Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Môn tác phẩm kinh điển tư tưởng hồ chí minh về phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo trong tác phẩm “sửa đồi lối làm việc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.05 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
Phong cách làm việc có vai trò rất quan trọng, là một trong những yếu
tố cấu thành chất lượng làm việc của người lãnh đạo. Nó quyết định hiệu quả
công việc lãnh đạo. Phong cách làm việc của người lãnh đạo là một nhân tố
quan trọng quyết định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Nó cũng
ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa Đảng và dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta những di sản vô giá, đó
là những tư tưởng của Người về mọi mặt cho cách mạng Việt Nam một trong
những di sản quý báu đó là phong cách làm việc. Phong cách làm việc được
coi là một nét đặc sắc nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã trở thành một trong
những nhân tố quan trọng nâng cao địa vị lấnh đạo của Đảng.
Trong thực tiễn hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến
phong cách làm việc, lãnh đạo, quản lý của cán bộ, đảng viên. Vói tác phẩm
“Sửa đổi ỉốỉ làm việc ”, Người đã để lại những tư tưởng, quan điểm mà nội
dung liên quan đến phong cách làm việc đối với người cán bộ lãnh đạo, quản
lý.
Sửa đổi lối làm việc - Một tác phẩm Bác viết đã trải qua hon 60 năm
nhưng vẫn là những bài học bĩnh dị mà sâu sắc cho chúng ta. Cuốn sách đã
chỉ dẫn, động viên sức mạnh của Đảng, của dân tộc, của quân, dân ta góp
phần đưa cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện giành thắng lợi vẻ vang. Ngày
nay, thực hiện Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh", yêu cầu “làm theo" trở thành nền nếp, thường xuyên đối với mỗi
cán bộ, đảng viên, với tất cả các cơ quan, đơn vị, cuốn “Sửa đổi lối làm việc”
càng ữở nên cần thiết.
Tìm hiểu, nghiên cứu tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, làm theo những
điều chỉ dẫn của Người trong mỗi câu, mỗi ý của tác phẩm này là việc làm rất
bổ ích, thiết thực hiện nay. Mỗi câu, mỗi ý nói lên những việc cụ thể cần làm
và nên làm như thế nào để công tác của mỗi người, mỗi cơ quan, đơn vị hoàn
thành. Với cách viết ngắn gọn, súc tích, mỗi trang, mỗi dòng đều toát lên sự



chân tình, thẳng thắn, gần gũi, ai cũng học được, làm theo được. Đây là cuốn
sách giáo khoa có nội dung sâu sắc, toàn diện về giáo dục, rèn luyện đội ngũ
cán bộ cách mạng của Đảng, của Nhà nước ta.
Thực ra đã từ lâu chúng ta vẫn thường nói đến học tập tư tưởng, đạo
đức và tác phong của Bác Hồ. Văn kiện Đại hội V Đảng Cộng sản Việt Nam
(1982) đã ghi “Đảng phải đặc biệt coi trọng việc học tập một cách có hệ thống
tư tưởng, đạo đức, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh” nhưng lâu nay,
trong thực tế phần tác phong chưa được coi trọng đúng mức.
Vì vậy, em chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm

việc của cán bộ lãnh đạo trong tác phẩm “Sửa đồi lối làm việc”” làm đề tài
tiểu luận kết thúc học phần môn Giới thiệu các tác phẩm kinh điển về xây
dựng Đảng của minh.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo... Bài tiểu
luận này bao gồm 3 chương:
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc của cán bộ
lãnh đạo trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” — Vài nét về tác giả, tác
phẩm
Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc của cán bộ
lãnh đạo trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”
Chương 3: Ý nghĩa thực tiễn và việc vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh
về phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm
việc” giai đoạn hiện nay.


Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHONG CÁCH LÀM VIỆC
CỦA CÁN Bộ LÃNH ĐẠO TRONG TÁC PHẨM “SỬA ĐÔI LỐI LÀM
VIỆC”- VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
1.1.


Vài nét về tác giả hồ chí minh.

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo
được cho mình một phong cách độc đáo trên nhiều phương diện. Bác Hồ là
chính là tấm gương sáng ngời nhất, gần gũi nhất với chúng ta về phong cách
làm việc của người cán bộ lãnh đạo.
Nói về người, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Chúng ta đều thấy sự
nhất quán đến kỳ lạ ở con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ừải qua bao biến
thiên của lịch sử, sự kết hợp hài hòa của nhiều phong thái rất khác nhau ở
trong một con người: Vừa dân tộc vừa quốc tế, vừa rất mực nhân từ vừa triệt
để cách mạng, rất uyên bác mà lại cực kỳ khiêm tốn, rất nguyên tắc về chiến
lược lại rất linh hoạt trong sách lược. Vừa nhin xa trông rộng lại vừa thiết
thực cụ thể, vừa vĩ đại lại vô cùng bình dị”.
1.1.

Vài nét về tác phẩm “sửa đổi lối làm việc”.

1.1.1. Hoàn cảnh ra đòi.
Trong quá trình tiến hành công tác xây dựng Đảng những năm sau
Cách mạng Tháng Tám (1945-1947), Hồ Chí Minh thấy rằng, bên cạnh những
ưu điểm, trong Đảng còn bộc lộ những thiếu sót lớn làm ảnh hưởng không tốt
đến sự nghiệp kháng chiến. Do vậy, tháng 3 năm 1947, Hồ Chí Minh đã gửi
thư cho các đồng chí cán bộ, đảng viên Bắc Bộ và Trung Bộ, trong đó nêu lên
những biện pháp kiên quyết tẩy sạch những khuyết điểm trong Đảng. Nhưng,
qua theo dõi, Hồ Chí Minh thấy sự chuyển biến trong việc khắc phục các
khuyết điểm đó chưa được nhiều. Chính vì thế, tháng 10-1947, vói bút danh
X.Y.Z., Hồ Chí Minh viết xong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, sau đó được
xuất bản lần đầu tiên vào năm 1948.



1.1.2. Nội dung chính
Tác phẩm gồm 6 mục lớn:
I.

Phê bình và sửa chữa

II.

Mấy điều kinh nghiệm

III.

Tư cách và đạo đức cách mạng

IV.

Vấn đề cán bộ

V.

Cách lãnh đạo

VI.

Chống thói ba hoa

Trong mỗi mục có nhiều mục nhỏ được sắp xếp logic chặt chẽ, đảm
bảo tính liên hoàn, chỉnh thể của một tác phẩm lý luận.
1.1.3. Ý nghĩa

Sửa đổi lối làm việc là tác phẩm quan trọng của Chủ Tịch Hồ Chí Minh
về công tác xây dựng Đảng. Đây là một tác phẩm có tính lý luận, tính chiến
và tính thực tiễn sâu sắc. Mặc dù tác phẩm “ Sửa đổi lối làm việc ” không dài
lắm nhưng đã bao quát những vấn đề rộng lớn trong toàn bộ các mỗi quan hệ,
các nguyên tắc, phương pháp, lề lối và cách thức làm việc của Đảng, Nhà
nước và của cán bộ, đảng viên mà trung tâm là mỗi quan hệ giữa người với
người. Người cán bộ, đảng viên được coi như là khâu trung tâm của các mỗi
quan hệ ẩy. Đảng viên, cán bộ là những chiếc cầu nối giữa Đảng, Nhà nước
với nhân dân. “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc
kém”. Sửa đổi lối làm việc là khắc phục khuyết điểm, phát huy ưu điểm của
đội ngũ cán bộ, đảng viên sửa đổi cách lãnh đạo của Đảng để xây dựng mỗi
quan hệ tốt hơn giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân theo nguyên tắc dân làm
chủ.
Tác phẩm “ Sửa đổi lối làm việc ” ra đời cách đây đã hơn 60 năm nhưng
những luận điểm nêu trong tác phẩm còn nguyên gía trị nóng hổi đối với sự
nghiệp cách mạng nước ta hiện nay, đặc biệt với quá trình đổi mới và chỉnh đốn
Đảng, đổi mới đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng trong thời kỳ mới.


Chương 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÈ PHONG CÁCH LÀM VIỆC
CỦA CÁN Bộ LÃNH ĐẠO TRONG TÁC PHẨM
“SỬA ĐỔI LÓI LÀM VIỆC”
2.1.

Khái niệm, vai trò phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo

theo quan điểm hồ chí minh.
2.1.1. Khái niệm.
a.


Khải niệm phong cách : Phong cách là nét riêng trong lối sống

và làm việc của một người hay một hạng, một bộ phận người nào đó.
b.

Khải niệm phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo

Phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo là tổng họp những phương
pháp, biện pháp, cách thức làm việc riêng có, tiêu biểu, tương đối ổn định mà
người cán bộ lãnh đạo sử dụng hàng ngày để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Khi nghiên cứu phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo cần lưu ý 4
điểm:
Một là, Phong cách làm việc được quy định bởi phẩm chất, tri thức,
chức năng, nhiệm vụ, điều kiện hoạt động và sinh sống của cán bộ lãnh đạo.
Hai là, Phong cách làm việc không đồng nhất vói từng biện pháp làm
việc.
Ba là, Phong cách làm việc là cái biểu hiện bên ngoài nhưng luôn phản
ánh phẩm chất bên trong của con người.
Bốn là, Phong cách làm việc bao hàm cả 2 mặt ổn định tương đối và
linh hoạt mềm dẻo.
2.1.2. Vai trò phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo.
Phong cách làm việc là một trong những yếu tố cấu thành chất lượng
làm việc của người lãnh đạo. Nó quyết định hiệu quả công việc lãnh đạo.
Phong cách làm việc của người lãnh đạo là một nhân tố quan trọng quyết định
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Phong cách làm việc của người lãnh đạo ảnh hưửng tới mối quan hệ


giữa Đảng và dân. Nội dung, yêu cầu phong cách làm việc của cán bộ lãnh

đạo theo quan điểm hồ chí minh.
2.2.1. Phong cách làm việc phải có sự thống nhất cao giữa tính
Đảng, tính nguyên tắc với tính năng động, sáng tạo, nhạy cảm vói cái
mới.
Đây là hai mặt của một yêu cầu thống nhất, không thể tách rời trong
phong cách làm việc của người lãnh đạo. Biểu hiện của tính đảng, tính nguyên
tắc cao ở người cán bộ lãnh đạo là:
-

Lòng trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng, với lợi ích

của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đổi mới và phát
triển đất nước. Kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
-

Bất cứ công việc gì, trong bất cứ hoàn cảch, điều kiện nào,

người cán bộ lãnh đạo đều phải luôn xuất phát từ quan điểm, đường lối của
Đảng, đúng với chính sách, pháp luật của nhà nước.
-

Mọi hoạt động của người cán bộ lãnh đạo phải đặt lợi ích của

cách mạng, dân tộc lên trên hết, phải thực sự vì dân.
Tính năng động, sáng tạo biểu hiện trước hết ở tính chủ động, sáng tạo
trong cụ thể hoá quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng cho phù họp với
địa phương, đơn vị, đổi mới nội dung, phương pháp công tác theo hướng hiện
đại hoá, nâng cao hiệu quả công tác, nhạy bén với cái mới.
Người cán bộ lãnh đạo phải có tính đảng, tính nguyên tắc cao. Tuy
nhiên, cuộc sống và xã hội luôn vận động và phát triển, trong hoạt động,

người cán bộ lãnh đạo không nên thực hiện một cách máy móc, giáo điều mà
cần chủ động, sáng tạo, nhanh nhạy linh hoạt với sự phát triển mới của tình
hình để tìm, chọn giải pháp tối ưu phù hợp với điều kiện, không gian, thời
gian và đối tượng cụ thể. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng ai không có sáng kiến
thì không phải người lãnh đạo. Người cũng đã dạy : “Dĩ bất biến, ứng vạn
biến” nghĩa là: mục đích phải luôn “cứng rắn”, nhưng biện pháp để đạt mục
đích phải hết sức linh hoạt, mềm dẻo.


Trong tình hình hiện nay, trước đòi hỏi phải đổi mới, người lãnh đạo
phải xử lý tốt giữa yêu cầu phải năng động, sáng tạo với giữ vững những
nguyên tắc chính trị, công tác và cuộc sống; phải rèn luyện bản lĩnh chính trị
và sự cảnh giác cao độ trước những “mũi tên bọc đường”, những thủ đoạn
tinh vi tấn công vào đội ngũ cán bộ của các thế lực thù địch, các phần tử cơ
hội và của chính kẻ địch trong bản thân mình.
2.2.2. Phong cách làm việc thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng
vói tính khách quan khoa học.
Nhiệt tình cách mạng là yếu tố cơ bản trong phẩm chất của người lãnh
đạo. Có nhiệt tình cách mạng thì người cán bộ lãnh đạo mới đủ sức gánh vác
trách nhiệm vẻ vang ngày càng nặng nề trước dân, trước Đảng trong sự
nghiệp cách mạng hiện nay. Song nhiệt tỉnh cách mạng chỉ thực sự đem lại
hiệu quả thiết thực cho cuộc sống của nhân dân khi thống nhất, tôn trọng và
tuân theo quy luật khách quan. Phải biết phân tích, đánh giá đúng thực chất
tình hình, xem xét, cân nhắc kỹ hoàn cảch cụ thể, xác định rõ các mối liên hệ
bên trong và bên ngoài có liên quan đến công việc. Phải có tầm nhìn xa, trông
rộng, biết giải quyết một cách khoa học giữa nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ
lâu dài. Có như vậy, người cán bộ lãnh đạo mới hoàn thành nhiệm vụ, tránh
được những sai lầm, hành động chủ quan, tuỳ tiện. Nhiệt tình cách mạng sẽ
trở thành duy tâm, duy ý chí nếu thiếu tri thức khoa học. Có nhiệt tình mà
thiếu tri thức sẽ trở thành kẻ phá hoại. Người cán bộ giữ chức vụ càng cao thì

việc xây dựng phong cách làm việc khách quan, khoa học càng quan trọng và
cần thiết.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trước đây đã thẳng thắn chỉ rõ nhiệt
tĩnh cộng với dốt nát thì sẽ thành đại phá hoại. Trong quá khứ, chúng ta đã có
quá nhiều bài học về những quyết định quan trọng mang đầy tâm huyết, nhiệt
thành nhưng thiếu tính khoa học nên đã phải trả giá rất đắt. Trong thế giới
đang biến đổi nhanh chóng, phức tạp do tác động của cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ và tình hỉnh chính trị, kinh tế đa dạng, phức tạp hiện nay, vấn


rt

đề xây dựng phong cách làm việc có tính khoa học cao càng trở nên quan
trọng hơn bao giờ hết.
Đe xây dựng, rèn luyện phong cách làm việc khách quan, khoa học, đòi
hỏi người cán bộ lãnh đạo:
Bài tiểu luận
Mọi việc phải có điều tra, nghiên cứu, phân tích toàn diện; phải tôn
trọng qui trình ra quyết định, xây dựng nhiều phương án, tranh thủ ý kiến
chuyên gia. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn:
“Gặp mỗi vấn đề, ta phải đặt câu hỏi:
Vì sao có vấn đề này?
Xử trí như thế này, kết quả sẽ ra sao?
Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ
gặp sao làm vậy”1; “việc gì cũng phải điều tra rõ ràng cẩn thận và phải làm
đến nơi đến chốn”. Đối với những vấn đề mới, phức tạp, đặc biệt quan trọng,
có ảnh hưởng lớn tới đời sống xã hội cần được làm thử trước khi quyết định.
Không ra quyết định khi chưa có thông tin đầy đủ, chưa có phương án tính
toán hiệu quả. Tránh chủ quan, duy ý chí.
Phải xây dựng thói quen tôn trọng thực tế khách quan, kiên quyết

không bóp méo sự thực để chạy theo thành tích. Thói “báo cáo láo”, “làm
được ít, suýt ra nhiều” là có tội với Đảng, với dân.
Xây dựng lối làm việc có tầm nhìn xa, có thói quen dự báo tình hình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán gay gắt những cán bộ mắc bệnh “cận thị”,
không biết lo tính những kế hoạch hành động then chốt, lâu dài mà chỉ biết
chạy theo công việc sự vụ trước mắt.
Tôn trọng và làm việc theo chức trách, chế độ công tác, chương trình,
kế hoạch đã đề ra, tránh lối làm việc ngẫu hứng, tuỳ tiện.

-t-Ạ • w Ạ • w 1

•/»


?

2.2.3. Phong cách làm việc dân chủ, tập thể những phải có tính
quyết đoán và tinh thần trách nhiệm cao.
Đặc trưng này xuất phát từ nguyên tắc tập trung dân chủ. Phong cách
làm việc dân chủ, tập thể là một yêu cầu không thể thiếu đối với người cán bộ
lãnh đạo, nó vừa cho phép phát huy trí tuệ tập thể, hạn chế sai lầm, vừa giúp
tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Người cán bộ bao giờ cũng
gắn liền với tổ chức, với tập thể. Tập thể là nguồn sức mạnh và trí tuệ của
Đảng. Một tập thể mạnh là tập thể đó có dân chủ thực sự, mất dân chủ trong
các tập thể sẽ dẫn đến mất dân chủ trong Đảng và tất yếu sẽ làm cho Đảng đối
lập với nhân dân. Nhưng có ý thức tập thể cao, tôn trọng và lắng nghe ý kiến
tập thể, biết phát huy trí tuệ của tập thể song lại không có tính quyết đoán,
không dám chịu trách nhiệm cá nhân thì không có những quyết định kịp thời,
không đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của cuộc sống.
Vi vậy, phong cách làm việc của người cán bộ lãnh đạo hiện nay phải

kết hợp, thống nhất giữa làm việc dân chủ, tập thể với tính quyết đoán và tinh
thần trách nhiệm cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Lãnh đạo không tập
thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc.
Phụ trách không do cá nhân, thi sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô
chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc.”
Từ những kinh nghiệm lịch sử và trong bối cảnh thực hiện cơ chế thị
trường hiện nay, việc xây dựng phong cách làm việc kết hợp nhuần nhuyễn
giữa cách làm việc dân chủ, tập thể, tính quyết đoán, dám chịu trách nhiệm cá
nhân càng là một đòi hỏi bức thiết.
Mỗi người lãnh đạo cần nắm vững và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc
tập trung dân chủ trong công tác, xây dựng thói quen lắng nghe ý kiến của tập
thể, nhất là tập nghe cho được những ý kiến khác, trái với mình. Muốn vậy
cần rèn luyện đức tính khiêm tốn, cầu thị, trung thực, thẳng thắn, khoan dung,
nhân ái, luôn đặt lợi ích của dân, của nước lên trên hết, trước hết. Mặt khác,
người cán bộ lãnh đạo phải rèn luyện tính quyết đoán và tinh thần trách nhiệm

jr


r

cá nhân cao trong công việc. Sau khi đã nghe, đã thảo luận dân chủ, đã rõ vấn
đề thì phải quyết đoán, có quyết tâm cao, dám chịu trách nhiệm về những
quyết định của mình. Tính quyết đoán khác hẳn sự độc đoán, gia trưởng ở chỗ
người độc đoán, gia trưởng thường quyết định bằng chủ quan là chính, quyền
uy là chính, còn người lãnh đạo quyết đoán là trên cơ sở phát huy dân chủ.
2.2.4. Phong cách ỉàm việc có sự thống nhất giữa nhận thức vói
hoạt động thực tiễn, nói đỉ đôi vói làm.
Nhận thức đứng đắn là một yếu tố không thể thiếu đối với người lãnh
đạo, nhưng nhận thức đó phải được ứng dụng trong thực tiễn, phục vụ thực

tiễn. Cũng như vậy, phong cách lời nói đi đôi với việc làm của người cán bộ
lãnh đạo là những mệnh lệnh không lời đầy sức thuyết phục cho cán bộ dưới
quyền và quần chúng noi theo.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, hoạt động lãnh đạo thường được
thông qua nhiều khâu, nhiều tổ chức với những cơ chế làm việc đa dạng, phức
tạp nên dễ sinh ra bệnh “hình thức”, bệnh “hữu danh vô thực”, bệnh hứa
suông, gây mất uy tín của Đảng, Nhà nước, làm giảm sút lòng tin của nhân
dân và tạo sơ hở cho các phần tử xấu lợi dụng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
phê phán: “Trong Đảng ta có một số người như thế. Chỉ biết nói là nói, nói
giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực
cũng không làm được.”
Để chữa bệnh hình thức, xây dựng phong cách làm việc thiết thực,
người cán bộ lãnh đạo khi ra các quyết định, kế hoạch cần căn cứ vào tình
hình thực tế, năng lực của tổ chức, của đội ngũ cán bộ, trình độ, thói quen,
tâm lý, nguyện vọng của quần chúng nhân dân, luôn tính đến hiệu quả công
việc, chỉ nói những điều cần thiết, chỉ hứa những điều có thể làm, điều nhất
định làm. Đã ra nghị quyết là phải chỉ đạo làm đến nơi đến chốn, kiểm tra ráo
riết.
Người là tấm gương sáng về nói đi đôi với làm cho mọi người học tập
và làm theo, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá: “Mọi lời nói, việc


làm của Hồ Chí Minh đều thiết thực và cụ thể. Nói là làm, thường là làm
nhiều hom nói, có khi làm mà không cần nói, tư tưởng hiện ra trong hành
động”
2.2.5. Phong cách làm việc sâu sát cơ sở, gắn bó chặt chẽ với quần
chúng nhân dân.
Cơ sở là nơi hàng triệu quần chúng, đảng viên sống, làm việc, là nơi
đường lối, chủ trương lãnh đạo được thực tế kiểm nghiệm.
Sâu sát cơ sở, liên hệ mật thiết với nhân dân là yêu cầu xuất phát từ mối

liên hệ bản chất giữa Đảng với quần chúng. Đảng ta ngày càng lớn mạnh
chính là nhờ có mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân. “Dễ mười lần không dân
cũng chiụ, khó trăm lần dân liệu cũng xong”.

•5»

r

Còn sâu sát cơ sở là một bài học kinh nghiệm quý báu của Đảng được
đúc kết từ thực tiễn. Chỉ có sâu sát cơ sở mới kiểm nghiệm được sự đúng đắn
của các chủ trương, chính sách trong cuộc sống, mới phát hiện được sự đúng,
sai trong chấp hành của cơ sở, mới thấy hết được những nhân tố mới, những
điển hình tiên tiến để ủng hộ và nhân rộng ra, mới có cơ sở để hoạch định
những chủ trương mới, những quyết định sát đúng, thiết thực kịp thời đáp ứng
được yêu cầu của cuộc sống đặt ra. Đồng thời, sâu sát cơ sở mới giúp người
cán bộ lãnh đạo thu nhận, học hỏi được những kinh nghiệm thực tiễn phong
phú, nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân để nâng
cao năng lực lãnh đạo, ra được những quyết định lãnh đạo sát hợp, kịp thời,
tránh được những sai lầm chủ quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng: “Có lực
lượng dân chứng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì
việc gì cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách
đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn,
nghĩ mãi không ra”. Người căn dặn cán bộ phải luôn gần gũi, lắng nghe ý
kiến quần chúng, biết dựa vào quần chúng để làm việc; phải biết tim ra những
hình thức tổ chức, cách làm việc phù hợp với trình độ, tâm lý, tập quán của
quần chúng; cách tổ chức và làm việc nào không hợp với quần chúng thì phải


_



9

r


IÁ • f ^

thay đổi.
Ngoài chế độ phân công phụ trách cơ sở của cấp ủy, mỗi người cán bộ
lãnh đạo phải tự xây dựng cho minh kế hoạch làm việc đảm bảo nắm thật
vững tình hình cơ sở, gắn bó với quần chúng, với cấp dưới. Khi giải quyết vấn
đề phải đi đến tận nơi, xem tận chỗ, tránh chỉ nghe qua báo cáo; cần mạnh dạn
áp dụng các hình thức đi cơ sở kiểu “vi hành” và hạn chế tối đa kiểu đi cơ sở
có “cờ rong, trống mở”.
2.3. Đôi mới phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo theo tư
tưởng hồ chí minh
2.3.1 Tính tất yếu phải đổi mới phong cách làm việc của cán bộ
lãnh đạo theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2.3.1.1.

Xuất phát từ yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa- hiện

đại hóa đất nước
Những thập niên cuối thế kỷ XX, khoa học công nghệ phát triển như vũ
bảo, với những thành tựu đáng khích lệ của khoa học công nghệ đã đưa nước
ta bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khi những thành
tựu của cách mạng khoa học công nghệ đã tạo bước chuyển lớn về chất trong
tầm nhìn, cách nghĩ, lối làm ăn của con người trong toàn xã hội; tạo ra những
điều kiện và khả năng mới trong lao động, lãnh đạo, quản lý; làm xuất hiện

những mối quan hệ đa dạng, nhiều chiều giữa các quốc gia, dân tộc có chế độ
chính trị khác nhau. Nhân tố khách quan đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo
quản lý phải đổi mới toàn diện. Trong đó, đổi mới về phong cách làm việc
khoa học trong nền kinh tế mới (nền kinh tế tri thức) là yêu cầu quan trọng
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay
2.3.1.2.

Cuộc vận động chỉnh đốn xây dựng đảng hiện nay đang

đặt ra và đòi hỏi đội ngũ lãnh đạo của Đảng cần sửa đỗi lối làm việc để có
một phong cách làm việc khoa học
Mục đích của cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay đang


đặt ra và đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng phải có một phong cách
làm việc khoa học; xét cho cùng là nhằm củng cố, nâng cao sức mạnh của tổ
chức đảng và nâng cao chất lượng của người cán bộ, đảng viên ngang tầm yêu
cầu của tình hình mới hiện nay. Xứng đáng là đội tiên phong chính trị của giai
Gấp và dân tộc. Đe đạt được kết quả tốt đẹp trong cuộc vận động này, hoàn

toàn tùy thuộc vào khả năng và kết quả giải quyết đồng bộ các yếu tố hình
thành chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Trong đó phong cách
làm việc của người lãnh đạo được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu, xuyên
suốt trong xây dựng Đảng và mọi khâu trong quy trĩnh hoạt động lãnh đạo
của Đảng.
Đảng ta đã khẳng định rằng: “Cải tiến phương pháp lãnh đạo và tác
phong công tác là một bộ phận không thể tách rời khỏi việc kiện toàn bộ máy
tổ chức của Đảng, một yêu cầu bức thiết để nâng cao năng lực lãnh đạo và cải
tiến tổ chức, chỉ đạo thực hiện của Đảng, Đây là một vấn đề lớn trong công
tác lãnh đạo của Đảng ta, là một yếu tố đặc biệt trọng yếu để đảm bảo tính

chính xác của việc ra các quyết định và biến nó thành hiện thực” .
Thực tế, tiến hành lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua các giai đoạn đã
cho thấy: chất lượng và hiệu quả của việc quyết định, tổ chức thực hiện quyết
định, việc kiểm tra, tổng kết đều tùy thuộc một phần rất quan trọng ở phong
cách làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo Đảng, nhất là đội ngũ lãnh đạo chủ
chốt ở các cấp, các ngành
2.3.13. Phong cách làm việc của người lãnh đạo phải được đổi mới
để thích ứng với yêu cầu và trình độ phát Men ngày càng cao của đối
tượng lãnh đạo
Khi đã giành được chính quyền, với tư cách là người chủ, quần chúng
nhân dân được quyền tham gia vào mọi hoạt động chung của cộng đồng, từ
việc xây dựng chủ trương, phương hướng, quy chế hoạt động, tìm kiếm biện
pháp để thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, đơn vị, đến việc tham
gia giám sát hoạt động của lãnh đạo, quản lý. Quyền làm chủ đó được thực thi


trên nền tảng dân trí ngày một phát triển, một bộ phận không nhỏ trong cộng
đồng đang từng đang từng bước được chuyên môn hóa và trí thức hóa. Bước
nhảy vọt về chất của đối tượng lãnh đạo, đặt ra và đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước phải đổi mới cách nghĩ, cách làm, tạo cho
mình một phong cách làm việc phù hợp với trình độ của đối tượng. Yêu cầu
đó lại càng quan trọng, bức xúc hơn khi dân chủ đang là xu thế của thời đại,
đang ngày càng lan tỏa, thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tình
hình trên đây đòi hỏi các nhà lãnh đạo quản lý phải chuyển đổi cà nội dung và
phong cách làm việc cho phù hợp với sự phát triển mới của tỉnh hình.
2.3.2. Nội dung đổi mới phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo Một
là, phải có tinh thần trách nhiệm cao khi thực hiện nhiệm vụ chính trị cửa
mình.
Bất kể làm một việc gì mà có trách nhiệm cao thì người cán bộ đều có
khả năng tạo ra hiệu quả công tác tốt. Nêu cao trách nhiệm của người cán bộ

trước Đảng, trước đon vị, trước dân, do đó, là một phong cách cơ bản, chủ
yếu nhất và quan trọng nhất, có tính chất tiên quyết trong việc đổi mới phong
cách công tác của cán bộ, đảng viên.
Nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác sẽ làm cho người cán bộ
biết sắp xếp công việc một cách khoa học, hợp ỉỷ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Từ
nay bất kỳ việc gì, chúng ta phải bắt đầu từ gốc, dần dần đến ngọn, từ ít đến
nhiều, từ hẹp đến rộng, chớ nên tham mau, tham nhiều trong một lúc”. Quan
điểm sau đây của Hồ Chí Minh tuy cách ngày nay trên 60 năm vẫn còn
nguyên tính thời sự: “Bất kỳ địa phương nào, cơ quan nào, thường trong một
lúc có nhiều công việc trọng yếu. Trong thời gian đó, lại có một việc trọng
yếu nhất và vài ba việc trọng yếu vừa. Người lãnh đạo trong địa phương hoặc
cơ quan đó phải xét kỹ hoàn cảnh mà sắp đặt công việc cho đúng. Việc chính,
việc gấp thì làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc
nào, làm việc ấy, thành thử việc nào cũng là việc chính, lộn xộn, không có
ngăn nắp”


Tính ngăn nắp, gọn gàng đi liền với nhìn xa trông rộng giúp người cán
bộ chủ động trong công việc, không ôm đồm, không bỏ sót việc và công việc
sẽ có hiệu quả từng bước một để giành thắng lợi trong tổng thể. Công tác của
người cán bộ trong lực lượng vũ trang vốn là công tác đòi hỏi tính thời gian
chặt chẽ, đúng hạn. Muốn thế, phải đề ra được kế hoạch công tác của đơn vị,
cá nhân phù hợp với yêu cầu và hoàn cảnh cụ thể, phù hợp với từng đơn vị.
Trên cái nền cơ bản của Quân đội cũng như của cả nước, mỗi đơn vị, mỗi cá
nhân lại có yêu cầu riêng. Kế hoạch của mỗi cá nhân phải phục tùng và phù
hợp với kế hoạch chung của đơn vị. Một kế hoạch được coi là tốt khi kế
hoạch đó phản ánh được yêu cầu ?
Bài tiêu luận
của nhiệm vụ chính trị mà đơn vị được giao, kế hoạch đó phải có bước
đi, tiến độ triển khai phù hợp, sát thực, chắc chắn, khả thi.

Nêu cao tinh thần trách nhiệm sẽ làm cho người cán bộ có phong cách
lãnh đạo tốt trong việc kết hợp lãnh đạo chung với chỉ đạo riêng như Hồ Chí
Minh nêu trong “Sửa đổi lối làm việc”. Hồ Chí Minh còn nêu thí dụ cụ thể:
trong công tác chỉnh đốn Đảng, ngoài những kế hoạch chung, mỗi cơ quan và
mỗi cán bộ phải chọn vài ba bộ phận trong cơ quan, đơn vị đế nghiên cứu rõ
ràng và xem xét kỹ lưỡng sự phát triển trong những bộ phận đó. Đồng thời,
trong vài ba bộ phận đó, người cán bộ lãnh đạo lại chọn năm ba người cán bộ
kiểu mẫu, nghiên cứu kỹ càng lịch sử của họ, kinh nghiệm, tư tưởng, tính nết
của họ, sự học tập và công tác của họ để giúp họ giải quyết công việc thực tế.
Nêu cao tinh thần trách nhiệm sẽ làm cho người cán bộ có quyết tâm
thực hiện tốt kế hoạch công tác. Tinh thần quyết tâm trong việc thực hiện kế
hoạch công tác không có điểm chung với sự chủ quan, duy ý chí. Hồ Chí
Minh cho rằng, nếu kế hoạch 10 phần thì quyết tâm thực hiện kế hoạch phải
20 phần. Một người có tài kinh bang tế thế mà không có quyết tâm “dời non
lấp biển” trong hành động thì cái tài đó không có đắc dụng và chẳng có ích gì
cho đời. Với quyết tâm trên cơ sở khoa học và với ý chí cách mạng thì người


cán bộ sẽ được nhân lên sức mạnh vượt qua bao khó khăn trở ngại để hoàn
thành nhiệm vụ mà Đảng, Quân đội và nhân dân giao cho. Hồ Chí Minh chính
là con người của sự quyết tâm cách mạng, của ý chí “Không có việc gì khó.
Chỉ sợ lòng không bền. Đào núi và lấp biển. Quyết chí ắt làm nên”, của quyết
tâm “Dù đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải quyết tâm giành cho được
độc lập” trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, của tinh thần chống
thực dân Pháp tái xâm lược sau năm 1945, vì chúng ta nhất quyết không cam
chịu làm nô lệ một lần nữa, bất kể mọi người Việt Nam không phân biệt đảng
phái, giàu nghèo, gái trai, dân tộc.. .đứng lên cầm mọi thứ có trong tay để bảo
vệ nền độc lập của nước nhà với tinh thần ai có súng dùng súng, ai có gươm
dùng gưam, không có súng gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Hồ Chí
Minh còn là biểu tượng sáng ngời của quyết tâm chống Mỹ, cứu nước, của

tinh thần “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải tiếp tục
chiến đấu quét sạch nó đi”, là “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20
năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có
thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quỷ hơn
độc ỉập, tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước đàng
hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Sửa đôi lôi làm việc

Hai là, phong cách làm việc của người cản bộ lãnh đạo hiện nay
phải luôn luôn được đỗi mới trên cơ sở có nhiều sáng kiến, thường xuyên
tồng kết công tác, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ.
Đề cập vấn đề sáng kiến, Hồ Chí Minh cho rằng: Sáng kiến là “kết quả
của sự nghiên cứu, suy nghĩ trong những hoàn cảnh, trong những điều kiện rất
tầm thường, rất phổ thông, rất thiết thực”. Như Hồ Chí Minh quan niệm, sáng
kiến không có gì là cao xa, mà là “bất kỳ việc to việc nhỏ, hễ thêm điều lợi,
trừ điều hại cho quần chủng, giúp quần chúng giải quyết vẩn đề khó khăn,
tăng kết quả của việc làm, tăng sức sản xuất của xã hội, đảnh đổ sức áp bửc
của quân thù, đó đều là sáng kiến”. Trong thực tế công tác, người cán bộ nào


hay có sáng kiến thì chính đó là người luôn luôn năng động, hăng hái, bất kể
trong việc gì, to hay nhỏ. Người đó chính là đầu tàu của phong trào thi đua
yêu nước, thi đua một cách thiết thực, có hiệu quả, không chạy theo thành
tích, không “đánh trống bỏ dùi”, không “có ít xuýt ra nhiều”.
Sáng kiến là hệ quả của phong cách làm việc của người cán bộ chú
trọng đến việc thường xuyên tổng kết công tác. Có tổng kết công tác thì mới
thấy rõ những ưu điểm, hạn chế, khuyết điểm của bản thân và của đơn vị để
tiếp tục phát huy những ưu điểm, khắc phục khuyết điểm để tiến bộ. Quá trình
đó là một quá trình được tiến hành thường xuyên và đó là quá trình phủ định
biện chứng theo chu trình xoáy ốc, làm cho cá nhân người cán bộ cũng như

đơn vị lớn mạnh thêm, tự hoàn thiện mình trên con đường phát triển. Trong
điều kiện thời bình hiện nay, thiết nghĩ trong công tác của Quân đội, cũng
phải chú ý vận dụng quan điểm rất có ý nghĩa thời sự sau đây của Hồ Chí
Minh trong “Sửa đổi lối làm việc”: “Công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất
bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết
luận. Kết luận đó sẽ là cái thìa khoá phát ừ-iển công việc và để giúp cho cán
bộ tiến tới. Có như thế thi người mới có tài, tài mới có dụng”. Thực tế hoạt
động của các đơn vị trong Quân đội cho hay đơn vị nào chú trọng tổng kết
công tác, tổng kết một cách thiết thực, thì người cán bộ sẽ luôn luôn ở vào
trạng thái “động não”, năng động, và như thể thì từng cá nhân và cả toàn đơn
vị sẽ luôn tiến bộ vì họ luôn được “nạp” thêm năng lượng mới từ cuộc sống.
Phong cách lãnh đạo của người cán bộ không tách rời việc chú trọng
kiểm tra, kiếm soát chặt chẽ công việc của đơn vị. Thật có lý khi trong công
tác xây dựng Đảng, nhiều người cho rằng, nếu lãnh đạo mà không kiểm tra,
kiểm soát thì coi như không lãnh đạo. Hồ Chí Minh cho rằng: “Muốn chống
bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, muốn biết các nghị quyết có được thi hành
không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện,
chỉ có một cách, là khéo kiểm soảf\ Công tác kiểm soát nếu được thực hiện tốt
thì sẽ biết được ưu điểm, khuyết điểm của từng cá nhân và tập thể đơn yị,


“mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các mệnh lệnh và nghị quyết”. Theo
Hồ Chí Minh, kiểm soát có hai cách: từ trên xuống và từ dưới lên, theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình.
Ba là, yêu cầu đồi mởi phong cách làm việc của người cán bộ lãnh
đạo theo quan điểm của Hồ Chí Minh là phải sâu sát, gần gũi dân , có tinh
thần phụ trách trưởc dân.
Trách nhiệm của cán bộ, đảng viên đối với dân, nói một cách khái quát,
là phải hiếu với dân. Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ,
một lòng trung YỚi Đảng, hiếu với dân. Trong giai đoạn Đảng cầm quyền

hiện nay ở nước ta, người cán bộ càng đứng ở vị trí cao của quyền lực, càng
dễ bị xa dân. Hiếu với dân, như quan niệm của Hồ Chí Minh, là coi cán bộ,
đảng viên phải là người lãnh đạo đồng thời là người đày tớ thật trung thành, là
“trâu ngựa” của dân (Từ wgmz ” là từ của Hồ Chí Minh dùng trong Lời kết
thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam, ngày 3-3-1951, sau Đại hội II
của Đảng).
Từ trước đến nay, Đảng đã có rất nhiều nghị quyết, chỉ thị về tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng đối với dân. Đã có cả một cơ chế “Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; có cả phương châm “Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; có cả bài học quan trọng mà Đại hội VI năm
1986 rút ra là “Lấy dân làm gốc”; có cả tổ chức các ban chuyên trách, tham
mưu của các cấp uỷ Đảng là các Ban Dân vận. Đảng đã có Nghị quyết 8B
Khoá VI chuyên về công tác vận động quần chứng. Nhà nước có một loạt luật
để điều chỉnh quan hệ xã hội của các tổ chức chính trị-xã hội. Bấy nhiêu chủ
trương, biện pháp, song hiệu quả vẫn còn thấp. Hội nghị Trung ương 6 Khoá
X đã ra nghị quyết liên quan đến việc xây dựng và tăng cường sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở Đảng. Vấn đề cơ bản hiện nay là hãy bắt tay vào hành động,
hành động một cách tích cực, kiên quyết, có hiệu quả. Quân đội ta có truyền
thống gắn bó chặt chẽ với nhân dân, “quân với dân như cá vói nước”, cần giữ
gìn và phát huy truyền thống đó trong điều kiện hoà bình, trong cơ chế mới


hiện nay.
Trước hết, phải tích cực hơn nữa trong việc chổng quan liêu. Hồ Chí
Minh viết: “Những người phụ trách dân vận cần phải có óc nghĩ, mắt trông,
tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không chỉ nói suông, chỉ ngồi viết
mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc”. Bệnh quan liêu là bệnh
thường hay mắc phải trong điều kiện Đảng cầm quyền nếu cán bộ, đảng viên
không chịu rèn luyện phong cách công tác cũng như nâng cao tinh thần trách
nhiệm. Chính là bệnh quan liêu cộng với bệnh tham ô, bệnh lãng phí đã bị Hồ

Chí Minh coi là “giặc nội xâm”, “thứ giặc ở trong lòng”, nó “nguy hiểm hơn
bọn Việt gian, mật thám”.
Đồng thời, trong quan hệ với dân, phải sâu sát, tỷ mỉ, có phương pháp
tốt. Liên quan đến yêu cầu trên đây, cán bộ vận dụng và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh trong phong cách công tác, có thể ở một số vấn đề như: Phải
giải thích cho dân hiểu rõ lợi ích và trách nhiệm của mình; phải bàn bạc với
dân để hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân; đặt kế hoạch thiết thực; tổ chức
toàn dân thực hiện kế hoạch; trong quá trình thực hiện kế hoạch, phải theo
dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích nhân dân giải quyết những việc khó
khăn; khi thực hiện xong, phải cùng với dân xem xét lại công việc đã làm, rút
kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng. Như vậy, phải nói cho dân hiểu, phải
hiểu dân nói và nói đi đôi với làm, làm những điều ích quốc, lợi dân với tinh
thần “việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ, ta cũng phải cố gắng làm; việc gì có hại
cho dân, dù nhỏ, ta cũng phải cố tránh”.
Phải coi trọng hơn nữa công tác dân vận. Tinh thần biện chứng của Hồ
Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” là ở chỗ: Người không sa vào
chung chung, mà đề cập vấn đề dân trong thang bậc của ý thức giác ngộ chính
trị. Người chia dân làm ba loại (hoặc ba hạng): tiên tiến, vừa vừa, lạc hậu.
Như vậy, nhiệm vụ của người cán bộ là phải làm cho dân giác ngộ để đưa dân
lên hàng “dân tiên tiến”. Trong công tác dân vận, tránh “theo đuôi quần
chúng”, tránh mỵ dân. Theo phong cách Hồ Chí Minh, người cán bộ phải thật


sự gần dân, hiểu dân, vì dân và muốn thế, phải làm tốt công tác dân vận. Đảng
có tồn tại và phát triển được hay không, Quân đội ta có ngày càng hùng mạnh
hay không hoàn toàn phụ thuộc vào mối quan hệ bền chặt với nhân dân.
Phong cách công tác của người cán bộ trong giai đoạn hiện nay, do đó, càng
cần nhấn mạnh đến hành động trên thực tế gần dân, hiểu dân, vì dân và có
trách nhiệm đối với dân.
Xây dựng phong cách làm việc khoa học, trước hết là trách nhiệm của

mỗi người cán bộ lãnh đạo, đồng thời cũng là trách nhiệm của tổ chức. Trên
cơ sở nắm vững những yếu tố tác động đến hình thành phong cách làm việc,
tổ chức thường xuyên coi trọng giáo dục lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước, nhằm không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cho cán bộ;
có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kiến thức một cách toàn
diện cho cán bộ, đảng viên nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng giai
đoạn cách mạng. Đồng thời, tùy theo chức năng, nhiệm vụ vủa mình, từng tổ
chức cần xây dựng cơ chế quản lý và quy chế làm việc thích hợp, tạo môi
trường thuận lợi cho cán bộ rèn luyện, xây dựng phong cách làm việc khoa
học.
Mỗi cán bộ phải tự giác học tập, rèn luyện cho mình một phong cách
làm việc khoa học để hoàn thành tốt trọng trách được giao. Một trong những
con đường đi tới mục tiêu ấy là từng cán bộ hãy xây dựng và kiên trì thực
hiện đúng các khâu trong quy trình hoạt động của người cán bộ lãnh đạo:
chuẩn bị ra quyết định, tổ chức thông qua quyết định, lập chương trình kế
hoạch công tác, tổ chức thực hiện kế hoạch, kết thúc thực hiện kế hoạch.
Ở mỗi cấp, phạm vi, chức năng, nhiệm vụ có thể rộng hẹp khác nhau,
nhưng dù ở cấp nào, người cán bộ lãnh đạo cũng đều phải tuân theo quy trĩnh
hoạt động trên. Điều quan trọng là trong từng khâu, phải căn cứ vào đặc điểm,
yêu cầu nhiệm vụ của từng địa phương, từng ngành, từng thời kỳ mà tiến
hành những thao tác cho phù hợp, thiết thực, có hiệu quả.


Công cuộc đổi mới và phát triển đất nước đang bước vào thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo của
Đảng phải có phong cách làm việc mới, khoa học, thiết thực và có hiệu quả
cao. Đó là yêu cầu không chỉ của lịch sử, của cuộc sống hôm nay mà còn là
yêu cầu của tương lai.



Chương 3
Ý NGHĨA TIỈỤC TIỄN VÀ VIỆC VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ PHONG CÁCH LÀM VIỆC CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO
TRONG TÁC PHẨM “SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC” GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY
3.1. ý nghĩa thực tiễn của tư tưởng hồ chí minh về phong cách làm
việc của cán bộ lãnh đạo trong tác phẩm “sửa đổi lối làm việc”.
Thực tiễn chứng minh những quan điểm về phương pháp, phương thức
hay phong cách công tác của cán bộ, đảng viên, trong tấc phẩm “Sửa đổi lối
làm việc” của Hồ Chí Minh vẫn còn giá trị với cách mạng Việt Nam hiện nay
đặc biệt là trong công tác xây dựng Đảng.
“Sửa đổi lối làm việc” thể hiện quan điểm của Hồ Chí Minh về việc
vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của V.I.Lênin về xây dựng đảng kiểu
mới của giai cấp vô sản vào điều kiện nước ta. về mặt thực tiễn, những quan
điểm của Hồ Chí Minh trong tác phẩm này là “cẩm nang”, là “kim chỉ nam”
chỉ dẫn hành động cho toàn Đảng trong quá trình đẩy mạnh cuộc chống thực
dân Pháp xâm lược đến thành công.
Vậy, một vấn đề đặt ra ở đây là: những quan điểm của Hồ Chí Minh
trong tác phẩm này còn có ý nghĩa thời sự nữa hay không trong điều kiện mới
đối với Đảng ta hiện nay cũng như trong những thập niên đầu thế kỷ XXI?
Đúng là điều kiện hiện nay có nhiều điểm khác so với cuối những năm
40 của thế kỷ XX lúc Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Thời
kỳ hiện nay là thời kỳ hoà bình xây dựng; thời kỳ của toàn cầu hoá diễn ra
mạnh mẽ và trở thành xu thế tất yếu của thế giới mà trong đó hội nhập kinh tế
quốc tế được đặt ra như một yêu cầu và thách thức đối với nhiều quốc gia —
dân tộc trên con đường phát triển; là thời kỳ tiếp tục bùng nổ một cách mạnh
mẽ hơn của cách mạng khoa học và công nghệ đồng thời với việc phát triển
bước đầu nhưng rất nhanh chóng của kinh tế tri thức. Đó là thời kỳ nước ta
đứng trước thời cơ lớn, vận hội mới và lớn để phát triển nhanh, bền vững;



đồng thời cũng đang đứng trước những nguy cơ, thách thức lớn. Đất nước ta
đã trải qua hơn 20 năm đổi mới và đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử; đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với
thực tiễn Yiệt Nam; Đảng luôn luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa
học, trung thành với giai cấp công nhân và dân tộc, kiên định, vững vàng
trước mọi thách thức, sáng suốt lãnh đạo đưa sự nghiệp cách mạng của dân
tộc tiến lên; qua đó, Đảng ngày càng tích luỹ thêm được nhiều kinh nghiệm,
nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Bên cạnh đó, công tác xây dựng Đảng còn có nhiều
yếu kém, khuyết điểm, chưa theo kịp với đòi hỏi của tình hình mới, nổi lên là
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phi chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Nhận rõ tình hình đó, Đại hội X của Đảng
nhấn mạnh: “Xây dựng Đảng với vai trò là nhiệm vụ then chốt càng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, là vấn đề sống còn đối với sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta”.
Mọi sự vật luôn luôn biến đổi trước sự vận động của cuộc sống. Đảng
ta đang đứng trước yêu cầu lãnh đạo toàn dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội
trong điều kiện mới. Phương pháp, phương thức và phong cách công tác của
cán bộ hiện nay so với thời kỳ Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm
việc” có thể có không ít thay đổi, nhưng chúng ta khẳng định rằng, những chỉ
dẫn của Hồ Chí Minh vẫn có ý nghĩa thời sự đối với hiện nay.
3.2. Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về phong cách làm việc của
cán bộ lãnh đạo trong tác phẩm “sửa đổi lối làm việc” giai đoạn hiện nay.
Mấy ai biết được rằng, trong cuộc đời cách mạng của mình điều mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm hàng đầu và trăn trở nhiều nhất là vấn đề xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo, chèo lái con thuyền cách
mạng đi đến thành công, đem lại độc lập cho Tổ quốc, phồn thịnh cho đất

nước, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và luôn động viên, khích lệ tinh thần của


các cá nhân trong tập thể về lối sống tích cực là điều mà các lãnh đạo cần phải
làm. Điều đó càng được làm sáng tỏ hơn qua những dòng cảm xúc mà chủ
tịch Hồ Chí Minh đã viết qua tác phẩm sửa đổi lối làm việc. Là một công dân
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, bản thân tôi một phần nào đó đã hiểu
được những điều mà chủ tịch Hồ Chí Minh hướng đến.
Qua tác phẩm, ta thấy chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập nhiều vấn đề
lớn, vừa có tính lý luận, tính nguyên tắc, vừa có tính chỉ đạo thực tiển sâu sắc
về xây dựng Đảng trong việc điều khiển Đảng cầm quyền, làm cho Đảng thực
sự trong sạch, vững mạnh, và gắn bó mật thiết với nhân dân. Giúp các cán bộ
tu dưỡng tư tưởng, đạo đức và tác phong làm việc của minh sao cho xứng
đáng với nhân dân, với tổ quốc. Ngày nay, bên cạnh sự phát triển của xã hội
đó la sự cạnh tranh về kinh tế của mỗi quốc gia. Yậy phải làm sao để có thể
làm cho đất nước trở nên phồn vinh và phát triển hơn? Đó là vấn đề đáng
được quan tâm nhất hiện nay. Vì vậy cần có những giải pháp để cải thiện từng
bước những vấn đề trên. Đặc biết, đối với một nhà lãnh đạo thì đây là vấn đề
quan trọng nhằm xây dựng một xã hội công bằng, giàu đẹp hơn.
Theo quan điểm của tôi, một trong những giải pháp tốt nhất để trở
thành người lãnh đạo tốt đó là khắc phục và cải thiện thói xấu của bản thân.
Ví dụ như ngay chính bản thân tôi, tôi cảm thấy rằng mình là một người có
lòng nhiệt tình, hăng say với công việc, là người có tinh thần trách nhiệm cao
nhưng trong tâm tôi vẫn còn có một chút ích kỷ, nghĩ cho bản thân mình và
một chút tự ti khi bị người khác phát hiện ra lỗi sai của bản thân. Nhưng tôi
nghị nhược điểm đó sẽ khắc phục được bởi khi nhìn nhận, đánh giá bản thân
mình một cách khách quan, tôi đã nhận ra được khuyết điểm của mình thông
qua cách đánh giá của người khác và suy nghĩ trong tôi vì vậy tôi tin rằng tôi
có thể khắc phục nhược điểm của mình. Từ chính bản thân tôi, tôi nghĩ rằng
mỗi người phải biết tiếp thu cái tốt, loại bỏ cái xấu để có thể hoàn thiện được

nhân cách con người, giúp cho chính mình sống tốt hơn, sống có ích cho xã
hội hơn. Luôn đoàn kết, thân thiện với mọi người xung quanh để có thể giúp


họ tìm ra khiếm khuyết của chính mình và cùng nhau hoàn thiện bản thân
hơn.
Bên cạnh đó, đạo đức cũng là một yếu tố cần thiết của những người
lãnh đạo giỏi. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức của mỗi con người không
phải tự nhiên mà có, nó chỉ hỉnh thành trong quá trình rèn luyện phấn đấu.
Phải chăm rất khó thì mới tốt được và phải rèn luyện gian khổ mới có được.
Một nền đạo đức do Hồ Chí Minh đề xướng cùng với Đảng dày công xây
dựng là kết hoà sự kết họp những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những
tinh hoa đạo đức của nhân loại .Vì vậy, khi nhìn người lãnh đạo ta có thể hĩnh
dung được phẩm chất đạo đức của con người nước đó ra sao. Người lãnh đạo
là một tấm gương sáng để mọi người có thể noi theo và học tập. Có thể nói
rằng, đạo đức là một trong những yếu tố cần thiết nhất của mỗi chúng ta. Điều
đó giúp đất nước tạo được mối quan hệ tốt trong cộng đồng xã hội, giữa con
người với con người để chia sẻ được những khó khăn trong cuộc sống.
Sống trong một đất nước đang phát triển, bằng nhiệt huyết của tuổi trẻ
những thanh niên cần phải cống hiến hết mình cho sự nghiệp của đất nước và
luôn giải quyết mọi việc theo lẽ phải, thẳng thắn, trung thực, có tinh thần
trách nhiệm cao, nói không với tham nhũng, lãng phí trong đòi sống để thể
hiện mình là một người chí công vô tư. Luôn có những cử chỉ, thái độ đúng
mực, đúng văn hóa trong cuộc sống, đối vói gia đình, bạn bè, thầy cô,... .và
luôn trau dồi, học tập và làm theo Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Không
ngừng rèn luyện, nâng cao trình độ, hoàn thiện bản thân, thực sự hiểu biết và
thấm nhuần đạo đức cách mạng và nhất là “chí công vô tư” để trở thành người
công dân có ích cho xã hội.
Làm theo lời Bác để hướng đến một xã hội văn minh, tốt đẹp thi cần có
những con người nhiệt huyết với công việc, luôn tự tin giải quyết công việc là

điều thất yếu mà người lãnh đạo có thể làm. Nó sẽ giúp chúng ta được mọi
người tin tưởng và yêu mến hơn. Nắm vững, ra sức thực hiện, bồi dưỡng tốt
đạo đức Cách mạng “Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm” là điều mà mỗi công dân


×