Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời ký quá độ lên CNXH ở Việt Nam pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.24 KB, 7 trang )

Vấn đề 2 : Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời ký
quá độ lên CNXH ở Việt Nam khẳng định: Sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng
lợi của cách mạng Việt Nam” (Cương lĩnh xây dựng đất
nước – Nhà xuất bản Sự Thật – 1991, trang 5). Bằng lý
luận chủ nghĩa xã hội khoa học và thực tiễn, đồng chí hãy
phân tích làm rõ luận điểm trên.
Bài làm
Hơn 8 thập kỷ qua, từ sau cách mạng Tháng Mười Nga
(1917) đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai
cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới đã vượt
qua một chặng đường đấu tranh cách mạng cực kỳ khó khăn,
gian khổ và cũng đã giành được những thắng lợi rất vẻ vang,
xây dựng nên một hệ thống xã hội chủ nghĩa trên toàn thề
giới. Trong cuôc cách mạng xã hội đó, vai trò của Đảng cộng
sản là một trong những nhân tố quyết định sự thắng lợi của
công cuộc cách mạng đó.
Tuy nhiên, hiện nay khi chủ nghĩa xã hội đang lâm vào
giai đoạn thoái trào, sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN
Đông Âu đã tác động sâu sắc trên nhiều phương diện, từ kinh
tế đến chính trị, tư tưởng, tình cảm, niềm tin lý tưởng vào
CNXH và là một thử thách khắc nghiệt bản lĩnh của Đảng
Cộng sản các nước XHCN, trong đó có nước ta. Nhiều người
đã bộc lộ sự dao động và hoài nghi về sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân, về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và
chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, vấn đề làm sáng tỏ vai trò của Đảng
Cộng sản và khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng sẽ
bảo đảm thắng lợi cho cách mạng Việt Nam là vấn đề hết sức
cần thiết, trên cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn.
1. Khái quát về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản Việt Nam - yếu tố


chủ quan quyết định cho giai cấp công nhân hoàn thành
sứ mệnh lịch sử của mình.
Như chúng ta đã đã biết Đảng Cộng sản là chính đảng
của giai cấp công nhân. Xuất phát từ nền sản xuất đại công
nghiệp, giai cấp công nhân bao gồm những người lao động
làm thuê cho nhà tư bản, họ hoàn toàn không có tư liệu sản
xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm sống.
Vì vậy, trong sản xuất giai cấp công nhân là giai cấp bị phụ
thuộc và trong phân phối, giai cấp công nhân bị nhà tư bản
bóc lột gía trị thặng dư, do đó giai cấp công nhân là giai cấp
đối lập trực tiếp về lợi ích của giai cấp tư sản, là động lực
chính của tiến trình lịch sử quá độ từ CNTB lên CNXH
Đánh giá về vị trí vai trò của giai cấp công nhân, chủ
nghĩa Mác Lênin xác định giai cấp công nhân chính là giai
cấp có sứ mệnh lịch sử hết sức to lớn là xoá bỏ chế độ bóc
lột TBCN, thực hiện sự chuyển biến cách mạng từ XH TBCN
lên xã hội XHCN và Cộng sản chủ nghĩa. Sứ mệnh lịch sử đó
không phải là thực hiện sự chuyển biến từ một chế độ tư hữu
này sang chế độ tư hữu khác, nhằm thay thế một hình thức
bóc lột này bằng một hình thức bóc lột khác mà là một cuộc
cách mạng nhằm mục tiêu xóa bỏ giai cấp, giải phóng triệt để
con người mà trước hết là xóa bỏ chế độ tư hữu, cơ sở mà
mọi hình thức bóc lột người. Theo Mác và Ăngghen, sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân không phải do ý muốn chủ
quan của giai cấp công nhân hoặc do sự áp đặt của các
nhà tư tưởng mà do những yếu tố, điều kiện khách quan
như địa vị kinh tế xã hội và những đặc điểm vốn có của giai
cấp công nhân quy định nên. Có 3 yếu tố khách quan quy
định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Thứ nhất là do
địa vị KT-XH của giai cấp công nhân quy định nên sứ mệnh

lịch sử của giai cấp công nhân; bởi lẽ khi mâu thuẫn cơ bản
trong xã hội tư bản giữa lực lượng SX mang tính xã hội hóa
cao mâu thuẫn với quan hệ sản xuất mang tính chất giai cấp
công nhân là lực lượng sản xuất tiên tiến, cơ bản nhất của
phương thức sản xuất TBCN, do đó nó sẽ là người quyết định
phá vỡ quan hệ sản xuất TBCN, hình thành phương thức sản
xuất mới : phương thức sản xuất Cộng sản chủ nghĩa, nền
tảng cho XH CSCN ra đời. Thứ hai là giai cấp công nhân
luôn luôn phát triển ngày càng đông về số lượng và tăng về
chất lượng. Bên cạnh đó, sự phát triển của giai cấp công
nhân cũng đồng thời dẫn đến sự gia tăng mâu thuẫn ngày
càng gay gắt giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, tất
yếu dẫn đến cách mạng xã hội nhằm xóa bỏ CNTB, hình
thành xã hội mới, xã hội CSCN. Ba là về mặt chính trị - xã
hội, giai cấp công nhân có những đặc điểm của giai cấp cách
mạng tiên tiến, tiên phong, triệt để và có tinh thần quốc tế vô
sản. Giai cấp công nhân là còn là giai cấp đại biểu cho lợi ích
của toàn bộ các giai cấp và tầng lớp lao động trong xã hội, do
đó họ trở thành lãnh tụ tự nhiên của quần chúng lao động
trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản và xây dựng xã
hội mới. Ngoài lực lượng của mình, giai cấp công nhân có
khả năng đoàn kết, giác ngộ giai cấp mình và lôi kéo những
giai cấp, tầng lớp lao động khác đi theo mình làm cách mạng
xóa bỏ CNTB, xây dựng CNCSNgoài giai cấp công nhân
không một lực lượng nào khác có đủ điều kiện tất yếu khách
quan để có khả năng hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó.
Tuy nhiên, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, để biến khả năng khách quan thành hiện thực
thì phải thông qua những nhân tố chủ quan. Nhân tố chủ
quan để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử có

thể khái quát lại dựa trên 3 điều kiện cơ bản như sau :
- Thứ nhất là phải đưa ý thức giai cấp, ý thức vô sản
vào quần chúng công nhân, biến cuộc đấu tranh tự phát của
công nhân chống áp bức bóc lột của bọn địa chủ xí nghiệp
thành cuộc đấu tranh tự giác chống CNTB. Đây là một quá
trình liên tục, lâu dài và trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào cũng
không được coi quá trình đó là hoàn tất, bởi vì thành phần
giai cấp công nhân luôn luôn đổi mới, điều kiện sinh hoạt và
lao động của họ cũng như sách lược của giai cấp tư sản với
công nhân luôn luôn thay đổi. Hơn nữa sống và làm việc dưới
chế độ TBCN, hệ tư tưởng của giai cấp tư sản vẫn thường
xuyên chi phối công nhân, làm cho phong trào công nhân tồn
tại 2 xu hướng : đoàn kết thống nhất và chia rẽ nội bộ, thỏa
hiệp về mặt XH dưới hình thức này hay hình thức khác với
giai cấp tư sản. Mặt khác, quá trình đấu tranh giai cấp triển
khai ngày càng rộng, càng toàn diện thì sức ép tư tưởng của
giai cấp tư sản với phong trào công nhân càng tinh vi và
quyết liệt. Do vậy, việc rèn luyện ý thức giai cấp chân chính
của giai cấp công nhân là quá trình đấu tranh thường xuyên
và quyết liệt giữa 2 hệ tư tưởng tư sản và vô sản. Mặt khác,
nó cũng chỉ ra rằng đấu tranh tự phát của giai cấp công nhân
chỉ mới đạt được mục đích đòi hỏi giai cấp tư sản nới rộng về
đời sống kinh tế chứ chưa phải là cuộc cách mạng giải phóng
giai cấp thật sự. Cuộc đấu tranh tự phát đó chỉ có thể chuyển
sang đấu tranh tự giác khi nó có lý luận soi đường, có Đảng
lãnh đạo nhằm giải phóng giai cấp ra khỏi áp bức bóc lột, xoá
bỏ XH TB
- Thứ hai là giai cấp công nhân phải từng bước xây
dựng chính Đảng của mình để lãnh đạo cuộc đấu tranh giành
chính quyền và lãnh đạo xây dựng xã hội mới.

- Thứ ba là phải có sự thống nhất của phong trào công
nhân (phong trào công nhân trong từng nước với phong trào
công nhân quốc tế), từng bước xây dựng ý thức đoàn kết
quốc tế. Các Mác cho rằng, nếu giai cấp công nhân chỉ dựa
vào lực lượng chủ yếu của mình, của từng nước thì không thể
giải phóng được dân tộc, không thể chiến thắng được sức
mạnh và tiềm lực chính trị - quân sự rất lớn của giai cấp tư
sản. Một khi phong trào công nhân đoàn kết được phong trào
công nhân quốc tế thì phong trào giai cấp công nhân mới
phát triển và thắng lợi trong cuộc đấu tranh. Ngược lại, khi
phong trào đoàn kết quốc tế giảm sút thì phong trào của giai
cấp công nhân cũng giảm sút
Trong những nhân tố chủ quan đó, việc thành lập Đảng
Cộng sản - đội tiền phong của giai cấp công nhân - trung
thành với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là yếu tố có
tính quyết định nhất, là điều kiện quan trọng để đảm bảo cho
giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình.
2. Vai trò của Đảng Cộng sản đối với sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân :
a. Tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển Đảng
của giai cấp công nhân :
Trong giai đoạn đầu đấu tranh với giai cấp tư sản, do bị
các chủ tư bản áp bức, bóc lột nên giai cấp công nhân đã
vùng lên, tự đấu tranh đòi hỏi đáp ứng những lợi ích kinh tế
của giai cấp mình; hầu hết các phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân giai đoạn này đều là tự phát, xuất phát từ các
cuộc đình công đòi tăng lương, giảm giờ làm … và vì vậy sức
mạnh và hiệu quả đạt được từ các phong trào này thường
hạn chế, giai cấp công nhân cũng chưa thể trở thành giai

cấp lãnh đaọ quần chúng lao động bị áp bức bóc lột, lật đổ
giai cấp tư sản cải tạo xã hội. Dần dần từ các cuộc đấu tranh
ấy đã hình thành nên yêu cầu phải lý luận riêng cho giai cấp
công nhân và bằng việc tiếp thu lý luận khoa học và cách
mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào đấu tranh cách
mạng của giai cấp công nhân đã chuyển từ tự phát sang trình
độ tự giác và thật sự trở thành phong trào chính trị. Các nhà
sáng lập CNXH khoa học đã khẳng định rằng : thông qua
cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, giai cấp công nhân
phát triển từ trình độ tư phát lên tự giác và quá trình ấy diễn
ra nhanh hay chậm phụ thuộc vào việc truyền bá lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin. Trình độ lý luận Mác Lênin cho phép giai
cấp công nhân nhận thức được vị trí, vai trò của mình trong
xã hội, nguồn gốc tạo nên sức mạnh và biết tạo nên sức
mạnh đó bằng sự đoàn kết, nhận rõ mục tiêu, con đường và
những biện pháp giải phòng giai cấp mình, giải phóng cả xã
hội và giải phóng nhân loại. Đồng thời sự thâm nhập của chủ
nghĩa Mác Lênin vào phong trào công nhân cũng dẫn đến sự
hình thành chính Đảng của giai cấp công nhân : Đảng Cộng
sản. Giai cấp công nhân đã ý thức được rằng để đấu tranh
giành được chính quyền và xây dựng xã hội mới, họ không có
vũ khí nào quan trọng hơn là tổ chức mà hình thức tổ chức
cao nhất là Đảng Cộng sản. tự mình tổ chức một chính Đảng
độc lập của mình chống lại quyền lực liên hiệp của giai cấp tư
sản và chỉ khi có chính đảng của mình, giai cấp công nhân
mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp được. Hình
thức tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân là Đảng Cộng
sản. Lênin đã chỉ ra rằng Đảng cộng sản hình thành trên cơ
sở kết hợp giữa lý luận chủ nghĩa Mác Lênin và phong trào
công nhân. . Ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, sự hình

thành Đảng Cộng sản còn là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác
Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước, phong
trào dân tộc.
Thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân các nước
cho thấy rằng từ sau khi Đảng Cộng Sản lãnh đạo, giai cấp
công nhân và phong trào công nhân chuyển từ hình thức đấu
tranh tự phát sang tự giác trong mỗi hành động với tư cách
một giai cấp tự giác và thực sự cách mạng. Chỉ dưới sự lãnh
đạo của Đảng mới gắn phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân với lý tưởng XHCN, làm cho công nhân nhận thức
được lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đặc trưng
của đấu tranh tự giác là dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
là giai cấp công nhân đấu tranh chính trị để giải phóng mình
và quần chúng nhân dân lao động, đấu tranh lật đổ giai cấp tư
sản giành chính quyền, nắm chính quyền, cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới XHCN và CSCN.
Thực tiễn sự thất bại của cách mạng Pháp 1848-1850 và
công xã PARIS 1871 đã chứng minh nếu như không có sự soi
sáng của học thuyết cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa
Mác Lênin và sự dẫn dắt của một chính Đảng thật sự cách
mạng thì mọi cuộc đấu tranh lật đổ chính quyền để xây dựng
một xã hội mới đều không vươn tới những thắng lợi cuối
cùng. Chỉ đến cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, một Đảng theo học thuyết
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân mới giành được thắng lợi; từ đó
cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga mở ra một thời
đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới
b. Mối quan hệ giữa Đảng với giai cấp công nhân :

Phải nói rằng không có một giai cấp nào khi giữ vai trò
lãnh đạo xã hội mà không thông qua chính đảng của mình.
Đảng cộng sản không những là tổ chức chính trị cao nhất, đại
biểu tập trung cho trí tuệ và lợi ích của toàn thể giai cấp công
nhân mà còn đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động và dân
tộc. Chỉ khi nào có một đảng chính trị vững vàng, kiên định và
sáng suốt, có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn,
thể hiện lợi ích của toàn bộ giai cấp và toàn bộ phong trào thì
giai cấp công nhân mới có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của mình. Như vậy, Đảng là nhân tố có vai trò quyết định
trong việc thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân. Vai trò đó thể hiện ở các mặt như : Đảng giác
ngộ giai cấp công nhân và nhân dân lao động bằng lý luận
tiên phong của chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng lý luận ấy
vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước; Đảng đề ra cương lĩnh
chính trị, vạch ra cho giai cấp công nhân và nhân dân lao
động con đường đấu tranh cách mạng đúng đắn, tổ chức
quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao và giành chính quyền;
khi giành được chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền và
toàn xã hội thực hiện đường lối của Đảng đề ra để xây dựng
xã hội mới.
Giữa Đảng và giai cấp công nhân có mối quan hệ hữu
cơ không thể tách rời. Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội –
giai cấp của Đảng, là nguồn bổ sung lực lượng của Đảng.
Ngược lại, Đảng là chính đảng của giai cấp công nhân, hình
thành trên quan điểm lập trường giai cấp công nhân, là đội
tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu của giai cấp. Những
đảng viên của Đảng Cộng sản có thể không phải là công
nhân nhưng phải là người giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân và đứng trên lập trường của giai cấp này.

Thực tiễn sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu
và Liên Xô cho thấy bài học kinh nghiệm sâu sắc rằng một khi
Đảng Cộng sản xa rời lập trường giai cấp công nhân, không
tự đổi mới về trình độ lý luận chính trị, đội ngũ Đảng viên để
lọt những phần tử cơ hội vào trong hàng ngũ của Đảng gây
lũng đoạn làm cho bộ máy Đảng biến chất thì sớm muộn
Đảng ấy cũng sẽ để mất vai trò lãnh đạo cách mạng. Thực tế
ở Liên Xô và Động Âu là những điển hình, ở các nước này tuy
giai cấp công nhân giành được chính quyền, nhưng do không
thường xuyên tổng kết thực tiền, nâng cao trình độ lý luận
của Đảng, việc chăm lo xây dựng Đảng chưa chặt chẽ đã làm
mất vai trò và tính tiên phong của Đảng, đội ngũ Đảng viên bị
phân hoá, mơ hồ về quan điểm, lập trường giai cấp, dễ dàng
sa ngã theo phái chủ nghĩa cơ hội, một số khác biến dạng
hình thành một đẳng cấp có đặc quyền, đặc lợi, xa rời quần
chúng. Vì vậy, nhiều Đảng mất tín nhiệm giai cấp đi đến chia
rẽ, tan rã. Khi thời cơ đến, những phần tử cơ hội trong Đảng
sẵn sàng hợp tác với thế lực đế quốc phá hoại Đảng, phá
hoại thành quả của CNXH, bắt đầu từ sự phản bội của người
lãnh đạo chủ chốt; chủ nghĩa đế quốc can thiệp vừa tinh vi,
vừa trắng trợn, thực hiện "diễn biến hòa bình" ở Liên Xô và
các nước Đông Âu. Như vậy, sự đổ vỡ của Liên Xô và các
nước Đông âu không có nghĩa là sự sụp đổ của học thuyết về
chủ nghĩa xã hội, không phải là sự sụp đổ của phong trào xã
hội chủ nghĩa thế giới mà nguyên nhân trực tiếp là Đảng
Cộng sản phạm những sai lầm nghiêm trọng về đường lối
chính trị, tư tưởng và tổ chức, xa rời giai cấp, thiếu tỉnh táo
thanh lọc những phần tử cơ hội, nhất là những phần tử cơ
hội về chính trị.
Từ những bài học trên cho thấy, để thể hiện và giữ vững

vai trò lãnh đạo của mình trong việc tổ chức cho giai cấp công
nhân thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử, Đảng Cộng
sản phải luôn luôn giữ vững lập trường giai cấp đồng thời
phải thường xuyên tự đổi mới để vững mạnh về tư tưởng,
chính trị và tổ chức, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện nâng
cao ý chí cách mạng, lập trường giai cấp, nâng cao toàn diện
trình độ kiến thức, trình độ lý luận; kịp thời tổng kết kinh
nghiệm đề ra thực tiễn sâu sắc nhằm đề ra đường lối chiến
lược sách lược đúng đắn, đồng thời phải xây dựng, chỉnh đốn
Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao hiệu quả và sức chiến
đấu của Đảng.
2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng
Việt Nam:
Trước khi có Đảng cộng sản, đất nước ta đặt dưới sự
thống trị của thực dân Pháp, rất nhiều phong trào đấu tranh
yêu nước rất nhiều các tầng lớp khác nhau trong xã hội như
phong trào Cần Vương của các sĩ phu yêu nước, phong trào
đấu tranh theo ý thức hệ của giai cấp tư sản, tiểu tư sản Việt
Nam như cuộc đấu tranh của Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh, Nguyễn Thái Học … Những phong trào này đã đặt vấn
đề giải phóng đất nước, giành độc lập dân tộc, thức tỉnh dân
trí nhưng do ý thức hệ hoặc đã lỗi thời hoặc mang tính cải
lương nên không đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của dân tộc,
dân chủ bức thiết của đông đảo nhân dân lao động nước ta
cũng như tỏ ra bất cập so với thời đại – khi mà Cách mạng
XHCN tháng Mười Nga thành công đã thức tỉnh các dân tộc
thuộc địa, mở ra con đường giải phóng dân tộc bỏ qua chế độ
tư bản để tiến lên CNXH. Nói cách khác, sự thất bại của các
phong trào yêu nước đó còn do thiếu một đường lối đúng đắn
và một Đảng cách mạng chân chính

Kể từ khi giai cấp công nhân Việt Nam tổ chức được
chính đảng của mình và chuyển phong trào đấu tranh từ tự
phát sang tự giác, lịch sử Việt Nam đã bước sang một trang
mới. Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời đánh dấu bước chuyển biến quyết định của cách mạng
Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong chính trị
của giai cấp công nhân VN, đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Đảng
lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân
chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả tất
yếu của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc trong
thời đại mới; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc
của lịch sử; là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính
trị, tư tưởng và tổ chức của các chiến sĩ cách mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ
rằng : giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức
lãnh đạo cách mạng. Thực tế cho thấy ngay từ khi mới ra đời,
Đảng cộng sản Việt Nam đã mang trong mình tính thống nhất
giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc, thực hiện vai trò lãnh
đạo với tinh thần trách nhiệm cao của giai cấp và dân tộc. Sự
ra đời của Đảng cũng là cột mốc lớn đánh dấu bước ngoặt
trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Cuộc khủng
hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm đã
được giải quyết. Từ đây, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng Mác- Lênin
chân chính với đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo là

cơ sở lý luận vững chắc đảm bảo mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam, đáp ứng đầy đủ yêu cầu của cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc và công cuộc phát triển của đất nước.
Đảng đã đề ra cương lĩnh đúng đắn của cách mạng Việt Nam
vạch ra đường lối khác về chất so với những con đường cứu
nước do những nhà yêu nước đương thời vạch ra đã bế tắt
và thất bại. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta hoàn thành cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đưa cả nước quá độ
tiến lên CNXH.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, song đã có lúc
Đảng đã vấp phải những sai lầm khiếm khuyết trong thời
gian khá dài trước thời kỳ đổi mới. Bên cạnh đó, sự tan rã
của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu tác động sâu sắc
trên nhiều phương diện, từ kinh tế đến chính trị, tư tưởng,
tình cảm, niềm tin lý tưởng vào CNXH và là một thử thách
khắc nghiệt bản lĩnh của Đảng ta.
Trước thử thách sống còn đó, Đảng ta, trước hết là Bộ
chính trị, BCHTƯ đã bình tĩnh, sáng suốt, làm hạt nhân của
khối đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc gắn liền với CNXH, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân
khắc phục yếu kém, khó khăn, ổn định tư tưởng, chính trị, xã
hội, phát triển kinh tế, giữ vững quốc phòng an ninh, tăng
cường xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, kiên trì sự
nghiệp đổi mới. Đồng thời Đảng ta cũng đã sớm nhận thức ra
những thiếu sót, khuyết điểm và tự nhận khuyết điểm trước
nhân dân, đã sửa chữa và sửa chữa có kết quả, đem lại lòng
tin của nhân dân với Đảng. Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo
công cuộc đổi mới toàn diện vì chủ nghĩa xã hội, với quyết
tâm và trí tuệ của toàn Đảng, sự tham gia tích cực của nhân
dân, công cuộc đổi mới ở nước ta trong hơn 17 năm qua đã

thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng,
khẳng định đường lối đổi mới là đúng .
Vì vậy, với cương lĩnh và đường lối đúng đắn, sáng tạo
của mình, trong hơn 2/3 thế kỷ, vai trò của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã được thể hiện rõ qua việc tổ chức, lãnh đạo mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Những thắng lợi đó là :
Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
và việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nay là
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã mở ra một kỷ
nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.
Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để
giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, góp phần quan trọng vào
cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa
đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trải qua nhiều tìm tòi,
khảo nghiệm, tổng kết sáng kiến của nhân dân, Đảng ta đã đề
ra và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và bối cảnh quốc tế mới.
Với những thắng lợi giành được thời gian qua, nước ta
từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc
gia độc lập, tự do, phát triển kinh tế theo con đường xã hội
chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng
quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Sở dĩ Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện được nhiệm
vụ lịch sử của mình, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này sang thắng lợi khác là do những nguyên nhân
sau đây :

- Một là Đảng ta có đường lối đúng đắn, đó là sự vận
dụng và phát triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Sợi
chỉ đỏ xuyên suốt đường lối đó là việc giải quyết đúng đắn và
kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn các mối quan hệ giữa giai
cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH.
- Hai là Đảng sinh ra từ một dân tộc có truyền thống yêu
nước, đấu tranh bất khuất, một nhân dân cách mạng, thiết tha
với độc lập tự do, sẳn sàng tập họp, đoàn kết thống nhất xung
quanh Đảng,
- Ba là Đảng qua các thời kỳ đấu tranh lúc thuận lợi cũng
như lúc khó khăn đều được tổ chức chặt chẽ trên nguyên tắc
tập trung dân chủ, đại đa số Đảng viên trung thành với lý
tưởng cách mạng, một lòng phấn đấu hy sinh vì dân vì nước.
Tất cả những điều đó có thể khẳng định rằng nếu không
có Đảng Cộng sản Việt Nam thì cách mạng Việt Nam sẽ
không đạt được thắng lợi to lớn như đã qua. Tuy nhiên, hiện
nay chúng ta vẫn phải đối mặt với muôn vàn khó khăn về kinh
tế, chính trị, xã hội …Vì vậy, để đảm bảo định hướng XHCN
và lãnh đạo đất nước thực hiện thành công định hướng chiến
lược đã đặt ra, Đảng ta phải việc thường xuyên tự đổi mới, ra
sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo, giữ vững
đoàn kết thống nhất, đấu tranh có hiệu quả chống chủ nghĩa
các nhân, chủ nghĩa cơ hội, chăm lo xây dựng đội ngũ cán
bộ, Đảng viên trong sạch, có phẩm chất đạo đức, năng lực và
sức chiến đấu cao, tiêu biểu cho bản chất, lương tâm và trí
tuệ của giai cấp công nhân.
Đồng thời Đảng phải củng cố, xây dựng và phát triển
mạnh mẽ giai cấp công nhân, luôn đặt vấn đề giai cấp công
nhân như một vấn đề sinh tử của cách mạng. Nhiều năm qua

trung ương Đảng đã có nhiều nghị quyết của Đảng rất quan
trọng về công tác này. Đại Hội lần 8 của Đảng đặt vấn đề xây
dựng giai cấp công nhân lớn mạnh ở vị trí hàng đầu trong
việc nghiên cứu ban hành những chính sách cụ thể đối với
các giai cấp, tầng lớp trong xã hội nhằm tạo ra động lực thúc
đẩy phong trào cách mạng thời kỳ mới. Đảng cũng đã đặt vấn
đề giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cuả
Đảng thành nhiệm vụ trung tâm hàng đầu.
Tóm lại từ thực tiễn cách mạng ở nước ta đã cho thấy
không thể phủ nhận Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò vô
cùng to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Đó là nhân tố bảo
đảm cho giai cấp công nhân thực hiện hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của mình. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
gắn liền tuyệt đối với vai trò của Đảng Cộng sản

×