng lúc khó khăn, và phải biết giữ
gìn của cải tập thể, của Nhà nước và của cá nhân mình. Con người tồn tại luôn có nhu cầu
vật chất và đòi hỏi được thỏa mãn nhu cầu đó. Nhưng chừng nào sản xuất vật chất xã hội
chưa phát triển đến mức thỏa mãn nhu cầu của mọi người thì chưa xóa bỏ được tình trạng
người bóc lột người. Nhân loại nhờ sản xuất đã nâng con người lên cao hơn thế giới động
vật về mặt chủng loại, nhưng trong xã hội, sự phân phối không công bằng chưa nâng con
người lên cao hơn thế giới động vật về mặt xã hội. Cho nên, vẫn còn tình trạng sự thỏa
mãn nhu cầu của một nhóm người này được thực hiện bằng sự hy sinh nhu cầu của đại bộ
phận người khác. Phải phát triển sản xuất - nguyên nhân sâu xa để giải phóng con người.

Nhưng, khi sản xuất chưa phát triển cao thì phải phân phối sao cho xã hội không phát
sinh hiện tượng "tha hóa" con người. Rõ ràng, ở Hồ Chí Minh, khi đề cập đến những vấn
đề của cuộc sống đều được quy về con người, về giải phóng con người trên những quan
điểm triết học đúng đắn.
Tư tưởng nhân đạo của những nhà nhân văn chủ nghĩa khi nói đến nhân đạo thường đề
cập và nhấn mạnh quan hệ tình cảm giữa con người với con người, dĩ nhiên, điều này
không sai, nhưng chưa đầy đủ, bởi quan niệm đó chưa chỉ ra được nguồn gốc sâu xa của
"quan hệ tình cảm". Một xã hội mà con người còn bóc lột con người thì tìm đâu ra tình
thương và lòng nhân ái xã hội phổ biến. Với Hồ Chí Minh thì trong mọi ý nghĩ tình cảm
đều hướng vào giải phóng con người, nghĩa là phải chống bóc lột, áp bức, chống nô dịch,
mọi người phải có cơm ăn, có áo mặc, được học hành. Điều này không chỉ mang ý nghĩa
chính trị, đạo đức, mà có cơ sở khoa học triết học là chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh
xuất phát từ con người và mục tiêu là giải phóng con người. Con người vừa là điểm xuất
phát, vừa là mục đích lý tưởng trong triết lý Hồ Chí Minh và cũng là trong sự nghiệp
cách mạng của Người.

×