Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Thăm khám và triệu chứng học khối u vùng cổ pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1004.18 KB, 20 trang )

Thăm khám và triệu chứng học khối u
vùng cổ

 Đặng Ngọc Hùng
 Ngô Văn Hoàng Linh
1. Thăm khám khối u vùng cổ.
1.1. Thăm khám lâm sàng:
1.1.1. Nhìn:
Bệnh nhân ngồi, cổ thẳng hoặc hơi ngửa ra sau. Bộc lộ rộng vùng cổ, phần trên
trước xương ức, vùng trên và dưới xương đòn. Người khám đứng trước hoặc hơi
sang bên cạnh bệnh nhân. Đôi khi có thể để bệnh nhân nằm ngửa có độn gối dưới
vai cho cổ ngửa ra sau để khám dễ hơn.
Chú ý nhận xét: màu sắc da, tình trạng phù nề, vị trí các vết loét hay lỗ rò, vị
trí các khối bất thường nổi lên dưới da vùng cổ, tình trạng giãn của các tĩnh mạch
cổ nông, những thay đổi về hình dáng cổ (hõm trên ức, vệt lõm theo bờ trước cơ
ức-đòn-chũm ).
Cho bệnh nhân nuốt có thể giúp nhìn được rõ hơn hình dáng, ranh giới, tính
chất di động… của các khối bất thường ở vùng cổ. Đôi khi có thể cho bệnh nhân
ho hoặc rặn mạnh để quan sát đánh giá rõ hơn các khối bất thường nằm ở vùng
hõm trên ức (ranh giới giữa vùng cổ và trung thất trước).
1.1.2. Sờ:
Bệnh nhân ngồi đầu thẳng hoặc hơi cúi để làm chùng các cơ vùng cổ trước. Để
khám vùng cổ trước và bên, người khám có thể đứng phía sau hoặc hơi sang bên
cạnh bệnh nhân, khám bằng 2 tay với các ngón cái đặt ở vùng bên-sau bờ sau cơ
ức-đòn-chũm hoặc sau cổ, các ngón còn lại đặt lên vùng cổ trước để khám. .
Đôi khi có thể đứng sang bên cạnh bệnh nhân và dùng một tay để khám từng
bên cổ. Lúc này ngón cái thường đặt nhẹ vào một bên cổ và 4 ngón còn lại đặt lên
vùng cổ bên đối diện để khám. Trong khi khám cần bảo bệnh nhân nuốt để xác
định các triệu chứng rõ hơn.
Chú ý xác định các triệu chứng: tình trạng phù nề, nhiệt độ da… Nếu có khối
bất thường ở vùng cổ thì phải đánh giá: vị trí, tính chất bề mặt, mật độ, ranh giới,


hình dánh, kích thước, mức độ di động, đau hay không đau, có rung miu hay
không, khả năng thay đổi kích thước khi nắn bóp của khối bất thường đó.
1.1.3. Nghe:
Nghe trên khối bệnh lý ở vùng cổ: có thể thấy tiếng thổi liên tục mạnh lên
trong thì tâm thu ở các thông động-tĩnh mạch cảnh.
Nghe trên tuyến giáp, nhất là ở phía trước vùng cực trên của tuyến có thể thấy
tiếng thổi liên tục mạnh lên ở thì tâm thu trong bệnh Basedow.
Nghe ở vùng trước khí quản trong một số trường hợp khí quản bị chèn ép do
các khối bệnh lý ở cổ hay khí quản bị hẹp do các nguyên nhân khác nhau có thể
nghe thấy tiếng thở rít ở chỗ lòng khí quản bị hẹp lại.
1.1.4. Đo:
Đo chu vi vùng cổ ở một mốc nhất định trong các thời gian khác nhau để đánh
giá sự phát triển về kích thước của các khối bệnh lý sau các thời gian tiến triển
nhất định.


Hình 4.1: Hình ảnh bướu giáp khổng lồ.

1.2. Thăm khám cận lâm sàng:
1.2.1. Các phương pháp thăm khám hình ảnh:
Các phương pháp thăm khám hình ảnh cho phép xác định được kích thước,
hình dáng, trọng lượng, vị trí phân bố, đặc điểm cấu trúc, tương quan của khối
bệnh lý đối với các cơ quan xung quanh, trong một số trường hợp cho phép xác
định được cả mức độ hoạt động chức năng và bản chất của khối bệnh lý đó.
 1.2.1.1. Khám xét bằng X quang:
+ Soi và chụp X quang thường hoặc có uống cản quang thực quản: thường
chụp vùng cổ thẳng và nghiêng. Có thể xác định được khí quản và thực quản bị
chèn ép hoặc đẩy lệch vị trí, hình canxi hoá trong các khối bệnh lý (bướu giáp, u
mạch máu)
+ Chụp X quang đường rò ở vùng cổ: bơm thuốc cản quang vào đường rò

(thường dùng các thuốc cản quang dầu) rồi chụp X quang vùng cổ ở các tư thế
thích hợp. Có thể xác định được hình thái, tính chất, tương quan giải phẫu… của
các đường rò khác nhau ở vùng cổ.
+ Chụp X quang có bơm khí vùng tuyến giáp: thường dùng oxy hoặc CO
2
bơm
vào vùng dưới các cơ trước tuyến giáp, sau đó chụp X quang thường hoặc cắt lớp
vùng cổ thẳng và nghiêng. Có thể xác định được kích thước, hình dáng, ranh giới
của tuyến giáp, những di lệch của khí quản và thực quản do bị bướu giáp chèn
đẩy.
+ Chụp bạch mạch tuyến giáp gián tiếp: dùng thuốc cản quang dầu bơm vào
nhu mô tuyến giáp, sau đó chất cản quang được hấp thu vào hệ bạch mạch của
toàn bộ tuyến giáp. Tiến hành chụp X quang vùng cổ thẳng và nghiêng. Có thể
xác định được hình thể, kích thước, liên quan giải phẫu của tuyến giáp. Sau 24 -
48 giờ, khi chất cản quang đi tới các hạch bạch huyết vùng cổ và trung thất thì có
thể chụp X quang để xác định được tình trạng của hệ thống các hạch đó.
+ Chụp động mạch vùng cổ: có thể luồn catheter đưa thuốc cản quang vào để
chụp động mạch cảnh gốc, chụp động mạch tuyến giáp chọn lọc, chụp động mạch
tuyến cận giáp chọn lọc nhằm chẩn đoán các bệnh lý như: phồng động mạch
cảnh, thông động-tĩnh mạch cảnh, một số bệnh lý của tuyến giáp và cận giáp.
 1.2.1.2. Ghi xạ hình:
Thường tiến hành ghi xạ hình tuyến giáp để chẩn đoán các bệnh lý tại tuyến
giáp: các chất đồng vị phóng xạ thường được sử dụng là
131
I,
32
P

(uống),
99m

TC-
tetrofosmin,
99m
TC - sestamibi (tiêm tĩnh mạch). Sau khi cho bệnh nhân dùng các
chất này, dùng máy ghi phóng xạ ghi lại sự phân bố của chúng ở vùng cổ và tuyến
giáp.
+ Ghi xạ hình tuyến giáp bằng
131
I phóng xạ: cho phép đánh giá được vị trí,
hình dáng, kích thước, khối lượng và cả chức năng của tuyến giáp. Đặc biệt có thể
xác định được các tổ chức tuyến giáp lạc chỗ, các nhân nóng (vùng nhu mô giáp
tăng chức năng nên hấp thu nhiều
131
I) và các nhân lạnh (vùng tập trung ít
131
I, gặp
trong các nang tuyến giáp hoặc ung thư).
+ Ghi xạ hình tuyến giáp bằng
32
P,
99m
TC - tetrofosmin,
99m
TC - sestamibi:
ngoài việc xác định được các đặc điểm hình ảnh của tuyến giáp, phương pháp này
còn giúp chẩn đoán phân biệt giữa ung thư tuyến giáp và các bệnh lành tính khác
tại tuyến giáp do tổ chức ung thư thường có khả năng giữ các chất phóng xạ đó
cao hơn các tổ chức tuyến giáp bình thường.
 1.2.1.3. Siêu âm vùng cổ và tuyến giáp:
+ Siêu âm vùng cổ: dùng để thăm khám các khối bệnh lý vùng cổ nói chung.

Xác định được vị trí, kích thước, hình dạng, tương quan giải phẫu, đặc điểm cấu
trúc… của khối bệnh lý. Siêu âm Doppler còn được dùng để thăm khám các khối
bệnh lý nghi là phồng động mạch hay thông động-tĩnh mạch.
+ Siêu âm tuyến giáp: dùng đầu dò tần số cao, ít nhất 5 MHz, phần lớn thời
gian phải dùng tần số trên 7,5MHz. Bảng áp điện thẳng, đủ rộng để có thể xem
được cả 2 thùy trên cùng một mặt cắt. Đôi khi phải dùng túi nước hoặc gối nhựa
(gối Reston) để có được hình ảnh siêu âm tốt hơn.
- Tuyến giáp bình thường: cao 1,5 - 5,5cm; dày 0,5 - 1,5cm; rộng 1 - 2,5 cm;
eo dày 0,5 - 1cm. Thể tích tuyến giáp có thể được tính theo công thức của
Gutekunst:
V = 0,479 x a x b x c
V = thể tích tuyến giáp tính bằng ml,
a = chiều cao, b = chiều rộng, c = chiều dày.
Người trưởng thành bình thường có thể tích tuyến giáp trung bình ở nam là 25 ml
và nữ là 18 ml.
- Siêu âm tuyến giáp có thể phát hiện được các nhân có đường kính từ 0,5cm
trở lên, nhờ đó có thể xác định được vị trí, số lượng, kích thước, hình dạng, cấu
trúc của nhân (đặc, lỏng hay hỗn hợp)… Ngoài ra siêu âm còn được dùng để
hướng dẫn cho chọc sinh thiết các nhân tuyến giáp nhằm chẩn đoán tế bào học và
mô bệnh học. Siêu âm Doppler màu cho phép đánh giá được tình trạng dòng máu
trong tuyến giáp nhờ đó có thể sơ bộ đánh giá được tình trạng hoạt động chức
năng của nhu mô giáp.
 1.2.1.4. Một số phương pháp thăm khám hình ảnh khác:
Trong một số trường hợp có thể sử dụng các phương pháp thăm khám hình
ảnh khác để chẩn đoán các bệnh lý ngoại khoa vùng cổ như:
+ Chụp cắt lớp máy tính (CT:Computed Tomography).
+ Chụp cộng hưởng từ (MRI:Magnetic Resonance Imaging).

Hình 4.2 : ghi xạ hình tuyến giáp
a) Xạ hình đồ tuyến giáp bằng

123
I.
b) Xạ hình đồ tuyến giáp bằng
99m
TC.
 1.2.1.5. Nội soi:
+ Soi thanh quản gián tiếp:
Dùng để xác định có tình trạng liệt dây thanh âm hay không trong các trường
hợp bị khàn tiếng hoặc nghi ngờ có tổn thương dây thần kinh quặt ngược do
những bệnh lý ở vùng cổ.
+ Nội soi khí-phế quản, nội soi thực quản…:
Có thể sử dụng trong thăm khám các bệnh lý vùng cổ có liên quan đến các cơ
quan đó như: rò xoang lê, rò thực quản, u đoạn trên thực quản…
1.2.2. Các phương pháp xét nghiệm tế bào học và tổ chức học:
 1.2.2.1. Xét nghiệm tế bào học:
+ Chụp cắt lớp phát xạ Positron (PET: Positron Emission Tomography).

a

b

+ Sinh thiết hút tế bào bằng kim nhỏ:
Sử dụng kim cỡ nòng nhỏ (21 - 25 gauge) chọc trực tiếp vào và hút lấy tế
bào của khối bệnh lý ở vùng cổ. Làm phiến đồ, nhuộm và quan sát dưới kính
hiển vi quang học hoặc kính hiển vi điện tử để xác định các đặc điểm tế bào
học của khối bệnh lý đó.
Phương pháp xét nghiệm này được sử dụng ngày càng rộng rãi vì có nhiều
ưu điểm: dễ thực hiện, ít tốn kém, ít tai biến và biến chứng, độ nhậy và độ đặc
hiệu của chẩn đoán khá cao.
+ Sinh thiết áp tổ chức bệnh lý trong mổ:

Trong khi mổ, tiến hành cắt ngang khối bệnh lý và làm tiêu bản áp kính ở mặt
cắt đó. Đọc tiêu bản để chẩn đoán tế bào học tức thì trong mổ, giúp cho phẫu thuật
viên dễ dàng hơn trong quyết định mức độ can thiệp phẫu thuật.
 1.2.2.2. Xét nghiệm mô bệnh học:
Tiêu bản mô bệnh học có thể thu được từ các phương pháp khác nhau như:
sinh thiết tổ chức bệnh lý bằng các kim sinh thiết đặc biệt (kim Trucut, kim
Silverman…), mổ sinh thiết, sinh thiết tổ chức bệnh lý để xét nghiệm mô bệnh học
tức thì trong mổ, xét nghiệm mô bệnh học tổ chức bệnh lý sau mổ…
Kết quả xét nghiệm mô bệnh học thường được coi là tiêu chuẩn vàng trong
chẩn đoán xác định bản chất của các tổ chức bệnh lý nói chung.
1.2.3. Các xét nghiệm miễn dịch học và gen học:
 1.2.3.1. Các xét nghiệm miễn dịch học:
+ Các xét nghiệm miễn dịch học dịch thể:
Trong một số bệnh lý nhất là của tuyến giáp có thể sử dụng các xét nghiệm
miễn dịch để phát hiện các tự kháng thể kháng các thành phần khác nhau của tổ
chức tuyến giáp. Bản chất cũng như nồng độ của các tự kháng thể này có thể đặc
trưng cho từng loại bệnh khác nhau của tuyến giáp: các tự kháng thể kháng thụ
cảm thể TSH của tế bào tuyến giáp thường gặp trong bệnh Basedow, kháng thể
kháng thyroglobulin và kháng thể kháng microsom thường gặp trong các bệnh
viêm tuyến giáp tự miễn dịch…
+ Các xét nghiệm hoá miễn dịch tế bào và hoá miễn dịch mô:
Sử dụng các kỹ thuật xét nghiệm hoá miễn dịch để xác định các đặc điểm về
hoá miễn dịch của các bệnh phẩm tế bào học và mô bệnh học. Phương pháp này
được sử dụng ngày càng rộng rãi với mục đích chính là để phân định chính xác
hơn các u lành tính và ác tính của tuyến giáp.
 1.2.3.2. Các xét nghiệm gen học:
Sử dụng các kỹ thuật xét nghiệm gen để xác định các gen có liên quan đến các
bệnh lý ở vùng cổ, giúp cho chẩn đoán xác định bệnh chính xác hơn: các gen sinh
u ras (ras oncogene), gen tiền sinh u RET (RET proto-oncogene) hoặc gen ức chế
u P53… có liên quan đến sự phát triển các u ở tuyến giáp

1.2.4. Các xét nghiệm đánh giá chức năng tuyến giáp:
Trong các bệnh lý ngoại khoa vùng cổ thì những bệnh lý của tuyến giáp rất
hay gặp, vì tuyến giáp là một tuyến nội tiết nên việc thăm khám đánh giá tình
trạng chức năng của tuyến giáp có vai trò rất quan trọng trong chẩn đoán các bệnh
lý tuyến giáp.
 1.2.4.1. Điện tim:
+ Bình thường: nhịp xoang, đều, dao động từ 60 - 90 lần một phút.
+ Cường giáp: nhịp xoang nhanh (trên 90 lần một phút) thường xuyên, thường
có các rối loạn dẫn truyền, thiểu dưỡng cơ tim, đôi khi có ngoại tâm thu thất, loạn
nhịp hoàn toàn.
+ Nhược giáp: nhịp xoang chậm (dưới 60 lần một phút), biên độ các sóng thấp,
thiểu dưỡng cơ tim
 1.2.4.2. Đo chuyển hoá cơ sở:
Chuyển hoá cơ sở là năng lượng tối thiểu mà cơ thể dùng để thực hiện các chức
phận sinh lý quan trọng nhất cho đời sống. Trong thực hành, nó được tính một
cách gián tiếp thông qua mức tiêu thụ oxy của cơ thể trong điều kiện yên tĩnh hoàn
toàn về thể lực và tâm thần. Kết quả được quy ra số phần trăm tăng hay giảm so
với hằng số chuẩn lý thuyết của người bình thường. Hormon tuyến giáp chi phối
chặt chẽ các quá trình oxy hoá nên nó ảnh hưởng lớn đến mức tiêu thụ oxy của cơ
thể và do đó ảnh hưởng đến kết quả đo chuyển hoá cơ sở.
Bình thường số đo chuyển hoá cơ sở nằm trong khoảng ± 10%. Khi cường
chức năng tuyến giáp thì số đo chuyển hoá cơ sở sẽ tăng và ngược lại, khi nhược
năng tuyến giáp thì số đo chuyển hoá cơ sở sẽ giảm.
 1.2.4.3. Đo độ tập trung iod phóng xạ tại tuyến giáp:
Cho bệnh nhân uống
131
I phóng xạ, rồi đo lượng phóng xạ của
131
I tập trung tại
tuyến giáp sau 2, 4, 6 và 24 giờ.

Bình thường độ tập trung
131
I ở tuyến giáp đạt khoảng 8% sau 2 giờ, 12% sau
4 giờ, 37% sau 6 giờ và 48% sau 24 giờ. Khi cường chức năng tuyến giáp, độ tập
trung
131
I phóng xạ đó tăng nhanh (sau 3 - 6 giờ có thể tới 60%) rồi giảm nhanh,
tạo nên góc thoát đặc trưng trên biểu đồ đo. Trong nhược năng tuyến giáp, cả tốc
độ và mức độ tập trung
131
I tại tuyến giáp đều thấp hơn bình thường.
 1.2.4.4. Định lượng các hormon tuyến giáp và TSH huyết thanh:
Bình thường: T
3
(triiodothyronine) = 1 - 3 nmol/l; T
4
(tetraiodothyronine) = 60
- 150 nmol/l; FT
4
(free tetraiodothyronine) = 11,5-23,2 pmol/l; FT
3
(Free
triiodothyronine) = 3,5 - 6,5 pmol/l; TSH (thyroid stimulating hormone) = 0,3
- 5,5 mU/l.
Khi cường chức năng tuyến giáp T
3
, FT
3
, T
4

và FT
4
đều tăng còn TSH
giảm. Ngược lại trong nhược năng tuyến giáp T
3
, FT
3
, T
4
và FT
4
đều giảm còn
TSH tăng.
 1.2.4.5. Một số xét nghiệm khác:
Xét nghiệm tìm các chất đánh dấu khối u như: HTG (Human Thyroglobulin),
CEA (Carcino Embrionic Antigen) trong ung thư tuyến giáp
2. Triệu chứng học.
2.1. Một số hội chứng bệnh lý:
2.1.1. Hội chứng thay đổi hình thái tuyến giáp:
Hội chứng thay đổi hình thái tuyến giáp có thể gặp trong rất nhiều bệnh lý
khác nhau của tuyến giáp như: bệnh bướu giáp đơn thuần, bệnh Basedow, các
bệnh viêm tuyến giáp, ung thư tuyến giáp… Các triệu chứng chính của hội chứng
này là:
+ Bướu giáp:
- Khối bướu nằm ở vị trí tuyến giáp, di động theo nhịp nuốt.
- Ghi xạ hình cho phép xác định chính xác vị trí bướu giáp, kể cả các bướu
giáp lạc chỗ. Các xét nghiệm hình ảnh khác (siêu âm, X.quang, CT, MRI ) có thể
được sử dụng để xác định hình ảnh bướu giáp đầy đủ hơn.
- Chọc sinh thiết bướu giáp để xét nghiệm tế bào hoặc mô bệnh học, giúp xác
định nguyên nhân của bướu giáp.

+ Hình thái đại thể bướu giáp:
- Bướu giáp lan tỏa: toàn bộ nhu mô tuyến giáp to ra lan tỏa.
- Bướu giáp thể nhân: chỉ có một phần tuyến giáp to ra trên nền nhu mô tuyến
giáp bình thường.
- Bướu giáp hỗn hợp: có bướu giáp thể nhân trên nền một tuyến giáp to lan toả.
+ Độ lớn bướu giáp trên lâm sàng:
- Bảng phân độ lớn bướu giáp của Tổ chức Y tế thế giới (1979):
. Độ 0: không sờ thấy tuyến giáp.
. Độ IA: không nhìn thấy nhưng sờ thấy được tuyến giáp to ra ít nhất là bằng
đốt hai ngón cái của bệnh nhân.
. Độ IB: sờ được dễ dàng; nhìn thấy được ở tư thế ngửa đầu. Các trường hợp
bướu giáp thể một nhân cũng được xếp vào mức độ này.
. Độ II: nhìn thấy rõ ngay khi đầu ở tư thế bình thường.
. Độ III: đứng xa đã nhìn thấy bướu giáp.
. Độ IV: bướu giáp rất to.
- Bảng phân loại độ lớn bướu giáp của Học viện Quân y:
. Độ I: sờ thấy bướu khi bệnh nhân nuốt.
. Độ II: nhìn và sờ đều thấy rõ nhưng vòng cổ chưa thay đổi.
. Độ III: bướu lồi hẳn ra khỏi vòng cổ, chiếm một diện tích rộng trước cổ, xác
định được kích thước.
. Độ IV: bướu to lấn quá xương ức, làm thay đổi đáng kể hình dáng vùng cổ.
. Độ V: bướu rất to, biến dạng hoàn toàn vùng cổ.
2.1.2. Hội chứng cường chức năng tuyến giáp:
Hội chứng cường chức năng tuyến giáp có thể gặp trong nhiều bệnh lý như: bệnh
Basedow, bệnh Plummer, giai đoạn đầu của bệnh viêm tuyến giáp Hashimoto…
+ Bướu giáp có thể to ở các mức độ khác nhau, có thể sờ thấy rung miu và
nghe có tiếng thổi tại bướu giáp.
+ Ăn uống nhiều nhưng vẫn gày sút cân nhanh; luôn có cảm giác nóng bức, ra
nhiều mồ hôi; dễ bị kích thích, hồi hộp.
+ Nhịp tim nhanh thường xuyên (cả khi thức và khi ngủ).

+ Chuyển hoá cơ sở (CHCS) tăng cao. Có thể sơ bộ dựa vào nhịp tim và CHCS
để đánh giá mức độ nhiễm độc giáp như sau:
- Nhẹ: nhịp tim <100 lần/phút, CHCS < 30%.
- Vừa: nhịp tim 100 - 120 lần/phút, CHCS 30 - 60%.
- Nặng: nhịp tim > 120 lần/phút, CHCS > 60%.
+ Độ tập trung
131
I tại tuyến giáp tăng cao và nhanh, sau đó giảm đi cũng
nhanh. Nồng độ T
3
, FT
3
,T
4
, FT
4
huyết thanh tăng, TSH giảm.
2.1.3. Hội chứng suy chức năng tuyến giáp:
Hội chứng suy chức năng tuyến giáp có thể gặp trong một số bệnh như: bệnh
nhược giáp nguyên phát (primary hypothyroidism), sau mổ cắt hoàn toàn tuyến
giáp… Các triệu chứng chính của hội chứng này là:
+ Ăn uống kém nhưng mặt có vẻ béo tròn (như mặt trăng). Da, niêm mạc nhợt
và có tình trạng phù niêm, phù cứng (ấn không lõm). Lông thưa, tóc móng dễ gãy,
rụng. Hoạt động thần kinh và trí tuệ kém, trì trệ.
+ Mạch chậm và yếu, huyết áp thấp.
+ CHCS giảm.
+ Độ tập trung
131
I tại tuyến giáp, nồng độ T
3

, FT
3
, T
4
, FT
4
huyết thanh đều
giảm, TSH huyết thanh tăng cao.
2.2. Chẩn đoán phân biệt một số khối u ở vùng cổ:
2.2.1. Các bệnh lý của tuyến giáp:
 2.2.1.1. Bướu giáp đơn thuần:
+ Hội chứng thay đổi hình thái tuyến giáp: bướu giáp thể lan toả, nhân hay hỗn
hợp.
+ Chức năng tuyến giáp bình thường.
+ Các xét nghiệm tế bào học và mô bệnh học xác định bướu giáp to không
phải do viêm, không phải do u.
 2.2.1.2. Bướu giáp có cường chức năng giáp:
+ Hội chứng cường chức năng tuyến giáp.
+ Hội chứng thay đổi hình thái tuyến giáp: bướu giáp lan tỏa (như bệnh Basedow),
bướu giáp thể nhân (bệnh Plummer), bướu giáp hỗn hợp…
 2.2.1.3. Các u lành tuyến giáp:
+ Hội chứng thay đổi hình thái tuyến giáp:
- Bướu giáp thể nhân, thường là một nhân, ranh giới rõ, mặt nhẵn, mật độ thường
chắc, di động tốt.
- Siêu âm thường là nhân dạng đặc hay hỗn hợp.
+ Chức năng tuyến giáp bình thường
+ Các xét nghiệm tế bào học và mô bệnh học xác định là u tuyến giáp lành tính.
 2.2.1.4. Ung thư tuyến giáp:
+ Hội chứng thay đổi hình thái tuyến giáp:
- Bướu giáp thể nhân đơn độc, thường nằm ở gần một cực của tuyến giáp, mật

độ chắc, bề mặt sần sùi, di động kém do xâm lấn vào tổ chức xung quanh (vì vậy
mà bệnh nhân có thể bị khó nuốt, khó thở và nói khàn sớm tuy bướu còn nhỏ).
- Có thể thấy các hạch bạch huyết vùng cổ to ra (nhất là các hạch dọc theo cơ
ức-đòn-chũm).
- Siêu âm thường là các nhân dạng đặc hay hỗn hợp. Ghi xạ hình thường là các
nhân “lạnh”.
+ Các xét nghiệm tế bào học và mô bệnh học xác định là ung thư tuyến giáp.
 2.2.1.5. Các bệnh viêm tuyến giáp:
+ Bệnh viêm tuyến giáp Hashimoto:
- Bướu giáp thường to lan toả hoặc thể nhân, mật độ chắc, không dính với tổ
chức xung quanh, không đau, có khi gây khó thở, nuốt vướng do bướu giáp xơ hoá
ép vào khí quản.
- Có thể có biểu hiện hội chứng suy chức năng tuyến giáp ở các mức độ khác nhau.
- Các xét nghiệm tế bào học và mô bệnh học xác định là viêm tuyến giáp
Hashimoto.
+ Bệnh Riedel (bệnh viêm xơ tuyến giáp mãn tính):
- Bướu giáp thường to lan toả, đôi khi là bướu giáp hỗn hợp hoặc thể nhân,
không đau, mật độ rất chắc (cứng như “gỗ”) do tổ chức liên kết trong bướu phát
triển mạnh, bướu thường xơ dính vào tổ chức xung quanh nên rất kém di động và
gây các hiện tượng khó thở, nuốt vướng nên dễ bị chẩn đoán nhầm với ung thư
tuyến giáp.
- Các xét nghiệm tế bào học và mô bệnh học xác định là bệnh Riedel.
+ Bệnh De Quervain (bệnh viêm tuyến giáp bán cấp tính):
- Bướu giáp thường to lan toả, tiến triển thành từng đợt, mật độ chắc và đau.
Đau ra cả vùng cổ, họng và lan ra vùng tai, gáy. Kèm theo bệnh nhân có thể sốt,
tăng bạch cầu trong máu.
- Điều trị thử bằng cocticoit thấy kết quả rất rõ (bướu nhỏ lại và hết đau nhanh).
2.2.2. Các loại nang bẩm sinh vùng cổ:
 2.2.2.1. Nang mang:
+ Được tạo nên do còn lại một phần khe mang thứ hai (đôi khi là khe mang

thứ nhất hoặc thứ ba) ở thời kỳ bào thai.
+ Nang mang còn được gọi là nang vùng cổ bên vì thường nằm ở phía bên cổ,
sát bờ trước cơ ức-đòn-chũm; thường gặp ở bệnh nhân trẻ (1 - 20 tuổi). Nang có
hình tròn hay bầu dục, ranh giới rõ, mật độ căng và đàn hồi, tiến triển chậm.
+ Nhiều khi nang bị bội nhiễm và vỡ rò qua da gây nên rò vùng cổ bên: lỗ rò
thường nằm ở sát phía trong bờ trước cơ ức-đòn-chũm, miệng lỗ rò nhỏ, dịch rò là
chất nhầy trong hoặc trắng đục.
 2.2.2.2. Nang giáp lưỡi:
+ Được tạo nên do còn lại một phần ống giáp-lưỡi (ductus thyreo-glossus) ở
thời kỳ bào thai.
+ Nang giáp lưỡi còn được gọi là nang giáp-móng hay nang vùng giữa cổ vì nó
thường nằm ở giữa cổ và dính sát vào thân xương móng; thường gặp ở bệnh nhân
trẻ (2 - 30 tuổi). Nang có hình tròn hay bầu dục, ranh giới rõ, mật độ căng và đàn
hồi, di động theo động tác nuốt, tiến triển chậm.
+ Nhiều khi nang bị bội nhiễm và vỡ qua da gây rò vùng giữa cổ: lỗ rò thường
ở vùng giữa cổ sát với xương móng, miệng lỗ rò nhỏ, dịch rò là chất nhầy trong
hoặc trắng đục. Khi cho bệnh nhân uống nước có pha xanh methylen có thể thấy
dịch rò ra có màu xanh của methylen vừa mới uống vào.
 2.2.2.3. Nang dạng bì:
+ Được tạo ra bởi một phần ngoại bì bị tách ra trong thời kỳ bào thai và nằm
chìm xuống tổ chức dưới da.
+ Nang dạng bì thường nằm ở nền khoang miệng, gốc lưỡi, cằm, dưới hàm,
đôi khi ở vùng cổ bên hoặc ở giữa vùng một phần ba trên của cổ. Nang thường có
hình tròn, mật độ hơi mềm và đàn hồi, ranh giới rõ, thường không dính vào da,
lòng nang chứa tổ chức kiểu bã đậu.
2.2.3. Các loại hạch bạch huyết to ở vùng cổ:
+ Nhiều loại bệnh có biểu hiện hạch bạch huyết to ra ở vùng cổ:
- Hạch saccom lympho: lúc đầu là các hạch to riêng rẽ. Về sau chúng to dần và
dính với nhau thành những đám lớn hơn. Ngoài hạch to vùng cổ, hạch toàn thân
cũng to ra với tính chất như trên.

- Hạch Hodgkin: thường có nhiều hạch to nhỏ nằm riêng rẽ nhau. Ngoài hạch
cổ, hạch toàn thân cũng to ra, kèm theo còn thấy gan to, lách to, ngứa da và sốt
thành từng đợt kiểu làn sóng.
- Hạch lao: thường có nhiều hạch to nhỏ không đều, nằm ở hai bên cổ, dọc theo
bờ trước và sau cơ ức-đòn-chũm. Đôi khi hạch vỡ ra gây rò mủ bã đậu kéo dài.
- Hạch viêm cấp hoặc mãn tính: có thể một hay nhiều hạch bị viêm cấp hoặc
mãn. Hạch to ra, đau; đôi khi nhiều hạch dính vào nhau. Khi hạch viêm mủ, da
vùng cổ bị nóng, đỏ, nề, sờ thấy dấu hiệu "lùng nhùng", đôi khi bị vỡ và rò mủ qua
da.
+ Sinh thiết hút tế bào kim nhỏ hoặc sinh thiết mở hạch để xác định chẩn đoán
các bệnh trên.
2.2.4. Các loại u phần mềm khác ở vùng cổ:
+ U mạch máu: u có thể nằm ngay trong da, dưới da hay trong cơ; ranh giới
thường không rõ, mật độ mềm, da trên khối u có thể thay đổi màu sắc nếu u nằm
sát dưới mặt da; thường gặp ở bệnh nhân trẻ tuổi, tiến triển chậm. Chọc hút khối u
ra máu.
+ U bạch mạch: u thường nằm dưới da, ranh giới không rõ, mật độ mềm, màu
da trên khối u bình thường; thường gặp ở bệnh nhân trẻ tuổi, tiến triển chậm. Chọc
hút khối u thường chỉ hút ra được ít chất dịch vàng nhạt.
+ U tiểu thể cảnh: thường là khối u đơn độc, nằm ở cao sát góc hàm và ở sâu
trước cơ ức-đòn-chũm. U gắn chặt hoặc ôm lấy xoang cảnh nên khó di động
xuống dưới. U có thể chèn vào xoang cảnh gây phản xạ giảm huyết áp và đôi khi
gây thiếu máu não. Chụp siêu âm có thể xác định được khối u và tương quan của
nó với xoang cảnh.
+ U và nang tuyến nước bọt: u thường nằm ở vùng tuyến nước bọt (tuyến dưới
lưỡi, dưới hàm hay mang tai). Mật độ có thể chắc và đàn hồi nếu là nang hoặc
chắc và cứng nếu là u. Ranh giới thường không rõ, di động kém. Có thể chẩn đoán
xác định bằng chọc sinh thiết hút kim nhỏ.
+ U nang tuyến bã: thường là u đơn độc, nằm ngay dưới da, mặt nhẵn, ranh
giới rõ, mật độ căng và đàn hồi, di động tốt, tiến triển chậm, đôi khi bị bội nhiễm

và vỡ gây rò qua da. Có thể chẩn đoán xác định bằng sinh thiết hút kim nhỏ.
+ U mỡ: thường là u đơn độc, nằm dưới da, mặt nhẵn, đôi khi có thể sờ thấy có
nhiều thùy lồi lõm không đều, mật độ thường mềm, đàn hồi tốt, ranh giới thường
không rõ, tiến triển chậm. Có thể chẩn đoán xác định bằng sinh thiết hút kim nhỏ.
2.2.5. Các khối giả u vùng cổ:
+ Phồng động mạch cảnh: khối phồng nằm trên đường đi của động mạch cảnh,
đập nẩy theo nhịp tim, nghe thấy có tiếng thổi tâm thu trên khối u. Khi ấn vào
động mạch cảnh ở phía dưới cổ đi tới khối u thì các triệu chứng nói trên đều giảm
đi. Siêu âm có thể chẩn đoán xác định được hình thái cũng như tương quan giải
phẫu của khối phồng động mạch.
+ áp xe quanh thực quản: thường xuất hiện sau một vết thương thực quản do
hóc xương hay dị vật khác. Khối phồng căng, nóng, đỏ, đau rất nhiều nhất là khi
nuốt, ranh giới không rõ, thường nằm sát về một bên khí quản. Bệnh nhân có hội
chứng nhiễm trùng-nhiễm độc, gày sút, mệt mỏi nhiều, ăn uống kém vì nuốt rất
đau. Cần nội soi thực quản và chụp siêu âm để chẩn đoán xác định tương quan giải
phẫu của khối áp xe ở vùng cổ, chọc sinh thiết hút để xác định mủ trong khối áp
xe.
+ Sườn-cổ:
- Ngoài các xương sườn bình thường khớp với các đốt sống ngực, bệnh nhân
còn có thêm các xương sườn khớp với các đốt sống cổ (thường gặp ở đốt sống cổ
VII). Các xương sườn - cổ này khi phát triển dài ra sẽ gây chèn ép đám rối thần
kinh cánh tay và động mạch dưới đòn.
- Bệnh nhân thường bị tê bì, đau, bại, thậm chí liệt các cơ ở tay theo kiểu rễ
thần kinh. Mạch quay bên tổn thương đập yếu hơn bên kia (tuy có thể có sườn-cổ
cả hai bên, nhưng biểu hiện chèn ép ở hai bên thường không như nhau). Các triệu
chứng nói trên nặng hơn khi để tay bệnh nhân duỗi thẳng và đưa ra sau. Có thể sờ
thấy rõ đầu trước của sườn-cổ ở vùng trên đòn. Chẩn đoán xác định bằng chụp X
quang vùng cổ-ngực tư thể thẳng và nghiêng.



×