Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tài liệu về bệnh đái tháo đường pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 30 trang )

1. Tình hình bệnh đái tháo đường trên Thế giới và ở Việt Nam
1 1. Tình hình bệnh đái tháo đường trên Thế giới
Bệnh Đái tháo đường (ĐTĐ) là một trong những bệnh không lây phổ biến
nhất, theo Liên đoàn đái tháo đường thế giới (IDF), năm 2000 có khoảng 151
triệu người tuổi 20 - 79 mắc bệnh ĐTĐ, chiếm tỷ lệ 4,6%. Nơi có tỷ lệ ĐTĐ cao
nhất là khu vực Bắc Mỹ, Địa Trung Hải và Trung Đông, với tỷ lệ tương ứng là
7,8% và 7,7%, tiếp đến là khu vực Đông Nam Á: 5,3%, Châu Âu: 4,9%, Trung
Mỹ: 3,7%, Tây Thái Bình Dương: 3,6%, Châu Phi 1,2%.
Hiện nay, khu vực Tây Thái Bình Dương và khu vực Đông Nam Á là hai
khu vực có số người mắc bệnh ĐTĐ đông nhất tương ứng là 44 triệu người và
35 triệu người. Những báo cáo mới đây của IDF cũng khẳng định, tỷ lệ bệnh
ĐTĐ týp 2 chiếm 85% - 95% tổng số bệnh nhân ĐTĐ ở các nước phát triển và
tỷ lệ này thậm chí còn cao hơn ở các nước đang phát triển.
Bệnh ĐTĐ là bệnh nguy hiểm đe dọa đến tính mạng và gây ra nhiều biến
chứng. Theo IDF, bệnh ĐTĐ là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ tư hoặc
thứ năm ở các nước phát triển và đang được coi là một dịch bệnh ở nhiều nước
đang phát triển, những nước mới công nghiệp hoá. Những biến chứng của bệnh
ĐTĐ rất phổ biến (khoảng 50% bệnh nhân mắc bệnh ĐTĐ có các biến chứng)
như: bệnh mạch vành, mạch máu não, bệnh mạch máu ngoại vi, bệnh lý thần
kinh do ĐTĐ, cắt cụt chi, suy thận, tổn thương mắt Các biến chứng này
thường dẫn đến tàn tật và giảm tuổi thọ.
Bệnh ĐTĐ đang là vấn đề y tế nan giải, là gánh nặng đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội, vì sự phổ biến của bệnh, vì các hậu quả nặng nề của bệnh do
được phát hiện và điều trị muộn. Một nghiên cứu về chi phí trực tiếp cho bệnh
ĐTĐ tại 8 nước thuộc Châu Âu đã cho thấy: chi phí trực tiếp cho 10 triệu người
bị bệnh ĐTĐ trong năm 1998 đã tiêu tốn 26,97 tỷ USD và chi phí trực tiếp cho
điều trị bệnh ĐTĐ chiếm 3 - 6% ngân sách dành cho toàn ngành y tế. Năm
1997, cả thế giới đã chi ra 1030 tỷ USD cho điều trị bệnh ĐTĐ. Trong đó, hầu
hết là chi cho điều trị các biến chứng của bệnh.
Bệnh ĐTĐ týp 2 có xu hướng xuất hiện ở lứa tuổi trẻ hơn, như ở những
nhóm người đang độ tuổi lao động, trẻ em ở lứa tuổi dậy thì, đặc biệt ở khu vực


các nước đang phát triển như khu vực Tây Thái Bình Dương
Tỷ lệ bệnh ĐTĐ týp 2 tăng nhanh theo thời gian và sự tăng trưởng kinh
tế. Đầu thế kỷ 20, tần suất mắc bệnh ĐTĐ trên thế giới còn ở mức thấp, WHO
ước tính năm 1985 mới có khoảng 30 triệu người trên thế giới mắc bệnh ĐTĐ,
tới 1994 là 110 triệu và 1995 đã là 135 triệu (chiếm 4% dân số toàn cầu). Dự
báo: năm 2010 sẽ là 221 triệu người mắc bệnh ĐTĐ và 2025 là 330 triệu người
(chiếm 5,4% dân số toàn cầu).
1.2 Tình hình bệnh đái tháo đường tại Việt Nam
Ở Việt Nam, tình hình mắc bệnh ĐTĐ trong thời gian gần đây đang có
chiều hướng gia tăng, đặc biệt là tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ týp 2, tại các thành phố
lớn.
Năm 1990 Phan Sĩ Quốc và CS thực hiện điều tra ngẫu nhiên trên 4912
đối tượng từ 15 tuổi trở lên, sống ở hai khu vực nội thành và ngoại thành Hà
1
Nội, theo các tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ của WHO năm 1985 đã thu được kết
quả: tỷ lệ mắc ĐTĐ chung ở Hà Nội, năm 1991 là 1,1%.
Mai Thế Trạch và CS đã thực hiện một cuộc điều tra trên 5416 người từ
15 tuổi trở lên tại Tp. Hồ Chí Minh, kết quả tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ chung ở Tp.
Hồ Chí Minh, năm 1992: 2,52%.
Trần Hữu Dàng và CS sau khi khám và xét nghiệm máu trên 4980 đối
tượng ≥ 15 tuổi, đã xác định tỷ lệ mắc ĐTĐ chung ở Huế, năm 1994: 0,96%.
Năm 2000, tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ ở Hà Nội đã là 3,62%. Năm 2001, tỷ lệ này tại
khu vực nội thành của bốn thành phố lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Tp. Hồ
Chí Minh) là 4,1%.
Điều tra Quốc gia năm 2002 cho thấy tỷ lệ mắc ĐTĐ chung là 2,7%, khu
vực thành phố là 4,4%, khu vực đồng bằng là 2,1% và khu vực miền núi là
2,1%.
Điều tra Quốc gia năm 2008 cho thấy tỷ lệ ĐTĐ toàn quốc là 5,7%, tỷ lệ
rối loạn ĐH lúc đói là 18,2%, tỷ lệ rối loạn dung nạp đường là 15,4%. Tỷ lệ
ĐTĐ theo khu vực như sau: thành phố 6,9%, đồng bằng 6,3%, ven biển 3,8%,

miền núi 4,8%. Như vậy chỉ sau 6 năm tỷ lệ mắc ĐTĐ ở nước ta tăng 211%.
Việc quản lý bệnh mới chỉ tập trung ở một số tỉnh, thành phố. Số cán bộ y
tế có khả năng khám và điều trị bệnh ĐTĐ không chỉ ít về mặt số lượng, mà còn
không được phổ cập những kiến thức mới về bệnh ĐTĐ, nên chất lượng phát
hiện và điều trị bệnh ĐTĐ chưa tốt. Chi phí cho quản lý, điều trị bệnh rất tốn
kém do chi phí đi lại, ăn ở, của bệnh nhân ĐTĐ và người nhà bệnh nhân, do
bệnh ĐTĐ được phát hiện muộn nên có nhiều biến chứng.
Công tác phòng bệnh hầu như chưa được đề cập, do chưa đánh giá được
mức độ phổ biến, sự nguy hại do bệnh gây nên, cũng như quan niệm và thực
hành phòng và điều trị bệnh ĐTĐ týp 2 chưa đúng. Cách phòng bệnh ĐTĐ týp 2
hợp lý, nhất là bằng chế độ ăn và luyện tập thể lực chưa được áp dụng rộng rãi.

Tỷ lệ bệnh Đái tháo đường ngày một gia tăng rất nhanh tại Việt Nam
Đại dịch thế kỷ 21
2
2. Đái tháo đường là gì ?
a. Người bình thường là người có được khả năng tự điều hòa, cân bằng
lượng đường trong máu nhờ có Insulin, là một kích thích tố do tuyến tụy tiết ra.
b. Người Đái tháo đường là người mất khả năng tự điều hòa được lượng
đường trong máu để đáp ứng nhu cầu của cơ thể. Do đó lượng đường trong máu
ngày một tăng cao gây nên bệnh ĐTĐ.
3. Điều gì xãy ra trong cơ thể người bị bệnh Đái tháo đường ?
a. Hoặc là cơ thể không sản xuất ra Insulin (gọi là ĐTĐ týp 1).
b. Hoặc là cơ thể có sản suất ra Insuline (gọi là ĐTĐ týp 2), nhưng:
- Insulin được sản xuất ra ít.
- Insulin được sản xuất ra số lượng bình thường nhưng chất lượng kém.
- Insulin được sản xuất ra bình thường nhưng cơ thể quên mất cách sử
dụng, dẫn đến trạng thái trơ với chất này gọi là đề kháng Insulin.
Insulin có nhiệm vụ đưa đường Glucose từ trong lòng mạch máu vào
trong tế bào cơ thể để tạo thành năng lượng cho sự sống của con người; Một khi

mà Insulin không thực hiện được chức năng đó, đường Glucose trong từ trong
lòng mạch máu không lọt được vào tế bào, mà ở mãi trong lòng các mạch máu,
lượng đường ngày càng tăng cao trong máu gây nên bệnh Đái tháo đường.

3
4. Triệu chứng của bệnh Đái tháo đường
Đái tháo đường là tình trạng bệnh do tăng đường máu, với các biểu hiện như:
- Khát nước nhiều, thèm ăn, đi đái nhiều, mệt mỏi.
- Giảm cân mà không tìm thấy nguyên nhân, đặc biệt là gây béo phì thời
gian đầu và dần dần bị giảm cân.
- Dễ bị ghẻ lở, mụn nhọt nhất là vào mùa đông.
- Tụt huyết áp do đói bụng, run tay, vã mồ hôi
- Ở nữ, bên ngoài bộ phận sinh dục thường ngứa và dẫn đến nhiễm trùng.
- Có cảm giác bị tê bì, đi khập khiễng, đau buốt tay chân.
- Đục thủy tinh thể hoặc thị lực suy yếu.
- Suy giảm khả năng tình dục.
- Chân tay lở loét, vết thương lâu lành.
- Thường hay bị tiêu chảy hoặc táo bón
Một người được chẩn đoán Đái tháo đường khi xét nghiệm:
- Đường máu lúc đói (từ 8-12 tiếng sau khi ăn bữa cuối cùng trong ngày)
có kết quả từ 7 mmol/L (126mg/dl) trở lên; Hoặc
- Đường máu bất kỳ lúc nào, kết quả từ 11,1 mmol/L (200mg/dl) trở lên.
Dựa vào tuổi, giới, các yếu tố nguy cơ và các biểu hiện lâm sàng. ĐTĐ thường
được chia làm 3 loại:
- Bệnh Đái tháo đường týp 1
- Đái tháo đường týp 2
- Đái tháo đường thai kỳ: Đây là dạng Đái tháo đường xảy ra ở một số
thai phụ và chấm dứt sau khi sanh. Đái tháo đường thai kỳ có nhiều khả năng
phát triển thành bệnh Đái tháo đường týp 2 sau này.


4
5. Người nào dễ mắc bệnh Đái tháo đường
- Người từ 40 tuổi trở lên.
- BMI ≥ 23 : BMI = cân nặng (tính bằng kg) chia cho chiều cao bình
phương (chiều cao tính bằng m).
- Béo phì (nam có vòng bụng trên 90cm, nữ có vòng bụng trên 80cm).
- Ít vận động.
- Phụ nữ bị đái tháo đường thai kỳ hoặc tiền sử sinh con từ 4kg trở lên.
- Có bố mẹ (hoặc anh chị em) bị đái tháo đường.
- Tăng huyết áp.
- Rối loạn mỡ máu.
- Đã được chẩn đoán tiền đái tháo đường.
Những người càng có nhiều yếu tố nguy cơ kể trên thì càng dễ bị đái tháo
đường. Do vậy, cần được làm xét nghiệm đường máu sớm để phát hiện bệnh
và điều trị.
6. Biến chứng hay gặp ở người Đái tháo đường
Người bệnh đái tháo đường rất dễ mắc các bệnh nhiễm trùng như: viêm phổi,
nhiễm trùng niệu-sinh dục, nhiễm trùng răng… và tình trạng nhiễm trùng làm
cho đường máu khó kiểm soát hơn. Do bệnh đái tháo đường gây tổn thương các
mạch máu, nên có nhiều biến chứng thường gặp là:
- Tắc mạch não gây đột quỵ;
- Tổn thương mạch máu võng mạc gây mù lòa;
- Tắc mạch vành gây nhồi máu cơ tim;
- Tắc mạch ở chi gây cắt cụt, tàn phế;
- Rối loạn cương dương
- Đái tháo đường thai kỳ không được chẩn đoán và điều trị kịp thời sẽ ảnh
hưởng nặng nề đến sức khỏe mẹ và thai nhi.

Nam có bụng hình quả táo, nữ có bụng hình quả lê là yếu tố nguy cơ dễ mắc
bệnh Đái tháo đường

5
7. Phòng bệnh Đái tháo đường
Cho đến thời điểm hiện nay, y học chưa thể phòng ngừa được bệnh đái
tháo đường týp 1, nhưng hoàn toàn có thể phòng ngừa ĐTĐ týp 2, khi mắc bệnh
vẫn phải áp dụng các biện pháp để phòng ngừa các biến chứng. Đó là thay đổi
môi trường sống, lối sống. Do vậy, cần tập trung thực hiện các biện pháp sau:
a. Không để béo phì
Khi bị béo phì cần giảm 5-10% trọng lượng cơ thể, ăn uống hợp lý, khoa học:
- Không ăn mặn;
- Cơm, khoai ở mức vừa phải;
- Ăn nhiều rau xanh, trái cây,
- Nếu ăn thịt chỉ nên ăn thịt nạc.
- Hạn chế mỡ và các phủ tạng động vật;
- Không ăn thức ăn đóng hộp, chiên, nướng.
- Nên dùng các sản phẩm sữa chứa ít chất béo hoặc sữa đậu nành;
Ngoài ra cũng cần lưu ý:
- Tránh bỏ bữa ăn, tránh ăn bữa phụ, ăn vặt.
- Tôn trọng giờ ăn; không nên ăn quá nhiều vào bữa tối.
- Không uống nước có gaz, có cồn.
b. Bỏ thuốc lá:
- Người mắc bệnh ĐTĐ thường bị tắc mạch ngoại vi, nhất là ở các tay
chân. Hút thuốc lá càng làm mạch tay chân bị tắc nhiều hơn, và đôi khi
phải cắt cụt do bị tắc mạch gây nên hoại tử tay chân .
- Không chỉ dừng lại ở đó, hút thuốc lá làm cho hàm lượng mỡ cholesterol
“xấu” tăng, kéo theo mắc các bệnh tim mạch, đột quỵ, đàn ông thì “bất
lực” liệt dương.
c. Luôn hoạt động thể lực, tăng cường vận động:
Luyện tập thể dục thể thao không chỉ giúp cơ thể khỏe mạnh mà còn hạn
chế nguy cơ béo phì và còn đem lại hiệu quả trong việc hạ thấp lượng đường
trong máu.

Mỗi ngày bạn nên luyện tập ít nhất khoảng 30 phút.
Lựa chọn hình thức tập phù hợp với sức khỏe như: đi bộ, đạp xe, bơi
lội
Như vậy, Bệnh đái tháo đường ngày nay không còn là căn bệnh nguy hiểm chết
người như trước nữa mà nó thuộc loại bệnh phòng tránh và kiểm soát được. Nếu
được phát hiện, điều trị sớm và thay đổi lối sống bằng các biện pháp trên thì
người bệnh sẽ giảm được các biến chứng và kéo dài tuổi thọ.

6
Tập thể dục 30 phút/ngày giúp giảm cân, ổn định huyết áp, hạ đường máu
8. Chế độ ăn cho bệnh Đái tháo đường
Mục tiêu chung chế độ ăn
a. Đưa đường huyết về càng gần mức bình thường càng tốt.
b. Bảo vệ tim mạch, kiểm soát huyết áp, chống lại các loại chất béo có hại cho
tim mạch.
c. Giữ cân nặng ở mức hợp lý.
d. Ngăn chận hay làm chậm xuất hiện các biến chứng của bệnh đái tháo đường.
e. Bảo vệ sức khỏe, giúp người bệnh cảm thấy luôn luôn khỏe mạnh, lạc quan và
tin tưởng, tuân thủ tốt chế độ ăn.
Tuy nhiên không thể có một chế độ ăn áp dụng chung cho mọi người mà
cần phải xây dựng một chế độ ăn thích hợp cho từng cá nhân. Chế độ ăn riêng
cho từng cá nhân phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Mức cân nặng, giới tính.
- Nghề nghiệp (mức độ lao động nhẹ, trung bình, nặng).
- Thói quen và sở thích.

Một số điểm chú ý:
1. Nên ăn các thực phẩm được nấu tại nhà. Hạn chế tối đa việc ăn bên ngoài, trừ
khi bất khả kháng. Các loại thức ăn được chế biến bằng phương pháp luộc, hấp,
tiềm, nấu canh thì chứa ít chất độc hơn các loại chế biến ở nhiệt độ cao như xào,

chiên, đặc biệt là chiên dòn.
2. Một số loại thực phẩm đóng gói sẵn được quảng cáo “dành cho bệnh nhân đái
tháo đường”. Phải thật cẩn thận xem kỹ thành phần và bảng năng lượng được in
trên nhãn. Không nên tin cậy tuyệt đối vào các loại thực phẩm được quảng cáo
này, hơn nữa giá thành thường cao.
3. Chú ý không nên tùy tiện bỏ bữa ăn rồi sau đó ăn bù. Bỏ bữa ăn rất nguy hiểm
đặc biệt đối với các bệnh nhân có tiêm insulin.
4. Không bao giờ có suy nghĩ là cứ ăn uống thoải mái, vì đã có thuốc điều trị.
Trái cây:
1. Đường trong trái cây là loại đường fructose. Đường frutose làm tăng đường
huyết chậm hơn đường sucrose (đường mía) do đó bệnh nhân đái tháo đường có
thể dùng được.
2. Nên ăn những loại trái cây có màu đậm. Trái cây có màu đậm thường có
nhiều loại vitamin và chất khoáng cần thiết cho tim mạch và có lợi sức khỏe.
3. Bản thân chất đường, dù là đường trong trái cây hay đường mía đều làm tăng
mức đường huyết và tăng nồng độ các loại mỡ không tốt cho tim mạch vì vậy
nên dùng với lượng vừa phải.
4. Khi đã ăn trái cây thì nên bớt lượng chất bột trong bữa ăn hàng ngày với liều
lượng tương đương.
5. Tuyệt đối không được ăn trái cây để thay các loại thực phẩm khác.
Tóm lại, không có một chế độ ăn nào áp dụng chung cho tất cả mọi
người. Thông qua tư vấn với các chuyên gia dinh dưỡng, bác sĩ chuyên
khoa đái tháo đường, bệnh nhân có thể tự xây dựng khẩu phần thức ăn
riêng cho mình tùy theo giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp và sở thích. Bệnh
7
đái tháo đường điều trị khỏi là rất khó khăn, nhưng có thể phòng ngừa
được các biến chứng do ĐTĐ gây ra bằng chế độ ăn uống đảm bảo năng
lượng và các chất dinh dưỡng.
Chế độ ăn giúp lượng đường Glucose trong máu gần với mức bình
thường, giúp ổn định huyết áp, cân nặng hợp lý, nâng cao toàn bộ sức khỏe.

Nguyên tắc:
* Chia nhỏ khẩu phần ăn ra làm 4-5 bữa trong ngày: chia đều thức ăn trong
một ngày ra làm 4-5 bữa, không ăn 2-3 bữa, không được bỏ bữa ăn.
* Ăn đầy đủ các chất dinh dưỡng: Bữa ăn cần phải có đủ các chất như thịt,
béo, bột, gạo, vitamin, muối khoáng, nước, chất xơ Mỗi loại thực phẩm chứa
một số chất dinh dưỡng khác nhau và không có một thực phẩm nào chứa đầy đủ
các chất dinh dưỡng cần thiết cho nhu cầu con người. Do đó không ăn một loại
thực phẩm duy nhất được mà cần phải phối hợp nhiều loại thực phẩm với nhau.
- Tinh bột (chất đường, bột):
Gạo (gạo tẻ, gạo nếp, gạo lứt ) ngày ăn khoảng 200-300g tương đương với 4
lưng bát cơm. Khoai, củ tươi (khoai lang, khoai sọ, sắn ) ngày ăn khoảng từ
200-400g. Hạn chế ăn khoai tây, miến dong, bánh mỳ vì các loại này dễ làm
tăng nhanh đường huyết (1 ngày mỗi loại chỉ nên ăn 1 lần, tối đa là 2 lần từ 100-
150g). Bánh ngọt (không nên ăn quá 30g/ngày).
- Mỡ (chất béo):
Tốt nhất là ăn dầu thực vật, một ngày ăn khoảng 10-20g (dầu đậu nành, dầu mè,
dầu phụng, dầu ô-liu). Hạn chế dùng mỡ heo, bò, bơ, óc, lòng, phủ tạng, đồ hộp.
- Thịt (chất đạm):
Các loại thịt, cá (100-150g/ngày.) Với trường hợp thừa cân, béo phì cần chọn
thịt nạc, không ăn thịt có mỡ. Thịt gà, vịt thì cần bỏ da. Tăng cường ăn các loại
đạm thực vật từ các loại đậu như đậu khuôn (150-200g/ngày), sữa đậu nành
không đường (200-400 ml/ngày).
Thêm vào đó:
* Các loại rau, Quả: Rau, quả tươi rất cần vì cung cấp nhiều vitamin,
muối khoáng, bệnh nhân có thể ăn nhiều giúp giảm mỡ máu, chống táo bón.
* Ðậu đỗ: tốt và nên dùng, một mặt cung cấp đạm cho bệnh nhân, mặt khác
đường của đậu đỗ cũng dễ tiêu hóa và sử dụng rất tốt.
* Sữa: là thức ăn dễ tiêu, nhiều đạm và các chất bổ cần thiết cho cơ thể nên
dùng rất tốt cho bệnh nhân đái tháo đường. Nên dùng sữa chua tốt hơn sữa
thường.

8

9

8. Biến chứng bệnh Đái tháo đường
10
Theo dõi bệnh Đái tháo đường để phòng biến chứng
Khi bị bệnh Đái tháo đường, việc điều trị là cần thiết nhằm phòng ngừa
những biến chứng của bệnh Đái tháo đường. Việc tuân thủ điều trị, chế độ ăn
hợp lý, tập luyện thể dục thường xuyên…là rất cần thiết, tuy nhiên, một việc cực
kỳ cần thiết nữa, đó là phải biết cách theo dõi bệnh và các biến chứng.
Những việc bệnh nhân cần làm :
a. Huyết áp :
Theo dõi và điều trị duy trì huyết áp dưới mức 130/80 mmHg.
b. Kiểm tra đường máu thường xuyên:
Mua một máy thử đường máu cá nhân để có thể tự theo dõi đường máu
hàng ngày. Đường máu được thử khi đói (trước ăn sáng), sau ăn 2 giờ và trước
khi đi ngủ tối và khi cơ thể có những triệu chứng bất thường.
Đường trong máu tốt khi :
- Đường máu trước khi ăn sáng : từ mức 70 đến 130 mg/dl (3,9 - 7,2 mmol/l).
- Đường máu 2 giờ sau khi ăn: dưới mức 180 mg/dl (10 mmol/l).
- Đường máu trước khi đi ngủ tối: từ mức 110 đến 150 mg/dl (6,1 - 8,3
mmol/l).
Khi thường xuyên theo dõi xét nghiệm tại nhà, nếu thấy kết quả đường
máu cao hơn các mức ghi ở trên liên tục, hoặc kết quả dao động lên xuống, cao
thấp thất thường thì hãy nhờ Bác sĩ cho kiểm tra lại sức khỏe, làm lại các xét
nghiệm để phối hợp hoặc điều chỉnh liều thuốc thích hợp.


BMI được tính bằng cách lấy cân nặng (tính bằng kg) chia cho chiều cao

bình phương (chiều cao tính bằng m).
Khi BMI tính ra từ 18 đến 23 là tốt, dưới 18 là gầy, trên 23 là béo
Biến chứng bệnh Đái tháo đường
11
Bệnh Đái tháo đường gây ra rất nhiều biến chứng toàn thân nghiêm
trọng, các biến chứng này thường xãy ra trước đây 7 đến 15 năm từ khi
mới bị bệnh, đến khi phát hiện bệnh ĐTĐ thì biểu hiện triệu chứng rõ ràng
như ăn nhiều, uống nhiều, đái nhiều và gầy nhiều. Do vậy cần xét nghiệm
sớm để phát hiện bệnh ĐTĐ khi chưa có biến chứng hay có biến chứng
nhưng chưa nặng nề.
Những biến chứng thường gặp là:
- Tại mắt: đục thể thủy tinh. Glaucoma (thiên đầu thống), bệnh lý võng mạc, tiến
triển dẫn tới mù lòa, cần khám định kỳ để phát hiện và điều trị sớm.
- Tại thận: Viêm thận, suy thận, chạy thận nhân tạo → chết.
- Tại thần kinh: tê bì, run, đau buốt chân tay, liệt mặt, sụp mi mắt, liệt dương
- Biến chứng khác:
+ Mạch máu: Xơ vữa động mạch, tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim
+ Tổn thương tại da: Ngứa, loét, viêm da
+ Tổn thương xương, khớp: viêm xương, đau khớp, cứng khớp
+ Bệnh lý bàn chân: loét, hoại tử rất khó điều trị, dễ phải tháo khớp, cắt bỏ tổ
chức hoại tử > tàn phế suốt đời.

LOÉT HOẠI TỬ BÀN CHÂN DO BIẾN CHỨNG ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
12

Bệnh đái tháo đường gây biến chứng ở não, mắt, răng, miệng, tim, mạch,
thần kinh, loét, hoại tử, cắt cụt bàn tay, chân
13
MỘT SỐ HỎI ĐÁP VỀ BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
1. Người bệnh đái tháo đường chuẩn bị gì khi đi khám bệnh ?

Thông thường các bệnh nhân (BN) đái tháo đường (ĐTĐ) ở Việt Nam sẽ
đi khám bệnh mỗi tháng một lần.
Chuẩn bị trước ngày đi khám bệnh:
- Uống đầy đủ và đúng giờ tất cả các loại thuốc theo đơn hoặc sổ y bạ. Điều này
giúp thầy thuốc đánh giá chính xác hiệu quả điều trị. Nếu đã hết thuốc mà chưa
đi khám bệnh được theo hẹn thì nên mua tiếp thuốc để duy trì kết quả điều trị.
- Nếu có điều kiện nên thử đường máu ít nhất 3 ngày liên tiếp trước khi đi khám,
các kết quả này sẽ giúp thầy thuốc có cơ sở để điều chỉnh hoặc thay đổi chế độ
điều trị cho người bệnh. Ngoài ra BN cũng không nên thay đổi nhiều chế độ ăn
và tập luyện vì có thể ảnh hưởng nhiều đến kết quả xét nghiệm máu.
- Ghi lại những điều mà bạn thấy bất thường hoặc những điều bạn muốn biết
về bệnh, về biến chứng của bệnh ĐTĐ, về những loại thuốc Đông y mà người
khác mách cho bạn là có khả năng làm hạ đường máu để hỏi bác sĩ.
- Nếu người bệnh phải làm xét nghiệm máu thì cần nhịn đói trước khi lấy máu ít
nhất 8 giờ, vì vậy không nên ăn sau 10 giờ đêm của ngày trước khi đi khám.
2. Bệnh nhân ĐTĐ cần mang gì đến phòng khám bệnh?
- Sổ y bạ để bác sĩ biết được các thuốc BN đang dùng.
- Sổ ghi kết quả đo đường máu tại nhà. Càng có nhiều kết quả đo đường máu thì
bác sĩ càng dễ đánh giá hiệu quả của điều trị cũng như thay đổi thuốc hoặc liều
lượng thuốc. Trường hợp kết quả đường máu dao động thất thường hoặc nghi
ngờ kết quả thử không chính xác thì nên mang theo cả máy đo và hộp que thử
đến nhờ bác sĩ hoặc y tá kiểm tra lại.
- Với BN mới được điều trị bằng tiêm Insulin thì nên mang theo bút hoặc bơm
tiêm và lọ Insulin để bác sĩ hoặc y tá kiểm tra xem tiêm có đúng liều lượng và
kỹ thuật hay không.
- Nếu cần xét nghiệm nước tiểu thì có thể lấy nước tiểu từ nhà, tốt nhất lấy nước
tiểu sau khi ngủ dậy, đựng vào một lọ sạch. Tuy nhiên có thể lấy nước tiểu tại
bệnh viện nhưng BN cần nhịn Đái tháo trước 3-4 giờ.
Cách dùng thuốc vào buổi sáng ngày đi khám
- Thuốc hạ đường máu: Thông thường các BN sẽ nhịn đói khi đến khám, vì vậy

họ không được tiêm insulin và/hoặc uống bất kỳ loại thuốc hạ đường huyết nào.
Tuy nhiên với những BN mà bác sĩ đề nghị họ kiểm tra đường máu sau ăn 2 giờ
hoặc những BN có đo đường máu thường xuyên tại nhà và lần đi khám này
không làm xét nghiệm máu thì ăn uống như bình thường và những người này
cũng phải uống các thuốc hạ đường máu hoặc tiêm insulin đúng giờ như những
ngày trước đó.
- Thuốc hạ huyết áp: Các thuốc hạ huyết áp ít ảnh hưởng đến kết quả đo đường
máu nên các BN ĐTĐ vẫn uống thuốc hạ huyết áp đúng giờ quy định.
- Các thuốc hạ lipid máu (mỡ máu) hoặc Aspirin: Nên tạm ngừng cho đến khi
khám bệnh xong.
- Các thuốc điều trị bệnh tim mạch phối hợp nên uống bình thường.
14

3. Bệnh nhân cần nói những điều gì với bác sĩ khi đi khám bệnh?
- Người bệnh cần nói với thầy thuốc những bệnh mà họ mới được chẩn đoán vì
nhiều loại thuốc có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của thuốc hạ đường máu hoặc
đến tính chính xác của kết quả đo đường máu.
- Nói với bác sĩ tất cả những dấu hiệu lạ mà bản thân mới phát hiện như đau
ngực, mắt nhìn mờ, tê bì chân tay vì có thể đó là những biến chứng của bệnh
ĐTĐ, đôi khi là những biến chứng rất nặng.
- Nếu bác sĩ quên thì người bệnh cần yêu cầu được đo cân nặng, đo huyết áp,
đếm nhịp tim ở tất cả các lần khám. Ngoài ra mỗi 6-12 tháng cần yêu cầu được
khám bàn chân, khám mắt.

4. Cần làm những xét nghiệm gì mỗi lần đi khám bệnh?
- Tùy tình trạng bệnh, mức độ của các biến chứng ĐTĐ mà người bệnh ĐTĐ có
thể cần làm các xét nghiệm khác nhau và khoảng cách giữa các lần xét nghiệm
cũng khác nhau.
- Nếu người bệnh không có máy đo đường máu cá nhân thì cần được làm xét
nghiệm đường máu ở tất cả các lần khám.

- Các xét nghiệm mỡ máu (Cholesterol, Triglyceride, HDL-C, LDL-C); chức
năng thận (ure, Creatinin), acid uric, HbA1C và có thể cả men gan (ALT, AST)
mỗi 3-6 tháng.
- Các xét nghiệm khác như điện tim, soi đáy mắt cũng cần được thực hiện 3-6
tháng/lần kể cả khi không có triệu chứng gì. Lý do là ở BN ĐTĐ, các biến
chứng võng mạc (đáy mắt), suy mạch vành (thậm chí cả nhồi máu cơ tim) có khi
hoàn toàn không có triệu chứng lâm sàng nên nếu không làm xét nghiệm định
kỳ thì có thể bỏ sót nhiều biến chứng, thậm chí cả biến chứng nặng.
- Một số người khi đến khám sẽ được yêu cầu làm các xét nghiệm nhất là khi
thầy thuốc nghi ngờ họ có những biến chứng đặc biệt, ví dụ xét nghiệm
microalbumin niệu để phát hiện sớm biến chứng thận, xét nghiệm công thức
máu khi BN có suy thận, siêu âm tim khi họ có suy tim, siêu âm bụng
- Xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu nên được làm mỗi lần đi khám vì có
nhiều giá trị như phát hiện biến chứng thận, nhiễm khuẩn tiết niệu
- Các thuốc khác như thuốc điều trị biến chứng thần kinh, biến chứng mắt
cũng có thể chưa cần uống cho đến khi khám bệnh xong.
5. Một đơn vị Insulin có nghĩa là gì?
Insulin được tìm ra từ năm 1921 và sử dụng để điều trị bệnh ĐTĐ.
Trên vỏ lọ thuốc Insulin thường ký hiệu số lượng/nồng độ Insulin là IU=
international unite = đơn vị quốc tế (có nghĩa là ở bất kỳ đâu trên thế giới, hiệu
lực của một đơn vị Insulin đều giống nhau).
Tuỳ theo công nghệ sản suất và độ tinh chế, một đơn vị Insulin được định nghĩa
với nhiều lượng rất khác nhau:
Đơn vị quốc tế lần thứ nhất (1925): 8 IU/mg bột khô, hay 1IU = 0,125mg.
Đơn vị quốc tế lần 2 (1935): 22 IU/mg bột khô, hay 1IU = 0,04545mg.
15
Đơn vị quốc tế lần 3 (1952): 24,5 IU/mg, hay 1 IU = 0,04816mg.
Đơn vị quốc tế lần 4 (1958): 25,36 IU/mg, hay 1 IU = 0,03943mg.
Kể từ năm 1991: 1mg Insulin khô có 28,7IU, hay 1 IU = 0,0348mg.
6. Vì sao bệnh đái tháo đường cần kiểm tra đường máu thường xuyên?

a. Tầm quan trọng của việc kiểm tra đường máu:
Muốn điều trị thành công bệnh đái tháo đường (ĐTĐ), khống chế đường máu
ở mức bình thường, bạn cần đạt được sự cân bằng giữa lượng thức ăn hàng
ngày, mức độ hoạt động thể lực với các loại thuốc điều trị bệnh ĐTĐ. Đường
máu được giữ trong giới hạn bình thường sẽ hạn chế sự xuất hiện các biến
chứng của bệnh. Trong thực tế, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự cân bằng
này, do đó việc khống chế đường máu trong mức lý tưởng là khá khó khăn và có
thể cần được điều chỉnh liên tục thông qua chế độ ăn, thuốc điều trị Muốn vậy
người bệnh cần được kiểm tra đường máu thường xuyên. Lợi ích của nó là:
- Cung cấp cho người bệnh những thông tin chính xác về bệnh ĐTĐ của họ.
- Hiểu biết rõ hơn về mối tương quan giữa nồng độ đường máu và hoạt động
thể lực, các bài tập thể dục thể thao đang thực hiện, những loại thức ăn đang
dùng hoặc các yếu tố khác như lối sống, đi du lịch, stress hoặc khi đang bị ốm.
- Cho biết lối sống đang được lựa chọn, các thuốc đang dùng có hiệu quả đến
mức nào đối với ĐTĐ.
- Phát hiện ngay các trường hợp đường máu quá cao hoặc quá thấp (hạ
đường máu), giúp bạn đưa ra những quyết định quan trọng như cần phải ăn thêm
trước khi tập thể dục thể thao, điều trị kịp thời hạ đường máu hoặc thông báo
ngay cho bác sĩ điều trị.
- Cho biết khi nào cần phải xin ý kiến của bác sĩ chuyên khoa về cách điều
chỉnh liều lượng Insulin, thuốc viên hạ đường máu, chế độ ăn khi không kiểm
soát được đường máu trong thời gian khá dài.
b. Tự thử đường máu như thế nào?
- Theo những khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới và Hiệp hội ĐTĐ
Mỹ, các bệnh nhân ĐTĐ cần có máy thử đường máu riêng (glucometer) để có
thể tự kiểm tra đường máu thường xuyên tại nhà. Kèm theo máy thử là một bút
bấm, kim bấm máu và các que thử. Dùng bút bấm kim vào đầu ngón tay, sau đó
nặn lấy 1 giọt máu để nhỏ lên que thử (đã được nối một đầu vào máy thử hoặc
để ngoài). Thông thường máy sẽ báo kết quả sau 15-30 giây. Kết quả có thể biểu
thị bằng đơn vị mmol/l hoặc mg/dl.

- Khi nào nên thử đường máu? Khi mới bắt đầu điều trị nên thử 2-4 lần
mỗi ngày, thường là trước khi ăn sáng (được coi là lúc đói), trước ăn trưa, trước
ăn tối và trước khi đi ngủ. Đôi khi sẽ phải thử thường xuyên hơn như sau khi ăn
2 giờ hoặc nửa đêm, đặc biệt trong những ngày mới thay đổi thuốc, bị ốm hoặc
khi có biểu hiện hạ đường máu hay tăng đường máu. Tuy nhiên khi đường máu
đã ổn định thì bạn có thể thử thưa hơn, ví dụ 1-2 lần/ tuần.
- Bạn có thể mua máy thử đường máu tại các cửa hàng bán dụng cụ y tế.
Lưu ý là có rất nhiều loại máy khác nhau, mỗi loại máy lại cần có que thử riêng.
Riêng bút và kim chích máu thì có thể sử dụng chung.
16
- Nên hỏi ý kiến bác sĩ hoặc y tá chuyên khoa ĐTĐ để chọn được loại
máy thử thích hợp nhất cả về mặt kinh tế cũng như độ tiện dụng Cũng nên tìm
hiểu các thông tin cần thiết như thử đường máu như thế nào, khi nào và ở đâu,
có phải thử thường xuyên không?
c. Mục tiêu kiểm soát đường máu trong giới hạn nào được coi là tốt:
Thông thường các bệnh nhân ĐTĐ nên thử đường máu trước bữa ăn sáng và
sau bữa ăn 2 giờ. Nhiều bệnh nhân có mức đường máu lúc đói hoặc trước bữa ăn
sáng rất tốt nhưng vẫn bị nhiều biến chứng vì mức đường máu sau ăn của họ lại
khá cao. Các nghiên cứu gần đây cho biết là đường máu sau ăn cao có khả năng
gây biến chứng gần bằng với đường máu lúc đói cao.
Các bệnh nhân ĐTĐ cần biết:
- Đường máu quá thấp (hạ đường máu): Đường máu dưới 2,8 mmol/l.
- Có nguy cơ bị hạ đường máu: Đường máu dưới 3,5 mmol/l.
- Bình thường (tốt): Đường máu trước ăn = 4- 6 mmol/l, sau ăn = 4-8 mmol/l.
- Chấp nhận được: Đường máu trước ăn = 6-7 mmol/l, sau ăn có thể lên tới
11 mmol/l.
- Cao (không tốt): Đường máu trước ăn lớn hơn 7 mmol/l, sau ăn lớn hơn 11
mmol/l.
d. Các nguyên nhân làm đường máu dao động (tăng hoặc giảm)
Thức ăn: Thay đổi giờ ăn, loại thức ăn, số lượng thức ăn

- Tập thể dục thể thao hoặc lao động chân tay.
- Thay đổi loại, liều lượng thuốc điều trị ĐTĐ.
- Các stress về tâm lý, tình cảm.
- Mắc bệnh khác: cảm cúm, viêm phổi, đau dạ dày, tiêu chảy
- Uống nhiều rượu bia.
-Dùng thêm các thuốc khác như thuốc chống viêm giảm đau, thuốc
corticoid,
- Do thay đổi kỹ thuật thử hoặc do thay máy, giấy thử khác
e. Phải làm gì khi kết quả thử đường máu có vẻ không chính xác?
Nếu nghi ngờ kết quả đường máu không chính xác, hay đường máu cao hoặc
thấp bất thường, nhưng bạn không thấy có biểu hiện gì đặc biệt thì hãy:
- Kiểm tra xem que thử có quá hạn chưa?
- Que thử có phù hợp với máy không hoặc đã chỉnh máy theo mã (code) của
hộp giấy mới chưa.
- Lấy máu có đủ không?
- Đưa que thử vào máy có đúng cách không?
- Que thử tuy còn hạn dùng nhưng có thể bị ảnh hưởng bởi khí hậu, nhiệt độ,
ánh sáng Khi đã mở một hộp giấy thử thì chỉ nên sử dụng trong vòng 3 tháng.
- Kiểm tra ngón tay lúc lấy máu đã khô chưa, có còn dính cồn không?
- Máy thử có sạch, có bị rơi hay va đập gì không?
- Kiểm tra pin của máy.
Cũng giống như thử máu tĩnh mạch, kết quả 2 lần thử liền nhau (có khi với
cùng một giọt máu) có thể cho kết quả khác nhau, nhưng không được vượt quá 2
mmol/l. Có khuyến cáo là nếu nghi ngờ, bạn nên thử lại ngay bằng một que thử
mới và chú ý thực hiện đúng như hướng dẫn.
17
Thông thường, tất cả các máy thử đều có kèm một lọ dung dịch chuẩn dùng
để kiểm tra độ chính xác của máy. Tuy nhiên lọ dịch chuẩn này giá khá đắt, và
chỉ có tác dụng trong vòng vài tháng sau khi mở lọ lần đầu tiên, vì vậy nếu nghi
ngờ máy không chính xác hoặc có vấn đề trục trặc, bạn có thể liên hệ với văn

phòng của hãng sản xuất, nhà phân phối máy tại Việt Nam để được kiểm tra
hoặc hướng dẫn kiểm tra.
7. Người bị Đái tháo đường có được uống bia rượu không ?
Về mặt dinh dưỡng, rượu là một hóa chất có năng lượng (1gam rượu cung
cấp 7 Kcalo) nhưng không có giá trị dinh dưỡng. Hơn nữa, khi uống rượu quá
nhiều sẽ gây tổn thương gan, xơ gan, chảy máu bất thường, tăng Triglycerid
trong máu đưa đến xơ vữa động mạch.
Ngoài ra, trên bệnh nhân Đái tháo đường nếu uống rượu mà không ăn dễ
bị hạ đường huyết hôn mê; đặc biệt đối với bệnh nhân đang dùng thuốc uống hạ
đường huyết hoặc đang chích Insulin. Do đó, nếu dùng rượu bia nên tuân thủ
theo những hướng dẫn sau:
- Dùng lượng ít (1-2 ly rượu nhỏ, 1-2 chai bia) cần uống với tốc độ chậm
và uống trong bữa ăn. Không bao giờ uống riêng rẽ, lúc đói dễ hạ đường huyết.
- Những người đường huyết không ổn định, phụ nữ mang thai không nên
uống bia rượu. Không nên uống khi lái xe.
- Nếu sử dụng thường xuyên cần hỏi ý kiến của bác sĩ để giúp cách tính
toán ăn uống.
Nên giảm dần lượng uống vào và nên chủ động uống ít hơn mức tửu
lượng của mình.
8. Có cách nào chữa khỏi bệnh Đái tháo đường không?
Cho đến nay, việc chữa khỏi bệnh Đái tháo đường vẫn còn trong hứa hẹn.
Tuy nhiên với nền khoa học hiện đại, người bệnh có thể sống chung một cách
hòa bình với chúng. Trong đó bệnh nhân sẽ là người quản lý bệnh tốt nhất nếu
họ được trang bị đầy đủ những kiến thức cần thiết để chăm sóc bệnh Đái tháo
đường, bao gồm: chế độ ăn uống lành mạnh, luyện tập thể dục phù hợp, dùng
thuốc đúng theo sự hướng dẫn của thầy thuốc, biết cách tự theo dõi đường
huyết, biết được các biểu hiện của cơn hạ đường huyết cũng như cách xử trí, biết
cách tự chăm sóc để ngăn ngừa các biến chứng của Đái tháo đường như: huyết
áp, tim mạch, thận, mắt, thần kinh và bàn chân.
9. Khi nào cần tiêm Insulin ?

Cho tới nay chưa có khả năng chữa khỏi bệnh ĐTĐ và nếu không điều trị,
quản lý tốt, bệnh sẽ có nhiều biến chứng nguy hiểm. Cũng có thể phòng ngừa
được ĐTĐ bằng cách thay đổi hành vi, lối sống lành mạnh, luyện tập thể dục thể
thao đều đặn.
Có nhiều thuốc được sử dụng để điều trị ĐTĐ, trong đó có Insulin. Đây là
một hormon có tác dụng làm giảm đường máu suốt 24 giờ trong ngày. Ngoài ra,
Insulin còn được tiết theo nhu cầu từng lúc của cơ thể, sự tăng đường máu sẽ
18
kích thích tụy sản xuất Insulin, nhất là tăng đường máu sau các bữa ăn. Insulin
bị phá hủy ở đường tiêu hóa, do vậy phải dùng theo đường tiêm.
Thông thường Insulin được dùng điều trị cho các bệnh nhân ĐTĐ týp 1 -
hay gặp ở người trẻ. Cũng được sử dụng trong điều trị ĐTĐ týp 2 - hay gặp ở
người già. Trong ĐTĐ týp 2, Insulin được tiêm khi:
- Có thể ceton niệu.
- Đường huyết tăng khó kiểm soát bằng chế độ ăn, thuốc uống.
- ĐTĐ týp 2 nhưng thể trạng không béo.
- Không kiểm soát được sự giảm cân và tăng đường huyết.
- Thất bại trong điều trị với sulfonylurea.
- Rối loạn mỡ máu, đặc biệt tăng Triglycerid không đáp ứng với chế độ ăn và
thuốc hạ mỡ máu.
- Bệnh lý cấp tính kèm theo, biến chứng cấp tính, phẫu thuật.
- Suy gan thận, bệnh lý mạch máu ở người ĐTĐ nặng (mắt, tim, thận, não, tắc
mạch chi ).
10. "Đề kháng Insulin" là gì ?
Đái tháo đường là một bệnh lý có rối loạn tăng đường trong máu lâu dài,
do cơ thể sản xuất không đủ Insulin hoặc do sử dụng Insulin không hiệu quả.
Đó là tình trạng Insulin bị giảm mất hiệu quả tác dụng kiểm soát đường
máu so với bình thường. Bệnh nhân bị đề kháng Insulin thì nồng độ Insulin
trong máu vẫn bình thường, thậm chí còn cao hơn mức bình thường, nhưng do
đáp ứng của tế bào kém nên cơ thể bệnh nhân không kiểm soát được đường máu

sao cho ổn định, thấp xuống, mà đường máu vẫn cao hơn bình thường.
11. Phụ nữ bị tiểu đường có thể sinh con không?
Nếu muốn có con, bạn cần có kế hoạch chuẩn bị chu đáo.
Cả 2 vợ chồng cùng gặp bác sĩ để bàn bạc cụ thể. Suốt thời gian chuẩn bị thụ
thai, mang thai, sinh đẻ, lượng đường trong máu phải được quản lý chặt chẽ, nên
duy trì HbA1c ≤ 6%. Trong thời gian mang thai nên đạt mục tiêu:
Đường máu lúc đói nhỏ hơn 95mg/dl.
Đường máu 1 giờ sau ăn nhỏ hơn 140mg/dl.
Đường máu 2 giờ sau ăn nhỏ hơn 120mg/dl.
Trước khi có thai cần điều trị ổn định các bệnh lý về mắt, huyết áp, thận, tim
mạch (nếu có).
Việc sử dụng thuốc, chế độ ăn uống, luyện tập phải tuân thủ nghiêm túc
theo hướng dẫn của thầy thuốc chuyên khoa. Nếu bạn bị ĐTĐ týp 2 và đang
dùng thuốc viên hạ đường huyết bạn nên ngưng và dùng Insulin để kiểm soát
đường máu.
Trong quá trình thai kỳ cần được theo dõi cẩn thận bởi các thầy thuốc
chuyên khoa Nội tiết và chuyên khoa Sản. Nên nhập viện trước ngày dự sinh để
được theo dõi sát và nên sinh con ở bệnh viện chuyên khoa.
19
12. Ở mức độ bệnh như thế nào thì ĐTĐ gây biến chứng?
Bệnh ĐTĐ ngay cả khi điều trị có vẻ tốt nhưng vẫn có biến chứng xẩy ra.
Theo các công trình nghiên cứu gần đây thấy rằng quản lý đường máu tốt sẽ làm
giảm biến chứng mạch máu khoảng 25% ở người ĐTĐ týp 2 và 54% ở người
ĐTĐ týp 1.
Đường máu được coi là tốt khi thử lúc đói 4 đến 7mmol/l; đường máu thử
sau ăn 2giờ 7 đến 10mmol/l. Ngoài ra cần phải thử nồng độ HbA1c - cho phép
ước lượng đường máu trung bình 2-3 tháng vừa qua- nếu HbA1c nhỏ hơn7%
được coi là đường máu ổn định tốt.
13. Những biến chứng thường gặp do bệnh ĐTĐ gây nên là gì? Quá trình
biến chứng đó và những hậu quả để lại.

Có hai loại biến chứng: biến chứng tức thời và biến chứng lâu dài.
- Biến chứng tức thời như hôn mê gặp khi bệnh nhân không được điều trị
tốt, đường máu tăng lên quá cao có thể đe doạ trực tiếp đến tính mạng.
- Biến chứng lâu dài của bệnh ĐTĐ bao gồm:
• Bệnh về mắt;
• Bệnh về thận;
• Bệnh về thần kinh.
Đối với mắt làm dễ vỡ mạch máu gây chảy máu đáy mắt và gây mù lòa.
Đối với thận dẫn đến giảm dần chức năng thận và suy thận phải lọc máu
liên tục, có thể dẫn đến tử vong.
Tổn thương thần kinh do ĐTĐ rất phức tạp, tuy nhiên có thể điểm qua
một số tổn thương điển hình như biến chứng bàn chân đau, tê, mất cảm giác, bị
loét thúi thịt và phải cắt cụt tay chân, gây liệt dạ dày, liệt dương….
Ngoài ra phải kể đến các bệnh khác tuy không phải là biến chứng trực tiếp
của bệnh ĐTĐ song thực sự bệnh ĐTĐ làm gia tăng 3-4 lần các bệnh tim mạch
như tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim, tai biến, đột quị …
14. Người bệnh cần làm gì để phát hiện sớm biến chứng? Việc phát hiện
sớm biến chứng đó giúp ích gì cho quá trình điều trị không?
Trước hết người bệnh cần được khám chữa định kỳ tại các cơ sở chăm sóc
chuyên khoa về bệnh ĐTĐ-nơi có đủ trang thiết bị cần thiết và nhất là có đội
ngũ bác sĩ chuyên khoa đủ năng lực và kinh nghiệm lên kế hoạch phát hiện các
biến chứng này. Ngoài ra tự thân bệnh nhân và gia đình cần phải tìm hiểu thông
tin liên quan đến bệnh của mình qua sách báo, tạp chí thậm chí qua mạng
internet. Nếu bệnh nhân biết về các biểu hiện (triệu chứng) của các biến chứng
có thể cảnh báo bác sỹ khi đi khám bệnh. Từ 1 đến 2 năm nên vào viện 1 lần để
các bác sỹ có đủ thời gian làm các khám nghiệm cần thiết nhằm phát hiện sớm
biến chứng.
Việc phát hiện sớm biến chứng rất có ý nghĩa cho quá trình điều trị. Làm
các xét nghiệm, qua kết quả xét nghiệm đó lên kế hoạch điều trị tích cực đường
máu, huyết áp, dùng thuốc đặc hiệu, phối hợp… sẽ làm giảm được số bệnh nhân

cần phải lọc máu do suy thận. Một nửa số cắt cụt bàn chân sẽ tránh được
20
15. Chỉ số đường huyết là gì ?
Chỉ số GI (Glycemic Index- chỉ số đường huyết) đóng vai trò quan trọng
trong can thiệp dinh dưỡng dành cho bệnh nhân đái tháo đường.
Để đánh giá mức độ ảnh hưởng của thực phẩm làm tăng đường huyết nhanh,
trung bình hay chậm, người ta phải chuẩn hóa thực phẩm với cùng một số lượng
chất bột đường là 50 gram như nhau và lấy đường glucose hay bánh mì trắng
làm chuẩn với giá trị là 100, gọi là chỉ số đường huyết GI.
Thực phẩm có GI trung bình và thấp sẽ cung cấp glucose chậm và đều
đặn vào máu, giúp duy trì năng lượng đường huyết ổn định từ đó hạn chế các
biến chứng cho bệnh nhân đái tháo đường.
Các thực phẩm sau khi ăn vào sẽ được tiêu hóa, hấp thụ vào máu và làm tăng
đường huyết gọi là phản ứng đường huyết. Mức độ tăng đường huyết tùy thuộc
vào số lượng thực phẩm ăn vào, hàm lượng và loại chất bột đường
(Carbohydrate, Glucid), thành phần chất đạm, chất béo, chất xơ chứa trong thực
phẩm, cách chế biến
GI được áp dụng tốt nhất đối với những thực phẩm có lượng bột đường
cao. Các loại thực phẩm làm tăng đường huyết nhanh sẽ có GI từ 70 trở lên.
Mức GI trung bình là từ 56 đến 69, GI thấp dưới 55 sẽ là những loại thực phẩm
làm tăng đường huyết chậm.
16. Tại sao đái tháo đường gây ra các biến chứng bàn chân ?
Đái tháo đường là bệnh lý có tăng lượng đường (glucose) trong máu. Tình
trạng tăng đường máu sẽ dẫn đế các tổn thương các cơ quan như thận, mắt,
mạch máu và thần kinh đồng thời làm suy giảm khả năg chống lại tình trạng
nhiễm trùng của cơ thể. Các tổn thương ở bàn chân của bệnh nhân đái tháo
đường thường gặp và là hậu quả của các tổn thương mạch máu, thần kinh cũng
như khả năng chống lại tình trạng nhiễm trùng và các tổn thương này cũng rất dễ
tiến triển nặng lên nhanh chóng
Do tổn thương thần kinh do đái tháo đường, bệnh nhân thường giảm hoặc

mất cảm giác của bàn chân. Việc tiết mồ hôi và chất nhờn ở bàn chân cũng thay
đổi. Những yếu tố này phối hợp với nhau có thể dẫn đến sự thay đổi áp lực lên
các thành phần của bàn chân như da, xương, khớp khi đi lại và dẫn đến tổn
thương các thành phần này. Đau là những triệu chứng đầu tiên xuất hiện.
Tổn thương mạch máu và hệ miễn dịch làm cho việc liền vết thương trở
nên rất khó khăn. Nhiễm khuẩn da, mô mềm và xương xuất hiện. Những nhiễm
khuẩn này có thể lan đến các hạch. Do tình trạng thiếu máu nuôi dưỡng nên khả
năng ngấm kháng sinh vào vị trí nhiễm trùng rất khó khăn. Thông thường, khi
tình trạng nhiễm trùng tại chỗ nặng lên, thường bệnh nhân được tư vấn cắt bỏ 1
phần bàn chân, cả bàn chân hoặc kèm 1 phần cẳng chân. Nếu nhiễm trùng lan
vào máu, nguy cơ tử vong sẽ tăng cao.
Bệnh nhân đái tháo đường phải ý thức được đầy đủ các tổn thương có thể
mắc phải do biến chứng của bệnh, cách phòng ngừa, cách phát hiện các triệu
chứng sớm của tổn thương và cách săn sóc bàn chân khi chưa bị tổn thương
cũng như khi bị tổn thương. Bên cạnh đó, bệnh nhân phải ý thức được việc kiểm
soát tốt đường huyết đóng vai trò rất quan trọng.
21
Bệnh nhân phải nắm được các giai đoạn diễn biến của tổn thương bàn
chân do đái tháo đường, cách chăm sóc của từng giai đoạn, khi nào thì có thể
điều trị ở nhà, khi nào thì cần có sự can thiệp của nhân viên y tế.
17. Tiền Đái tháo đường là gì ? Cách phát hiện ?
Tiền đái tháo đường là tình trạng đường huyết cao nhưng chưa cao đến
mức bị bệnh Đái tháo đường. Tiền đái tháo đường còn được gọi là rối loạn
đường huyết lúc đói hoặc rối loạn hấp thu đường.
Tiền đái tháo đường sẽ tiến triển đến đái tháo đường týp 2 trong khoản
thời gian 10 năm. Các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy có khoảng 50% số người
mắc tiền đái tháo đường có nguy cơ bị bệnh tim mạch hoặc đột qụy.
Làm thế nào để phát hiện tiền đái tháo đường?
Trước hết cần nhìn nhận những yếu tố nguy cơ có thể gây ra tiền đái tháo
đường như:

- Béo phì;
- Tăng huyết áp.
- Người có tuổi trên 40;
- Những người có người nhà mắc bệnh đái tháo đường;
- Đái tháo đường thai kỳ hay đẻ con trên 4kg.
Do vậy để có thể tầm soát và sớm phát hiện bệnh đái tháo đường, chúng
ta cần quan tâm đến các yếu tố nguy cơ và khi có một trong những yếu tố nguy
cơ kể trên chúng ta cần phải nghĩ đến tiền đái tháo đường và xét nghiệm đường
máu để phát hiện.
18. Mục tiêu và cách xử trí tiền đái tháo đường
Mục tiêu thay đổi hành vi lối sống được đặt lên hàng đầu vì nó an toàn và
hiệu quả trong kiểm soát đường huyết và giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch.
Mục tiêu điều trị huyết áp và mỡ máu cũng giống như đối với người bệnh ĐTĐ.
Người mắc tiền ĐTĐ nên giảm cân nặng từ 5 đến 10% và về lâu dài nên duy trì
mức cân nặng này, sử dụng các chiến lược như tự theo dõi, đặt mục tiêu điều trị
khả thi, từng bước một, kiểm soát các tác nhân kích thích,
Thông thường, người bị tiền ĐTĐ nên tập thể dục ở mức độ vừa phải
khoảng 30 đến 60 phút mỗi ngày, tối thiểu 5 ngày trong tuần. Thực hiện chế độ
ăn ít chất béo, chất béo bão hòa và phải đủ chất xơ. Giảm bớt muối và tránh đồ
uống có cồn để kiểm soát huyết áp.
Mỡ máu cũng phải được duy trì ở mức mục tiêu điều trị của người bệnh
ĐTĐ. Người mắc tiền ĐTĐ cũng phải duy trì mức huyết áp như mức mục tiêu
được khuyến cáo hiện nay của người bệnh ĐTĐ (huyết áp tâm thu nhỏ hơn
130mmHg và tâm trương 80mmHg).
Theo dõi tiền Đái tháo đường và điều trị?
Người mắc tiền ĐTĐ nên làm xét nghiệm đường máu 6 tháng/lần và kiểm
tra microalbumin niệu và đường huyết đói, HbA1C, mỡ máu 6 tháng một lần.
22
Bệnh nhân có nguy cơ cao nhất (có nhiều hơn một những yếu tố sau: rối loạn
dung nạp glucose, rối loạn đường huyết đói) cần được theo dõi chặt chẽ hơn.

Phác đồ xử trí tại Việt Nam
Hiện nay chưa có khuyến cáo chính thức, nên theo chúng tôi, căn cứ vào những
khuyến cáo tại Mỹ:
Thay đổi lối sống: Vai trò then chốt
- Giảm cân: 5 - 10% cân nặng
- Ăn ít chất béo, chất béo bão hòa, ăn nhiều chất xơ.
- Ăn nhạt.
- Tránh uống đồ cồn.
- Luyện tập thể dục: 30-60 phút/ngày, ít nhất 5 ngày/tuần.
- Thuốc hạ đường huyết: Metformin (Metfamin 850mg). Dùng khi thay đổi lối
sống nhưng đường huyết vẫn nằm ở mức giới hạn cao trong 6 tháng đến 1 năm.
- Mục tiêu: đường huyết nhỏ hơn 5,6 mmol/L.
- Lợi ích: làm chậm tiến triển thành ĐTĐ, chậm biến chứng tim mạch.
Điều trị các yếu tố nguy cơ:
- Điều trị mỡ máu;
- Điều trị Huyết áp;
- Các yếu tố khác

23
Hãy dừng lại
ngay bây
giờ!
45
o
Th gi nư ả
THƠ PHÒNG CHỐNG ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
Căn bệnh thế giới chẳng nhường
riêng ai
Nếu thấy bụng cứ đói hoài
Uống nhiều đái lắm mệt nhoài người

ra
Nên đến bác sỹ kiểm tra
Đường niệu, đường huyết, glucose
thế nào
Nếu thấy chúng nó cao cao
Đái tháo đường rồi đấy đồng bào
nhớ cho
Ngưỡng đường huyết biết mà so
Trên 7 lúc đói, ăn no trên 10 (11,1)
Thế là bị Đái tháo đường rồi
Song đừng lo đứng, lo ngồi, sầu đau
Đến khám bác sỹ mau mau
Lạc quan kiên nhẫn là khâu hàng đầu
Ăn uống thanh đạm kế sau
Ít cơm, ít mỡ, luộc rau nhiều nhiều
Bữa chính: sáng, trưa, tối, chiều
Bữa phụ: giữa buổi (sáng, chiều) và
đêm
Mọi người chú ý phải nên
Đi thăm bác sĩ xin khuyên cách
phòng
Đừng có sốt ruột, nóng lòng
Thuốc dùng cao lượng những mong
khỏi liền
Đã không! Mà lại rất phiền
Gây tụt đường huyết trước thềm bữa
ăn
Run tay, lắp bắp nói năng
Đói cồn, mồ hôi vã ướt bằng trời
mưa

Điều này cần kíp xin thưa
Nước đường cái kẹo chần chừa
không nên
Cái gì một chút ăn thêm
Đừng để tái diễn mà nên ngăn ngừa
Mối nguy dẫn đến xin thưa
Não thiếu dưỡng khí thì chưa biết
chừng
Hôn mê, bại liệt, tim dừng
Nên cần bình tĩnh xin đừng hoang
mang
Ăn uống thanh đạm nhẹ nhàng
Là điều cốt yếu giữa hàng thuốc tiên
Thể dục vận động thường xuyên
Mới đến dùng thuốc và nên dần dần
Nếu béo thì phải giảm cân
Thế nhưng phải giảm dần dần đó
nghe
Nếu ăn uống quá khắt khe
Thể dục quá độ lại e tụt đường
Lại gây bao mối tai ương
Vậy nên xác định cứ bình thường
thôi
Mà sống với nó suốt đời
Không nóng vội, không hợt hời chủ
quan.
Bàn riêng về uống và ăn
Rau xanh là lượng được tăng lên
nhiều
Bữa trưa và bữa tối chiều

Cơm hai lưng chén, ăn nhiều không
nên
Đồ ăn: nấu, luộc rền rền
Hãy quên đồ rán, hãy quên mỡ xào
Hai, ba bữa phụ thì sao
Thay bằng củ quả dồi dào quanh ta
Củ từ, khoai sọ, bí, cà
Củ cải, cà rốt nữa là đậu xanh
Quả lê, quả dứa, ổi xanh
Thêm nữa phải kể đến anh ốc đồng
Cá diếc nhét chè vào trong
Đem chưng cách thủy được không?
Hẳn là
Còn đây tiếp tục kiểm tra
Mướp đắng xào với trứng gà rất hay
Lươn vàng xào với hành tây
Thức ăn tuyệt diệu giảm ngay mỡ,
đường
Vừng đen, gạo lứt khôn lường
Món ăn đầu bảng chẳng nhường cho
ai
Đậu tương dùng được cả hai:
24
Đậu phụ và sữa khoan thai vui vầy
Điểm tâm vào sáng sớm ngày
Ăn cháo mướp đắng ngô xay nấu
nhừ
Cháo gạo, củ cải vô tư
Vừng đen gạo lứt cháo nhừ càng hay
Ai nghiện rượu phải bỏ ngay

Thuốc lá đừng hút, dừng ngay tiệc
tùng
Uống: chè xanh có muối, gừng
Trà mướp đắng, trà bột vừng đen sao
Nước vắt từ quả bí đao
Nước râu ngô, chuối hột đào gốc
cây.
Đái tháo đường bệnh chẳng hiểm
gay
Chỉ khi biến chứng mới rầy rà thôi
Nó là căn bệnh suốt đời
Kiên trì, bình tĩnh đẩy lùi được ngay
Ghép vần ít chữ trên đây
Là từ thân phận những ngày đã qua
Những mong bè bạn gần xa
Dùng làm tham khảo như là chuyện
vui
Sơ qua chút ít thế thôi
Chúc sống thanh thản cho đời trường
sinh
Nguyễn Văn Huệ
Hội chứng … Đái đường.
Trong một cuộc họp, phía Nga bảo dân Việt Nam mất vệ sinh, toàn đái bậy
ngoài đường, phía Việt Nam bảo: “làm gì có chuyện đấy!”.
Phía Nga nói “Đêm nay bọn tao xách AK-47 đi quanh hồ Tây, thấy thằng nào
đái bậy là xử luôn.
Phía Việt Nam OK!. Sáng hôm sau Việt Nam thông báo thiệt 37 mạng.
Tức quá, Việt Nam cử 2 đặc nhiệm sang Nga, vác colt đi quanh quảng trường đỏ
và làm như bọn Nga. Hai chú đặc nhiệm đi cả đêm, vừa mệt, vừa rét, đến gần 2h
sáng mới thấy 1 thằng đái ngoài đường, 2 chú mừng quá nã sạch đạn vào hắn.

Sáng hôm sau, báo chí nga đưa tin:”Đêm qua, đại sứ Việt Nam ở Nga bị bọn
khủng bố bắn chết khi đang làm nhiệm vụ tại quảng trường đỏ .”
☺☻☺
25

×