Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

SO SÁNH CÁC THÔNG SỐ TẦM SOÁT TRƯỚC SINH potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.88 MB, 21 trang )

SO SÁNH CÁC THÔNG SỐ TẦM SOÁT TRƯỚC SINH Ở NHÓM
THAI PHỤ MANG THAI BÌNH THƯỜNG VÀ NHÓM THAI PHỤ
MANG THAI HỘI CHỨNG DOWN



TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Trong sàng lọc trước sinh hội chứng Down ở ba tháng giữa thai
kỳ, nồng độ của AFP và uE3 giảm từ 25 đến 30% và hCG tăng từ 2 cho đến
2,5 lần ở huyết thanh của những thai phụ mang thai hội chứng Down so với
nhóm thai phụ mang thai bình thường. Sử dụng phần mềm STATA 10.0 để
so sánh các thông số thu được từ sàng lọc trước sinh triple test ở ba tháng
giữa thai kỳ giữa nhóm thai phụ mang thai bình thường và nhóm thai phụ
mang thai hội chứng Down.
Mục tiêu: Xét tính phân phối Gaussian của dân số tham gia sàng lọc ba
tháng giữa thai kỳ tại đơn vị sàng lọc trước sinh, Đại học Y Dược, TP HCM.
Xác định giá trị phân biệt của các thông số thống kê giữa 2 nhóm thai phụ
mang thai bình thường và thai phụ mang thai hội chứng Down.
Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu, 01/2007 - 01/2008, dữ liệu sàng lọc
trước sinh triple test (AFP, hCG và uE3) của 6169 thai phụ có thai từ 15 đến
21 tuần tuổi và dữ liệu của 36 thai phụ mang thai hội chứng Down được xử
lý bằng phần mềm STATA 10.0 để tìm hiểu về tính thể hiện phân phối
Gaussian của các dữ liệu này và sự khác biệt của các thông số thống kê giữa
hai dân số thai phụ mang thai bình thường và mang thai hội chứng Down, so
sánh với một số nghiên cứu khác về sự khác biệt này.
Kết quả và bàn luận: Phân phối dạng hàm log
10
(MOM) của các thông số
sàng lọc AFP, hCG và uE3 trong dân số sàng lọc của chúng tôi là hàm phân
phối Gaussian. Mô hình phân phối này giúp cho việc sàng lọc chính xác, ít
bị ảnh hưởng của các giá trị ngưỡng trên, ngưỡng dưới và cỡ mẫu, đồng thời


cho phép dễ dàng so sánh giữa các nghiên cứu với nhau. Các thông số thống
kê giữa hai dân số thai phụ mang thai bình thường và mang thai hội chứng
Down của AFP, hCG và uE3 là khác biệt có ý nghĩa thống kê với P=0,0000
(t test).
Kết luận: Với sự khác biệt có ý nghĩa giữa các thông số thống kê của hai
dân số mang thai bình thường và dân số mang thai hội chứng Down, bộ ba
xét nghiệm sàng lọc ba tháng giữa thai kỳ có ý nghĩa trong việc phát hiện
các thai phụ có nguy cơ cao mang thai hội chứng Down, đặc biệt đối với các
tỉnh thành xa trung tâm ở Việt Nam.
ABSTRACT
STATICSTIC PARAMETERS OF TRIPLE TEST BETWEEN
UNEFFECTED PREGNANCIES AND EFFECTED PREGNANCIES
WITH DOWN SYNDROME
Do Thi Thanh Thuy, Nguyen Thi Thanh Minh, Nguyen Thi Hoang Phuong,
Phung Nhu Toan, Pham Viet Thanh, Truong Dinh Kiet, Tran Thi Trung
Chien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 204 - 210
Background: In second-trimester martenal serum prenatal screening for
Down syndrome, many articles have conclusion that concentrations of AFP
(α-fetoprotein), uE3 (unconjugated estriol) are 25 to 30% lower and hCG
(human chorionic gonadotropin) 2 to 2,5 time higher in Down syndrome
pregnancies compared with unaffected pregnancies. We use STATA 10.0 to
compare staticstic parameters between uneffected pregnancies and effected
pregnancies with Down syndrome in our prenatal screening unit, at UMP,
HCMC.
Objectives :Assesment of multivariate Gaussian distribution of our prenatal
screening population at UMP, HCM. Differentiate values of staticstic
parameters between uneffected pregnancies and effected pregnancies with
Down syndrome in our prenatal screening unit.
Method: Retrospective study, data derived from 6169 singleton pregnancies

at 15 to 21 gestational age from 01/2007 to 01/2008 and 36 affected Down
syndrome pregnancies are processed by STATA 10.0 software to see
multivariate Gaussian distribution of our prenatal screening population at
UMP, HCMC and the differentiation values of staticstic parameters between
uneffected pregnancies and effected pregnancies with Down syndrome.
Result: log
10
(MOM) distribution of our prenatal screening parameters is
multivariate Gaussion distribution. This model is less influenced by outliers,
the sample size and help the screening performance be accurate. Staticstic
parameters between uneffected pregnancies and effected pregnancies with
Down syndrome in our unit are significant different with p=0.0000 (t test)
Conclusion: With staticstic parameters between uneffected and effected
pregnancies for Down syndrome are significant different, p=0.0000 (t test),
we belived that second-trimester maternal serum triple test prenatal
screening is useful in detection of high-risk pregnancies with Down
syndrome, esp with provinces far from cities in Vietnam.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong xét nghiệm sàng lọc trước sinh hội chứng Down (T21) ở ba tháng
giữa thai kỳ, theo nhiều nghiên cứu trên thế giới, nồng độ của AFP (α-
fetoprotein) và uE3 (unconjugated estriol) giảm từ 25 đến 30% và hCG
(human chorionic gonadotropin) tăng từ 2 cho đến 2,5 lần ở huyết thanh của
những thai phụ mang thai hội chứng Down so với nhóm thai phụ mang thai
bình thường. Để có thể thực hiện sàng lọc, nguy cơ mang thai hội chứng
Down của từng thai phụ phải được tính dựa vào nguy cơ của tuổi, các thông
số hóa sinh và các yếu tố ảnh hưởng như cân nặng, chủng tộc, tiền căn sinh
con dị tật…, nhiều phần mềm tính nguy cơ đang được áp dụng ở nhiều nước
khác nhau. Hiệu quả của mỗi chương trình sàng lọc được đánh giá qua tỉ lệ
phát hiện, tỉ lệ dương tính giả và giá trị tiên đoán bệnh. Đánh giá chương
trình sàng lọc một cách lý tưởng là thực hiện trên một dân số thai phụ mang

thai bình thường và một dân số mang thai hội chứng Down có số lượng lớn,
nhưng điều này là phi thực tế vì tần suất sinh con hội chứng Down là 1:700
cho đến 1:800 trẻ sinh ra, vì vậy người ta phải dùng phương thức thống kê,
và cho đến nay thì chỉ có mô hình phân phối Gaussian đa biến là được chấp
nhận. Mô hình này phụ thuộc vào các thông số thống kê bao gồm các giá trị
trung bình, trung vị, độ lệch chuẩn, và mối tương quan của các thông số (thí
dụ như triple test AFP, hCG và uE3 dùng trong sàng lọc ba tháng giữa thai
kỳ) có được từ một dân số thai phụ mang thai bình thường và một dân số
mang thai hội chứng Down. Vì dân số thai phụ mang thai hội chứng Down
rất ít ở một trung tâm nên người ta thường phối hợp nghiên cứu đa trung tâm
(meta-analysis) để có số liệu đáng tin cậy. Nếu phân phối của các thông số
này trong dân số là Gaussian, thì mô hình được chọn lựa giúp cho việc sàng
lọc chính xác, ít bị ảnh hưởng của các giá trị ngưỡng trên, ngưỡng dưới và
cỡ mẫu, đồng thời cho phép dễ dàng so sánh giữa các nghiên cứu với
nhau
(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.)
.
Mục tiêu nghiên cứu
Xét tính phân phối Gaussian của dân số tham gia sàng lọc ba tháng giữa thai
kỳ tại đơn vị sàng lọc trước sinh, Đại học Y Dược, TP. HCM.
Giá trị phân biệt của các thông số thống kê giữa 2 nhóm thai phụ mang thai
bình thường và thai phụ mang thai có hội chứng Down.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu hồi cứu, trong thời gian từ 01/2007 cho tới 01/2008, khảo sát
thông qua các dữ liệu của 6169 thai phụ được sàng lọc trước sinh bằng bộ ba
xét nghiệm hóa sinh (AFP, hCG và uE3) trên hệ thống miễn dịch tự động
Immulite 2000 theo cơ chế hóa phát quang và phần mềm PRISCA tính nguy
cơ mang thai hội chứng Down cho từng thai phụ. Sử dụng phần mềm
STATA 10.0 để tìm hiểu về các thông số thống kê của dữ liệu và tính thể
hiện phân phối Gaussian của các dữ liệu này.

Trong kho dữ liệu, với 36 mẫu bệnh phẩm huyết thanh của các thai phụ
mang thai hội chứng Down thu được khi thai nhi ở tuần tuổi thứ 15 cho đến
21 tuần và lưu trữ ở -30
o
C. Dữ liệu về các thông số sàng lọc AFP, hCG và
uE3 cũng được đo lường trên hệ thống miễn dịch tự động Immulite 2000
theo cơ chế hóa phát quang và phần mềm PRISCA tính nguy cơ mang thai
hội chứng Down cho từng thai phụ giống như các thai phụ tham gia sàng lọc
khác.
Sử dụng phần mềm STATA 10.0 để tìm hiểu về sự khác biệt của các thông
số thống kê giữa hai dân số thai phụ mang thai bình thường và mang thai hội
chứng Down, so sánh với một số nghiên cứu khác về sự khác biệt này.
KẾT QUẢVÀ BÀN LUẬN
Xét tính phân phối Gaussian của dân số tham gia sàng lọc ba tháng giữa thai
kỳ tại đơn vị sàng lọc, Đại học Y Dược, TP. HCM.
Trong sàng lọc trước sinh, nguy cơ thai bị hội chứng Down không chỉ dựa vào
nguy cơ theo tuổi mẹ mà còn dựa vào các thông số hóa sinh trong máu mẹ, siêu
âm đo độ mờ da gáy , chính toán học đã giúp cho việc tính nguy cơ thai phụ
mang thai hội chứng Down trở nên đơn giản hơn mặc dù rất phức tạp.

Hình 1: Phân phối của AFP theo AFP MoM có hiệu chỉnh với cân nặng (a)
và log10 AFP MoM có hiệu chỉnh với cân nặng (b)

Hình 2: Phân phối của hCG theo hCG MoM có hiệu chỉnh với cân nặng (a)
và log10 hCG MoM có hiệu chỉnh với cân nặng (b)
Hình 3: Phân phối của uE3 theo uE3
MoM có hiệu chỉnh với cân nặng (a) và log10 uE3 MoM có hiệu chỉnh với
cân nặng
Có 2 phương pháp thường được sử dụng trong các phòng xét nghiệm sàng lọc
là tính tỉ số hợp lý (likelihood ratio) Palomaki và Haddow (1987) và sử dụng

hàm biệt thức tuyến tính (linear discriminant function) Norgaard-Pedersen,
(1990). Nhưng hiện nay, hầu hết các trung tâm sàng lọc ở Anh quốc đều sử
dụng phương pháp tính tỉ số hợp lý. Nguyên tắc chính là sử dụng phân phối
Gaussian cho 2 loại dân số thai phụ mang thai bình thường và dân số thai phụ
mang thai bị hội chứng Down. Với mỗi thông số cần phân tích, tính hợp lý giữa
nhóm dân số “bình thường” và dân số “bất thường” được tính toán, và tỉ số hợp
lý giữa 2 nhóm này được sử dụng kết hợp với nguy cơ theo tuổi của thai phụ để
cho ra nguy cơ mang thai hội chứng Down cho mỗi thai phụ.
Từ dữ liệu của 6169 thai phụ được xử lý bằng phần mềm PRISCA, nồng độ
của AFP, hCG và uE3 được biểu thị dưới dạng bội số trung vị (multiple of
median=MOM) có hiệu chỉnh với cân nặng, vì cân nặng ảnh hưởng tới tính
nguy cơ của từng thai phụ, nếu cân nặng không được hiệu chỉnh, những thai
phụ có cân nặng lớn, nồng độ của các thành phần trong máu bị pha loãng thì
MOM của các dấu ấn huyết thanh sẽ bị giảm đi, do đó số trường hợp nguy
cơ cao sẽ tăng lên đáng kể
(Error! Reference source not found.)
. Hình 1 (a), 2(a) và 3(a)
cho thấy phân phối dữ liệu của AFP MOM, hCG MOM và uE3 MOM chưa
phải là phân phối Gaussian, nhưng sau khi nồng độ của mỗi thông số sàng
lọc trong dân số chuyển thành dạng log
10
(MOM), hình 1(b), 2(b) và 3(b) cho
thấy phân phối log
10
AFP MOM, log
10
hCG MOM và log
10
uE3 MOM từ dữ
liệu của chúng tôi đã trở thành hàm phân phối Gaussian đa biến. Mô hình

phân phối này giúp cho việc sàng lọc chính xác, ít bị ảnh hưởng của các giá
trị ngưỡng trên, ngưỡng dưới và cỡ mẫu, đồng thời cho phép dễ dàng so
sánh giữa các nghiên cứu với nhau.
Giá trị phân biệt của các thông số thống kê giữa 2 nhóm thai phụ mang thai
bình thường và thai phụ mang thai hội chứng Down tại đơn vị sàng lọc, Đại
học Y Dược, TP. HCM.
Trong 36 trường hợp thai nhi hội chứng Down, trường hợp số 3, thai phụ 26
tuổi, tuy AFP và uE3 giảm khoảng 25%, nhưng hCG lại tăng không đáng kể
nên bị bỏ sót, thai phụ được phát hiện là do siêu âm có dấu hiệu nghi ngờ và
thai phụ đồng ý làm chẩn đoán. Điều này cho thấy triple test có thể bỏ sót
các trường hợp thai phụ đặc biệt là trẻ tuổi và giá trị của các thông số hóa
sinh thay đổi không rõ nét
(Error! Reference source not found.)
. Chính vì vậy, nhiều
chiến lược sàng lọc khác với nhiều biến số tham gia giúp làm tăng tỉ lệ phát
hiện nhưng đồng thời lại làm giảm tỉ lệ dưong tính giả đã được triển khai ở
nhiều nước phát triển, chúng tôi mong muốn trong một ngày gần đây, có thể
triển khai các chiến lược hữu hiệu trên ở Việt nam.
Bảng 1: Dữ liệu sàng lọc trước sinh của các thai phụ mang thai bị hội chứng
Down
Stt

Tuổi AFP
MOM
hCG
MOM
uE3
MOM
Nguy


T21
1 24 0,57 2,3 0,66 1/124

2 24 0,72 3,2 0,59 1/77
3 26 0,73 1,3 0,74 1/966

4 27 1,01 2,8 0,52 1/138

5 27 0,31 1,9 0,21 1/50
6 28 0,49 2,0 0,86 1/200

7 30 0,69 3,3 0,60 1/50
8 31 1,23 2,3 0,44 1/127

9 32 1,12 2,9 0,67 1/203

10 32 0,82 3,8 0,90 1/86
11 32 0,41 2,1 0,41 1/50
12 34 0,94 3,0 1,08 1/189

Stt

Tuổi AFP
MOM
hCG
MOM
uE3
MOM
Nguy


T21
13 34 0,61 1,9 0,12 1/50
14 34 1,17 4,0 0,83 1/104

15 35 0,62 1,7 0,73 1/112

16 36 0,48 1,5 0,94 1/111

17 36 0,65 2,2 0,27 1/150

18 37 0,65 0,8 0,48 1/157

19 38 1,65 3,9 1,25 1/114

20 38 0,82 1,7 1,11 1/184

21 38 0,95 2,2 0,81 1/117

22 38 0,35 2,2 0,25 1/50
23 38 0,32 1,4 0,13 1/50
24 38 0,48 2,1 0,48 1/50
Stt

Tuổi AFP
MOM
hCG
MOM
uE3
MOM
Nguy


T21
25 39 0,54 2,1 0,5 1/50
26 39 0,54 3,0 0,58 1/50
27 40 0,45 1,3 0,53 1/50
28 40 1,29 3,2 0,95 1/63
29 42 0,85 3,3 0,97 1/50
30 42 0,60 2,1 0,34 1/50
31 42 0,91 1,1 1,06 1/186

32 42 0,60 0,90 0,29 1/50
33 44 0,58 0,80 0,35 1/50
34 45 0,95 6,8 0,49 1/50
35 45 0,69 2,5 0,24 1/50
36 46 1,25 2,8 0,62 1/50
Bảng 2: Tuổi của nhóm thai phụ mang thai hội chứng Down
Tuổi n Tỉ lệ
< 35 14 39%
≥35 22 61%
Theo y văn, tỉ lệ sinh con bị hội chứng Down có thể gặp ở bất kỳ lứa tuổi
nào và tăng theo tuổi mẹ, trong nghiên cứu này, nghiên cứu cho thấy có 39%
thai phụ mang thai hội chứng Down <35 tuổi. Nếu sàng lọc trước sinh chỉ
dựa vào tuổi mẹ để có quyết định chẩn đoán thì chỉ có 22/34 (64,7%) thai
được phát hiện bị hội chứng Down, sót 14/36 (35,5%) trường hợp. Việc sử
dụng các phương pháp sàng lọc với nhiều thông số hóa sinh và siêu âm đã
cải thiện tỉ lệ phát hiện rất nhiều. Trong 36 trường hợp này, triple test có thể
phát hiện tới 35/36 trường hợp Down (97%). Vì vậy xét nghiệm sàng lọc ba
tháng giữa thai kỳ hiện vẫn được áp dụng ở một số nước phát triển và đang
phát triển.
Trong bảng 3 và các hình 4,5,6, so sánh nhóm thai phụ mang thai hội chứng

Down được chẩn đoán (36 trường hợp) với dân số mang thai bình thường,
nghiên cứu của chúng tôi có kết quả phù hợp với nhiều nghiên cứu trên thế
giới về sự khác biệt có ý nghĩa của các thông số sàng lọc giữa 2 dân số mang
thai bình thường và mang thai hội chứng Down, làm cho các xét nghiệm
sàng lọc có ý nghĩa trong việc phát hiện sớm các thai phụ có nguy cơ cao
mang thai hội chứng Down. Với AFP, giá trị AFP MOM ở nhóm thai bình
thường median là 0,99 có hiệu chỉnh với cân nặng (SD: 0,39), thì ở nhóm
bệnh lý median là 0,75 (SD: 0,30), như vậy nhóm bệnh lý có AFP MOM
thấp hơn nhóm thai bình thường là 0,24 và sự khác biệt này là có ý nghĩa
thống kê với P=0,0000 (t test). Tương tự với uE3 MOM, ở nhóm thai bình
thường median là 1,00 có hiệu chỉnh với cân nặng (SD: 0,54), trong khi đó
trong nhóm bệnh lý median là 0,61(SD: 0,29), như vậy nhóm bệnh lý có uE3
MOM thấp hơn nhóm thai bình thường là 0,39, và sự khác biệt này là có ý
nghĩa thống kê với P=0,0000 (t test).
Riêng đối với hCG, sự khác biệt giữa nhóm thai phụ mang thai bình thường
và nhóm thai phụ mang thai bệnh lý rất lớn -1,2 (p=0,0000; t test). Như vậy
hCG trong huyết thanh thai phụ mang thai hội chứng Down có nồng độ cao
gấp 2,2 lần so với nồng độ hCG trong huyết thanh thai phụ mang thai bình
thường khi thai từ 15 đến 21 tuần tuổi, ngược lại nồng độ AFP và uE3 giảm
có ý nghĩa trong huyết thanh thai phụ mang thai hội chứng Down so với
nhóm phụ mang thai bình thường 25 cho đến 30%. Sự khác biệt có ý nghĩa
này phù hợp với các nghiên cứu trước đây được trình bày trong bảng 4.
Trong các hình 4, 5, 6, ở dân số thai phụ mang thai bình thường,
log
10
AFPMOM, log
10
uE3 MOM, và log
10
hCG MOM = 1 tức là log

10
1= 0,
còn log
10
AFP của nhóm thai phụ mang thai bệnh lý sẽ là log
10
0.75 = -0,12,
tương tự log
10
uE3 = log
10
0,61 = -0,21, nên giá trị trung vị của AFP và uE3 ở
nhóm thai phụ mang thai hội chứng Down lệch về bên trái so với giá trị
trung vị của AFP và uE3 của nhóm thai phụ mang thai bình thường; và
log
10
hCG = log
10
2.2 = 0,34, nên giá trị trung vị của hCG ở nhóm thai phụ
mang thai hội chứng Down lệch về bên phải so với giá trị trung vị của hCG
của nhóm thai phụ mang thai bình thường. Tuy các phân phối giữa 2 dân số
của các thông số sàng lọc có sự trùng lặp nhưng vẫn có giá trị phân biệt.
Bảng 3: Các thông số thống kê của nhóm thai phụ mang thai bình thường và
nhóm thai phụ mang thai hội chứng Down
Dân s

thai ph

mang thai
bình

thường
(N= 6171)

Dân s

thai ph

mang
thai HC
Down
(N=36)
AFP 0,99 0,75
HCG

1,0 2,20
Median
MOM (đ
ã
đư
ợc hiệu
ch
ỉnh với
UE3 1,0 0,61
cân nặng)
AFP 0,39 0,30
HCG

0,50 1,14
Đ
ộ lệch

chu
ẩn Sd
(log10)
UE3 0,43 0,29
AFP
0,98 –
1,00
0,64 –

0,85
HCG

0,99 –
1,01
2,01 –

2,78
95% CI
UE3
0,99 –
1,01
0,51 –

0,71
AFP,
HCG

0,17* 0,49*
AFP,
UE3

0,11* 0,56*
Correlation

HCG,
UE3
-0,04 0,24*



Trong nghiên cứu này, nếu sử dụng bộ ba xét nghiệm sàng lọc (triple test),
số trường hợp thai hội chứng Down được phát hiện là 35/36, nhưng nếu chỉ
sử dụng bộ hai xét nghiệm sàng lọc (double test) thì chỉ có 31 trường hợp
dược phát hiện, bỏ sót 4 trường hợp thai phụ <35 tuổi, chính vì vậy việc
thêm uE3 vào trong xét nghiệm sàng lọc có giá trị trong việc sàng lọc phát
hiện hội chứng Down.
Bảng 4: So sánh các thông số thống kê của Đại học Y Dược với các tác giả
khác
AFP
MOM
hCG
MOM
uE3
MOM

NA

T21

NA


T21

NA

T21

ĐHYD

0,99

0,751,0 2,2 1,0 0,61
Wald et
al 1994

1,0 0,721,0 2,011,0 0,72
Median

Spencer
at al
1992
1,0 0,711,0 2,031,0 0,75
AFP
MOM
hCG
MOM
uE3
MOM

NA


T21

NA

T21

NA

T21

ĐHYD

0,39

0,300,501,140,430,29
Wald et
al
0,19

0,200,240,260,140,13
St Dev

SD
(log
10)
Spencer
at al
1992
0,19


0,200,240,280,140,21
Bảng 4 so sánh các thông số thống kê (trung bình, độ lệch chuẩn) của AFP,
hCG và uE3 giữa các nhóm nghiên cứu của Nicolai Wald và Spencer, chúng
tôi thấy nghiên cứu của chúng tôi cũng thể hiện sự khác biệt giữa 2 dân số
thai phụ mang thai bình thường và mang thai bệnh lý tương ứng so với họ.
Chứng tỏ các thông số sàng lọc thực sự có ý nghĩa, giúp phân biệt và phát
hiện các thai phụ có nguy cơ cao mang thai hội chứng Down, nhưng độ lệch
chuẩn của chúng tôi còn dao động khá lớn, có thể do dân số nhóm nghiên
cứu chưa đủ lớn và nồng độ của các thông số sàng lọc trải rộng với biên độ
lớn
(Error! Reference source not found.)
. Tuy nhiên với xét nghiệm sàng lọc, độ nhạy
không bao giờ đạt được 100% (phân phối phần trùng lặp), vì vậy vấn đề là
cần phối hợp một cách chặt chẽ giữa các bác sĩ sản phụ khoa, bác sĩ siêu âm
- xét nghiệm sàng lọc - chẩn đoán và các chuyên gia tư vấn di truyền mong
giúp ích một các hữu hiệu nhất cho thai phụ
(Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.)
.
KẾT LUẬN
Với sự khác biệt có ý nghĩa giữa các thông số thống kê của hai dân số mang
thai bình thường và dân số mang thai hội chứng Down, chứng tỏ bộ ba xét
nghiệm sàng lọc ba tháng giữa thai kỳ có ý nghĩa trong việc phát hiện các
thai phụ có nguy cơ cao mang thai hội chứng Down, đặc biệt đối với các tỉnh
thành của Việt Nam.

×