Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Lịch sử thuốc gây mê – Phần 2 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.62 KB, 10 trang )

Lịch sử thuốc gây mê – Phần 2


William Green Morton (1819-1868) là nha sĩ ở Boston. Ông cũng
dùng protoxyde d'azode để gây tê cho các thân chủ đến nhổ răng với ông.
Nhưng khác hơn Horace Wells ông cũng thử dùng ê te vì ông đã nghiệm
được tác dụng của chất này. Những thành quả của ông trong việc gây tê với
ê te đã được bác sĩ Warren theo dõi, và đã mời ông làm người gây mê trong
ngày lịch sử ê te, 16 tháng 10 năm 1846 đã kể ở trên. Morton may mắn
được đồng nghiệp là Charles T. Jackson khuyên nên dùng ê te để gây tê
trước khi nhổ răng cho thân chủ. Ông cũng khuyên Morton nên chế tạo một
cái máy để có thể cung cấp ê te đúng liều lượng và theo ý muốn. Morton đã
may mắn có Josiah Holbrook, một sinh viên tốt nghiệp đại học Yale, và là
một người chuyên chế tạo các dụng cụ y khoa tại Boston lúc bấy giờ.
Morton và Warren đã gửi phúc trình báo cáo về hai vụ giải phẫu có dùng ê te
để gây mê lên các báo chuyên môn về y khoa. Do đó Morton được nhìn
nhận là người đã khám phá ra khả năng gây mê của ê te và áp dụng thành
công khả năng đó.

Crawford W. Long (1815- đã dùng ête sulfurique để gây tê từ 1842
và có lúc ông đã nhờ Robert Goodman, một người có tiệm dược phòng ở
Athens, tiểu bang Georgia gởi cho ông ê te xuống nơi ông làm việc ở
Jefferson, cũng trong tiểu bang Georgia. Nhưng không may cho ông, những
người ở Jefferson cho là ông làm trò ma quỷ và đã buộc ông ngưng dùng ê
te. Sau này tiểu bang Georgia dựng tượng của ông trong Nghị viện tiểu
bang.
3- Chloroform

Chloroform là một chất lỏng không màu, mùi dễ chịu và vị hơi hơi
ngọt. Ðược chế tạo cùng lúc vào năm 1831 ở hai nơi xa cách nhau, một bởi
Justus von Liebig ở nước Ðúc và một bởi Eugene Soubeiran ở nước Pháp.


Bác sĩ sản khoa James Y. Simpson đã dùng Chloroform làm thuốc gây mê
vào năm 1847 tại Edinburgh, Ecosse (Tô cách lan) trong khi đỡ đẻ. Sau đó
việc dùng chloroform như loại thuốc gây mê trong các cuộc giải phẩu đã lan
tràn ở Âu châu. Nhưng mãi đến đầu thế kỷ thứ 20, chloroform mới bắt đầu
được sử dụng thay cho ê te ở Bắc Mỹ. Nhưng trong các xứ mới bắt đầu mở
mang, người ta vẫn còn dùng ê te, vì dễ kiếm, rẻ tiền và tương đối an toàn.
Chloroform đã không còn được thông dụng vì có thể tạo ra chứng đứng tim
đột ngột. Người ta thay chloroform bằng Trichloroethylene một
hydrocarbon cùng loại, nhưng chất này cũng không được dùng lâu vì có thể
tạo ra ung thư.
Chloroform được sản xuất trong kỹ nghệ bằng cách đun hỗn hợp
chlour và các clorometan ha metan ở 400-500°C. Ở nhiệt độ này một loạt
phản ứng xảy ra biến đối methan hay clorometan từ từ thành những hợp
chất chứa nhiều clor
CH
4
+ Cl
2
> CH
3
Cl + HCl
CH
3
Cl + Cl
2
> CH
2
Cl
2
+ HCl

CH
2
Cl
2
+Cl
2
> CHCl
3
+ HCl
CHCl
3
+ Cl
2
> CCl
4
+ HCl
4- Ethylen H
2
C =CH
2


Từ 1846, sau khi ê te được dùng làm thuốc gây mê, người ta đã thử
hầu hết các chất khí hoặc hơi có thể ngửi được để tìm ra những chất có thể
gây mê hay tê có tác dụng tốt hơn và có hậu quả nhẹ hơn ê te. Tháng 2 năm
1923, W. Easson Brown , làm việc trong phòng dược khoa của Ðại học
Toronto đã trình bày những "Thí nghiệm sơ khởi với ê ty len như là loại
thuốc gây mê tổng quát" (Preliminary Experiments with Ethylene as a
General Anaesthetic). Qua tháng sau, Luckhartdt và Carter bài "The
physiologic effects of ethylene, a new gas anesthetic" (Tác dụng bịnh lý của

ethylen, một chất khí gây mê mới). Sau nhiều lần áp dụng thử, ethylen trở
thành chất gây mê tổng quát, thay thế ê te và chloroform.
5- Cyclopropane

Ðến 1930, người ta bắt đầu thử cyclopropane như một chất gây mê
mới. Cyclopropane mạnh hơn ê te và nitrous oxide, nhưng đặc tính của
cyclopropane là chỉ cần chiếm 10 dến 15 phần trần trăm trong hỗn hợp khí,
do đó dưỡng khí được tăng lên đến 85 hay 90 phần trăm, giúp người được
gây mê dễ thở hơn. (Nitrous oxide cần đến 85 hoặc 90 phần trăm trong hỗn
hợp khí, còn ê te cần đến 80 phần trăm). Do đó cyclopropane nghiễm nhiên
trở thành thuốc gây mê tổng quát được dùng nhiều nhứt. Nhưng khi giải
phẩu ở thân trên, người ta phải dùng một liều lượng cao cyclopropane hay ê
te. Ở liều lượng cao này, ê te và nhất là cyclopropane lại làm cho sức ép của
cơ tim giảm, làm khó thở, và gan và trái cật không hoạt động bình thường
được Các nhà nghiên cứu không dừng lại với cyclopropane được.
Howard Griffith đã áp dụng ê ty len lẫn cyclopropane trong việc gây
mê tổng quát ở bịnh viện Homoeopatic ở Montréal (sau này đổi tên lại là
bịnh viện Nữ Hoàng Elizabeth) Số bịnh nhân được gây mê bằng
cyclopropane tăng từ 350 người trong năm 1934 lên đến hơn 5000 người vào
năm 1940. Nhưng cyclopropane ở số lương cao có thể gây ra khó thở nơi
người được gây mê.
6- Intocostrin
Năm 1940, Lewis H. Wright đại diện của công ty Squibb đã đề nghị
dùng Intocostrin, một dược chất trích từ độc dược Curaré để làm dịu phản
ứng của Metrazol trên những người bị bịnh thần kinh. Curaré là thuốc độc
mà thổ dân ở Ba Tây và Nam Mỹ tẫm vào đầu mũi tên. Chỉ cần bị đầu mũi
tên làm sướt da một chút là người bị thương có thể chết sau khi các bắp thịt
bị tê liệt. Curaré được chế từ một loại dây leo mọc trên vòm cây khu rừng
nhiệt đới của Nam Mỹ, và công ty Squibb đã lọc được dược chất
Intocostrin.

Dược sĩ McIntyre và bác sĩ tâm thần Bennett ở Omaha,
Nebraska, đã thử Intocostrin ở liều lượng thật nhỏ, để kềm bớt phản ứng của
Metrazol. Sự thành công bất ngờ của loại thuốc mới làm cả hai rất vui mừng
và đã tự động quảng cáo cho Intocostrin. Nhưng những bác sĩ ở Hoa kỳ
không may mắn khi thử với loại thuốc này. Bác sĩ Stuart Cullen đã thận
trọng thử thuốc trên các con chó, và tất cả đều bị phản ứng khó thở gần
giống như bị suyễn. Bác sĩ Cullen không dám thử trên người, và để loại
thuốc mới này qua một bên. Nhưng ở Montréal Harold Griffith đưọc xem
cuốn phim do bác sĩ Bennett thâu.
Vào ngày 23 tháng 1 năm 1942, Harold Griffith cùng với cô phụ tá
Enid Johnson đã thử dùng Intocostrin làm thuốc gây mê trên một bịnh nhân
cần mổ ruột dư. Intocostrin gây mê như cyclopropane, nhưng lại hơn ở chỗ
làm dịu các cơ và bắp thịt, khiến cho việc giải phẫu diễn tiến một cách dễ
dàng. Sau đó, bác sĩ Griffith và cô Johnson đã thu thập tài liệu và công bố
25 trường hợp giải phẫu dùng Intocostrin làm thuốc gây mê. Bản báo cáo
được tiếp đón nồng nhiệt và Intocostrin trở thành loại thuốc gây mê mới.
Bác sĩ Cullen, khi đọc bản báo cáo, đã dậm chân la trời và đã đem các mẫu
Intocostrin ra dùng ngay.
7- Châm cứu
Thuốc gây mê có diễn tiến như trên trong y-khoa Âu Tây.
Người Á Ðông, nhất là người Trung hoa có một phương pháp khác để gây
tê. Ðó là châm cứu. Châm là dùng kim bằng kim loại (có khì dùng tre
chuốt thật nhọn, nếu gặp trường hợp không có kim) châm vào kinh mạch
hay các điểm đã được xác định trước trên thân thể con người. Cứu là dùng
ngải (cỏ, lá của những dược thảo) để hơ vào các huyệt. Nhưng ngày nay
châm cứu được hiểu như dùng kim bằng kim loại để trị. Châm cứu đưọc
xem như cách trị nhiều bệnh từ nhức đầu kinh niên đến mất ngủ, đau bao tử
hay đường ruột Nhưng chủ yếu, châm cứu rất công hiệu trong việc làm
giảm đau nhức, và đã được dùng để gây tê ở một phần thân thể.
**Châm cứu bằng kim

Nhiều nhà quan sát Tây phương đã được mục kích các cuộc
giải phẫu quan trọng ở Trung quốc, mà người gây tê cho bệnh nhân là một
châm cứu gia. (Encyclopedia Britanica, trang 74). Ðặc biệt là việc gây tê
thường được thực hiện ở phần thân thể xa cách nơi giải phẫu, như châm sáu
bảy kim vào cánh tay và bàn chân để gây tê ở vùng bụng, khi mổ cắt ruột dư
bị sưng. Người ta giải thích theo y khoa Tây Âu là các mũi kim có thể đã
tác dụng để cơ thể sản xuất ra các hóa chất trị đau như endorphins hay
enkephalins. Một thuyết khác cho rằng các kim châm vào kinh mạch sẽ tạo
ra những tín hiệu làm tràn ngập hệ thần kinh, và loại bỏ các tín hiệu dẫn đưa
sự đau đớn lên não bộ, thuyết thứ ba cho là châm cứu chỉ là một cách tự kỷ
ám thị, và nhờ đó mà bệnh nhân không thấy đau.
** Châm cứu bằng ngón tay
Ngoài việc châm cứu bằng kim, người Ðông y sĩ có khi dùng
ngón tay hay móng tay đè lên các huyệt (giống như điễm huyệt trong các
chuyện chưởng). Áp lực của ngón tay cũng công hiệu như châm kim. Khác
với thuốc gây tê trong y khoa Tây phương, các huyệt thường nằm xa chỗ cần
gây tê nơi cơ thể của người bệnh nên việc châm cứu không gây vướng bận
cho việc giải phẫu. Và cũng nhờ đó mà người bệnh không bị các hậu quả
do thuốc tê gây ra. Hiện nay ở Bắc Mỹ cũng như ở Anh quốc đã có những
hiệp hội về châm cứu để kiểm soát các Ðông y sĩ hành nghề này. Ở Việt
Nam, ngay từ các năm 1950-1960 đã có nhiều người học về châm cứu. Bác
sĩ Y khoa Lê văn Phụng trong thập niên đó đã có phòng mạch chuyên về
châm cứu ở góc đường Phan Thanh Giản và Ðinh Tiên Hoàng. Ông đã học
thêm châm cứu ở Ðài loan sau khi tốt nghiệp Y khoa Bác sĩ. Nhưng cũng
có nhiều người theo y khoa Âu Tây còn hoài nghi châm cứu và cho là việc
châm cứu không có hiệu quả.
Loại thuốc gây mê mới này, tuy giúp các cơ, bắp thịt dịu lại
mà không co cứng, nhưng buộc các chuyên gia gây mê phải giúp bịnh nhân
thở điều hoà. Nghĩa là vẫn còn cơ hội để tìm tòi và nghiên cứu về thuốc gây
mê hay những cách gây tê không theo trường phái y khoa Âu Tây, hầu tìm ra

những dược chất mới, phương cách mới gây mê hay gây tê một cách chính
xác, không có những hậu quả khó chịu hay nặng nề, mà vẫn giữ cho bịnh
nhân được an toàn ở một mức tối ưu.
8- Châm cứu bằng tia laser hồng ngoại:
Ngày nay người ta đã có thể châm cứu mà không cần chạm
vào huyệt của người bịnh bằng kim hay bằng ngón, hoặc móng tay. Người
ta dùng tia laser để kích thích các huyệt cũng y hệt như châm cứu bằng kim.
Dùng tia laser ít hao tốn hơn và không nguy hiểm cho người được chữa
bịnh vì không có những hiệu ứng phụ bất lợi, và không sợ bị nhiễm trùng.
Châm bằng tia laser không đau, không để lại dấu vết, mà lại kích thích
được các huyệt ở đúng độ sâu nhạy nhất
Người ta đã dùng tia laser hồng ngoại, phát sóng liên tục, 15 mW,
632.8 nm cho những huyệt nằm gần da và tia laser hồng ngoại, phát sóng
từng đợt (pulsed) 9.4W, 904 nm cho những huyệt nằm sâu hơn để chữa cho
những người bị đau nhức ở cườm tay. (CTS )(Xem phụ chú 2). Sau khi
chữa trong vòng ba đến bốn tuần, những người bịnh CTS ở mức độ vừa phải
(không nặng quá), đã dùng bàn tay làm việc lại được và trong hai năm sau
không hề bị đau nhức nữa.

×