Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

THÔNG KHÍ KHÔNG XÂM LẤN TRONG ĐIỀU TRỊ ĐỢT CẤP BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.11 KB, 18 trang )

THÔNG KHÍ KHÔNG XÂM LẤN TRONG ĐIỀU TRỊ
ĐỢT CẤP BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH

TÓM TẮT
Cơ sở thực hiện nghiên cứu: Ở những bệnh nhân nhập viện vì đợt cấp bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính, thông khí không xâm lấn có thể được sử dụng để cố gắng cải thiện
bệnh cảnh lâm sàng, tình trạng toan hô hấp và tránh được việc đặt nội khí quản và các
biến chứng liên quan đến thông khí xâm lấn.
Mục tiêu: đánh giá hiệu quả của thông khí không xâm lấn trong đợt cấp bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính
Phương pháp: chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu tiền cứu, so sánh trước và sau
can thiệp, sử dụng thông khí không xâm lấn nhờ máy thở hai mức áp lực dương
(BiPAP) qua mặt nạ ở những bệnh nhân bị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính nhập khoa
hô hấp bệnh viện Nhân Dân Gia Định trong thời gian 6 tháng.
Kết quả: tổng cộng có 28 bệnh nhân bị đợt cấp COPD nhập khoa hô hấp được chọn
vào nghiên cứu. Việc sử dụng thông khí không xâm lấn làm giảm có ý nghĩa mạch và
nhịp thở cũng như cải thiện đáng kể sự tỉnh táo và khí máu động mạch (giảm pH và
PaCO
2
) vào thời điểm 1 giờ và 4 – 6 giờ sau khi bắt đầu sử dụng thông khí không
xâm lấn so với tình trạng ban đầu. Chỉ có 1 bệnh nhân (3,7%) cần đặt nội khí quản và
chuyển ICU.
Kết luận: ở bệnh nhân bị đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính đã được chọn lựa,
thông khí không xâm lấn bằng máy thở BiPAP làm cải thiện tình trạng lâm sàng và
tình trạng toan hô hấp cấp qua đó làm giảm nhu cầu đặt nội khí quản và tránh được
những biến chứng do nằm ICU lâu ngày và có lẽ làm giảm tỉ lệ tử vong trong bệnh
viện.
ABSTRACT
Background: In patients with acute exacerbations of chronic obstructive pulmonary
disease (AECOPD), noninvasive ventilation (NIV) may be used in an attempt to
improve clinical features, respiratory acidosis and avoid endotracheal intubation and


complications associated with invasive ventilation.
Objectives: evaluation of efficacy of NIV in AECOPD.
Method: We conducted a prospective, comparing pre and post – intervention study
using NIV delivered by BiPAP ventilator through a face mask in patients with COPD
admitted to respiratory department of Nhan Dan Gia Dinh hospital over a 6-month
period.
Results: A total of 28 patients with AECOPD admitted to the respiratory department
were recruited. The use of noninvasive ventilation significantly reduced pulse and
respiratory rate as well as significantly improved alertness and ABG (reduction of pH
and PaCO
2
) at 1h and 4 – 6h after start of using NIV compare to baseline status. Only
1 patient (3.7%) needed to intubate and transfered to ICU.
Conclusion: In selected patients with AECOPD, NIV by BiPAP ventilator improves
clinical status and acute respiratory acidosis by which reduces the need for
endotracheal intubation and avoids the complications due to the ICU long-term stay
and perhaps reduces the in-hospital mortality rate.
Key words: COPD, BiPAP, Non-invasive ventilation,
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là một bệnh lý có thể phòng ngừa và điều trị
được kèm một số biểu hiện ngoài phổi góp phần làm bệnh nặng thêm ở một số bệnh
nhân. Tại phổi, bệnh có đặc điểm là có tình trạng giới hạn lưu lượng khí không hồi
phục hoàn toàn. Tình trạng giới hạn lưu lượng khí thường tiến triển và kết hợp với
đáp ứng viêm bất thường của phổi với những chất khí có hại mà quan trọng nhất là
khói thuốc lá
(Error! Reference source not found.)
.
COPD là nguyên nhân gây tử vong thứ tư trên toàn cầu, tần suất và tử vong sẽ còn gia
tăng trong nhiều thập kỷ tới.
Ở những giai đoạn nặng của COPD (giai đoạn III và IV), do chức năng phổi xấu dần,

bệnh nhân sẽ thường bị những đợt bệnh nặng lên và chúng ta thường gọi là đợt cấp
COPD. Đó là tình trạng bệnh nhân xấu đi kéo dài, vượt quá những thay đổi bình
thường hàng ngày, có khởi phát cấp tính và cần thiết phải thay đổi thuốc men hàng
ngày ở những bệnh nhân COPD
(Error! Reference source not found.)
.
Đợt cấp COPD là nguyên nhân quan trọng của tử vong và bệnh tật của bệnh nhân
COPD. Trung bình trong một năm, một bệnh nhân COPD có 1- 4 đợt kịch phát và
cơn kịch phát cấp tính của COPD chiếm khoảng 25 % trường hợp đến khám tại
phòng cấp cứu vì khó thở. COPD càng nặng càng dễ bị đợt cấp và thường cần thông
khí cơ học
(Error! Reference source not found.)
.
Thông khí xâm lấn (thở máy có đặt nội khí quản) có nhiều biến chứng trong đó quan
trọng nhất là viêm phổi có liên quan đến thở máy (VAP: Ventilator-assited
Pneumonia), kéo dài thời gian điều trị, tăng tỉ lệ tử vong. Thông khí không xâm lấn
(NIV: Non-invasive Ventilation) được áp dụng cho các trường hợp đợt cấp COPD
nặng có suy hô hấp hay toan máu nhưng chưa có chỉ định đặt nội khí quản (NKQ).Y
văn thế giới đã chứng minh NIV cải thiện tình trạng toan hô hấp, giảm khó thở và
giảm thời gian nằm viện (Bằng chứng A) 0. NIV giảm tỉ lệ thở máy xâm lấn nên sẽ
làm giảm các biến chứng liên quan thở máy và do đó sẽ giảm tỉ lệ tử vong.
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này tại khoa Hô Hấp Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định
nhằm đánh giá hiệu quả của NIV trên những bệnh nhân bị đợt cấp COPD nặng, có
suy hô hấp nhưng chưa đến mức phải thở máy xâm lấn.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Vai trò của thông khí không xâm lấn trong đợt cấp COPD.
Mục tiêu cụ thể
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân trước và sau thông khí không xâm
lấn.

Đánh giá hiệu quả của việc thông khí không xâm lấn trên lâm sàng (LS) và cận lâm sàng
(CLS).
Tỉ lệ phải đặt NKQ trong dân số nghiên cứu.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân nhập khoa Nội Hô Hấp từ đầu tháng 02/2009 đến cuối tháng
07/2009 với chẩn đoán đợt cấp COPD và có chỉ định NIV.
Phương pháp nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Tất cả bệnh nhân (nhập khoa Nội Hô hấp với chẩn đoán đợt cấp COPD có khó thở
trung bình – nặng, nhịp thở > 25 lần/phút đều được thực hiện khí máu động mạch.
Nếu kết quả KMĐM của bệnh nhân có pH < 7,35 và/hoặc PaCO
2
> 45 mmHg thì sẽ
chọn bệnh nhân này vào nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Ngưng hô hấp.
- Tình trạng nội khoa không ổn định (ví dụ có tụt huyết áp, có kèm nhồi máu
cơ tim cấp hoặc tai biến mạch máu não mới xuất hiện).
- Không thể bảo vệ đường thở (mất phản xạ ho, nuốt).
- Tăng tiết đàm quá mức.
- Rối loạn tri giác, kích động
- Bệnh nhân không hợp tác.
- Chấn thương mặt hoặc bỏng hay có bất thường ảnh hưởng đến việc giữ kín
mặt nạ.
Các bước tiến hành
Thu thập số liệu về các triệu chứng LS và các xét nghiệm CLS trước khi tiến hành
NIV.
Tiến hành thở NIV (BiPAP) qua mặt nạ mặt mũi với các thông số cài đặt như sau:
Chế độ: ST

IPAP: 10 – 20 cmH
2
O
EPAP: 5 – 12,5 cmH
2
O
F: 16 lần/phút
FiO
2
: mức thấp nhất để duy trì SaO
2
> 90%
Ngưng thở BiPAP khi lâm sàng cải thiện và bệnh nhân hết toan hô hấp cấp.
Đồng thời tiếp tục điều trị nội khoa tích cực đợt cấp COPD theo hướng dẫn của
GOLD 2008.
Theo dõi và thu thập số liệu về các triệu chứng LS và các xét nghiệm CLS sau khi
tiến hành NIV được 1 giờ và sau 4 - 6 giờ.
Các số liệu sẽ được nhập vào máy, làm sạch dựa vào phần mềm Excel và đem phân
tích dựa trên phần mềm Stata 10.0.
KẾT QUẢ
Sau 6 tháng thực hiện nghiên cứu chúng tôi đã có được 28 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn
tham gia nghiên cứu và có số liệu được thu thập tương đối đầy đủ. Những bệnh nhân
này có các đặc điểm như sau:
Tuổi và giới
Chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu trên 28 bệnh nhân tuổi từ 49 – 92 (trung bình
72,8±10,1), trong đó có 19 bệnh nhân nam (67,9%) và 9 bệnh nhân nữ (32,1%), tỉ lệ
nam / nữ = 2,1/1.
Tiền căn COPD và lao phổi
Trong số các đối tượng nghiên cứu này có 21 trường hợp (75%) có tiền căn COPD và
7 trường hợp (25%) không có tiền căn này. Tương tự về vấn đề lao phổi chúng tôi

cũng đã ghi nhận có 14 bệnh nhân (50%) không có tiền căn lao phổi, 12 bệnh nhân
(42,86%) có lao phổi cũ và 2 bệnh nhân (7,14%) đang điều trị lao phổi.
Đặc điểm hút thuốc lá
Trong tổng số 28 bệnh nhân chúng tôi chỉ khai thác được tiền căn hút thuốc lá chính
xác ở 22 bệnh nhân và trong số 22 bệnh nhân này thì có 9 bệnh nhân (40,9%) hoàn
toàn không hút thuốc lá, còn lại 13 bệnh nhân (59,1%) có chỉ số pack-year là 41,1 ±
24 (6 – 90).
Đặc điểm lâm sàng
Trong 28 bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu có 15 bệnh nhân (53,6%) có sốt và 13
bệnh nhân (46,4%) không sốt.
Về triệu chứng ho thì trong tổng số 26 bệnh nhân được khai thác về triệu chứng này
có 17 bệnh nhân (65,4%) ho đàm đục, 6 bệnh nhân (23,1%) ho đàm trong, 2 bệnh
nhân (7,7%) không ho và 1 bệnh nhân (3,8%) ho khan.
Trong 22 bệnh nhân được khai thác về số lượng đàm thì 15 bệnh nhân (68,2%) có số
lượng đàm tăng và 7 bệnh nhân (31,8%) có số lượng đàm không thay đổi.
Bảng 1: Những đặc điểm lâm sàng
Trước
NIV
Sau khi
b
ắt đầu
NIV 1 giờ

Sau khi
b
ắt đầu
NIV 4-
6
giờ
Đ

ặc diểm
LS
N
T
ỉ Lệ
(%)
N
T
ỉ Lệ
(%)
N
T
ỉ Lệ
(%)
Có 14 51,9 5 18,5 2 7,4 Rối
loạn
tri
giác
Không

13 48,2 22 81,5 25 92,6
Có 10 37 8 30,8 4 21,1
Rales
rít
Không

17 63 18 69,3 15 79
Trước
NIV
Sau khi

b
ắt đầu
NIV 1 giờ

Sau khi
b
ắt đầu
NIV 4-
6
giờ
Đ
ặc diểm
LS
N
T
ỉ Lệ
(%)
N
T
ỉ Lệ
(%)
N
T
ỉ Lệ
(%)
Có 27 100 17 65,4 10 43,5
Thở
co kéo

Không


0 0 9 34,6 13 56,5
So sánh tri giác trước và sau khi tiến hành NIV 1 giờ và sau 4 – 6 giờ: tri giác cải
thiện rõ và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,01 và p = 0,001). Tuy nhiên sự
khác biệt về tri giác giữa sau NIV 1 giờ và sau 4 – 6 giờ không có ý nghĩa thống kê (p
= 0,21).
Tương tự như tri giác, tình trạng thở co kéo trước và sau khi thực hiện NIV 1 giờ và
sau 4 – 6 giờ cải thiện rõ và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,001) nhưng sự
khác biệt giữa sau NIV 1 giờ và sau 4 – 6 giờ lại không có ý nghĩa thống kê (p =
0,124).
Sự thay đổi về rales rít ở phổi trước và sau NIV không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Bảng 2: Đặc điểm lâm sàng trước và sau NIV
Đ
ẶC ĐIỂM
LS
Trước
NIV
Sau khi
b
ắt đầu
NIV
1 giờ
Sau khi
b
ắt đầu
NIV 4-
6
giờ
Mạch
(lần/phút)

118,9 ±
21,2
(88 – 173)

106,4 ±
13,8
(80 –
132)
97,1 ±
13,2
(74 –
125)
Huy
ết áp
tâm thu
(mmHg)
131,5 ±
29,4
(80 – 180)

118,1 ±
23,7
(75 –
180)
117,3 ±
18,6
(90 –
160)
Huy
ết áp

tâm trương
(mmHg)
78,1 ±
14,7
(50 – 110)

71,7 ± 12

(50 – 90)

71,8 ±
10,1
(60 – 90)

Nh
ịp thở
(lần/phút)
27,5 ± 4,3
(22 – 36)
20,7 ± 2,7

(16 – 26)

20 ± 2
(16 – 24)

SpO
2
(%) 88,9 ± 6,6 91,4 ± 5,4


93,3 ± 2,7

Đ
ẶC ĐIỂM
LS
Trước
NIV
Sau khi
b
ắt đầu
NIV
1 giờ
Sau khi
b
ắt đầu
NIV 4-
6
giờ
(72 – 97) (69 – 97)

(90 – 99)

Oxy
(lít/phút)
4,7 ± 3,3
(0 – 15)
3,8 ± 3
(0 – 15)
4,1 ± 2,7
(1 – 10)

Qua bảng trên ta nhận thấy sau khi thực hiện NIV, mạch của bệnh nhân chậm dần và
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p = 0,001).
Đồng thời ta cũng nhận thấy huyết áp tâm thu và tâm trương của bệnh nhân giảm dần
sau khi NIV và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) dù cho sự khác biệt giữa sau
NIV 1 giờ và sau 4 – 6 giờ không có ý nghĩa thống kê (p = 0,33 và p = 0,67).
Một đặc điểm LS rất quan trọng khác là nhịp thở: nhịp thở chậm dần sau NIV và sự
khác biệt rất có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) nhưng sự khác biệt giữa sau thở NIV 1
giờ và sau 4 – 6 giờ lại không có ý nghĩa thống kê (p = 0,1).
Sự khác biệt về SpO
2
trước và sau tiến hành NIV hoàn toàn không có ý nghĩa (p >
0,05).
Đặc điểm cận lâm sàng
Số lượng bạch cầu máu là 10706 ± 3852 (4300 – 21700 BC/mm
3
).
Trong số 27 bệnh nhân (96,4%) được cấy đàm có 20 trường hợp (71,4%) có kết quả
âm tính và 7 trường hợp (25%) có kết quả dương tính với các vi khuẩn Burkhoderia
caparia, Enterobacter cloacae, Haemophilus influenzae, Klebsiella / ESBL (+),
Klebsiella pneumoniae và Pseudomonas aeruginosa.
Bảng 3: Đặc điểm cận lâm sàng khí máu động mạch
ĐẶC
ĐIỂM
CLS
Trước
NIV
Sau khi
b
ắt đầu
NIV 1 giờ


Sau khi
b
ắt đầu
NIV 4-
6
giờ
pH 7,26 ± 0,06

7,34 ±
0,06
7,37 ±
0,05
PaCO
2
(mmHg)
76,9 ± 16,3

60 ± 12,2
56,4 ±
10,6
HCO
-
3
(mmHg)
33,6 ± 6,0 32 ± 5,8 31,7 ± 6,1

FiO
2
(%) 44 ± 26,2 3

6,8 ±
18,4
37,9 ±
16,9
Hai yếu tố CLS quan trọng trong đợt cấp COPD là pH và PaCO
2
trước và sau thực
hiện NIV cũng như giữa sau NIV 1 giờ và sau 4 – 6 giờ đều cải thiện rất rõ rệt và sự
khác biệt rất có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).
Điều trị nội khoa
Tất cả 28 bệnh nhân trong nghiên cứu đều được điều trị nội khoa tích cực theo hướng
dẫn của GOLD 2008:
Bảng 4: Điều trị nội khoa
Điều trỊ nội khoa n Tỉ lệ (%)
Kích thích beta
2
27 96,4
Corticosteroides 25 89,3
Kháng sinh 24 85,7
Diaphylline /Theostat 14 50
Thất bại với NIV: đặt nội khí quản (NKQ) hoặc chuyển ICU trong vòng 3 ngày):
Trong tổng số 27 bệnh nhân chỉ có 1bệnh nhân (3,7%) cần đặt NKQ / chuyển ICU.
Biến chứng NIV thường nhẹ: đa số là bầm vùng mặt và sống mũi, chướng bụng.
BÀN LUẬN
Một số đặc điểm chung
Dân số nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu là những người già có tuổi trung bình là
72,8 ± 10,1, thay đổi từ 49 – 92 cũng tương đương với tuổi của bệnh nhân trong
nghiên cứu của Brochard (71 ± 9)
(Error! Reference source not found.)
nhưng hơi cao hơn nghiên

cứu của Martin (64 ± 17)
(Error! Reference source not found.)
có lẽ do trong nghiên cứu của
Martin tác giả sử dụng thở máy không xâm lấn trên những bệnh nhân có suy hô hấp
cấp nên còn có những nguyên nhân khác không phải là COPD chẳng hạn như bệnh lý
thần kinh cơ. Tỉ lệ nam /nữ = 2,1/1 trong nghiên cứu của chúng tôi khác với nghiên
cứu của Martin
(Error! Reference source not found.)
ở Mỹ (tỉ lệ nam/nữ = 1:1) có lẽ do ở Việt
Nam phụ nữ ít hút thuốc lá hơn so với phụ nữ ở Mỹ nên ít bị COPD hơn.
Về tình trạng hút thuốc lá thì có 40,9 % bệnh nhân hoàn toàn không hút thuốc lá cho
thấy còn có những yếu tố ngoài thuốc lá có khả năng gây COPD như ô nhiễm môi
trường và tình trạng hút thuốc lá thụ động. Trong số những người hút thuốc lá, chỉ số
pack-year trung bình là 41 ± 24, (thay đổi từ 6 – 90) cho thấy việc hút thuốc lá nhiều
vẫn là nguyên nhân hàng đầu của COPD.
Đặc điểm lâm sàng
Có 53,6 % bệnh nhân có sốt khi vào viện và 65,4 % bệnh nhân có ho đàm đục, 68,2
% bệnh nhân có tăng số lượng đàm, điều này phù hợp với y văn
(Error! Reference source not
found.)
cho thấy nhiễm trùng hô hấp vẫn là nguyên nhân hàng đầu gây đợt cấp COPD.
Tình trạng rối loạn tri giác và thở co kéo trước và sau khi tiến hành NIV trong dân số
nghiên cứu cải thiện rõ rệt và rất có ý nghĩa thống kê (p = 0,001). Tác giả
Brochard
(Error! Reference source not found.)
sử dụng điểm số về tri giác cũng cho thấy sau khi
thở NIV cũng cải thiện có ý nghĩa thống kê (p = 0,02). Tương tự như vậy, các dấu
hiệu sinh tồn của bệnh nhân như mạch, huyết áp và nhịp thở cũng giảm hẳn sau thực
hiện NIV và sự khác biệt này cũng có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Hai nghiên cứu
của Brochard và Celikel

(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.)
chia bệnh
nhân làm hai nhóm, một nhóm được điều trị nội khoa thông thường, một nhóm được
thêm thở NIV với điều trị nội khoa. Cả hai nghiên cứu này đều cho thấy nhóm NIV
có nhịp thở giảm sau 1 giờ điều trị nhiều hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm điều trị
nội khoa thông thường.
Số bệnh nhân đặt phải đặt nội khí quản (NKQ) và chuyển ICU trong vòng 3 ngày chỉ
có 1bệnh nhân (3,7%) là khá thấp. Các nghiên cứu khác cũng thực hiện ở khoa Hô
Hấp cho kết quả hơi cao hơn một chút như nghiên cứu của Kramer
(Error! Reference source
not found.)
có tỉ lệ đặt NKQ là 9% ở nhóm điều trị NIV so với 67% ở nhóm điều trị kinh
điển (p = 0,017), và nghiên cứu của Celikel
(Error! Reference source not found.)
cũng cho kết quả
tương tự [7% so với 40% (p < 0.05)]. Hai nghiên cứu trong môi trường ICU của
Brochard và Martin (1,95) có tỉ lệ đặt NKQ ở nhóm thở NIV theo thứ tự là 26% và
28% so với 74% và 59% ở nhóm điều trị kinh điển bằng thuốc (với p < 0.001 và p =
0.002). Tỉ lệ bệnh nhân phải đặt NKQ ở nhóm thở NIV trong hai nghiên cứu này khá
cao có lẽ đây là những bệnh nhân nằm ở ICU nên có bệnh nặng hơn và do đó tỉ lệ
phải đặt NKQ cao hơn.
Ngoài ra, có những nghiên cứu cũng cho thấy thở NIV làm giảm thời gian nằm viện
đáng kể
(1,Error! Reference source not found.)
, và giảm tỉ lệ tử vong
(Error! Reference source not found.)
.
Đặc điểm cận lâm sàng
Số lượng bạch cầu trong nghiên cứu của chúng tôi trung bình là 10706 ± 3852/mm
3


cho thấy có khả năng có nhiễm trùng trong đợt cấp COPD. Tuy nhiên, chỉ có khoảng
25% bệnh nhân cấy đàm dương tính đa số là các vi khuẩn Gram (-) như Burkhoderia
capacia, Enterobacter cloacae, Haemophilus influenzae, Klebsiella/ ESBL(+),
Klebsiella pneumoniae và Pseudomonas aeruginosa. Điều này gợi ý khâu lấy đàm
trong nghiên cứu của chúng tôi có lẽ chưa được tốt.
Trước khi thở NIV, các bệnh nhân có pH máu động mạch trung bình là 7,26 ± 0,06 và
paCO
2
trung bình là 76 ± 16 mmHg. Sau khi thở NIV, cả hai yếu tố đều thay đổi giảm
đi có ý nghĩa thống theo chiều hướng thuận lợi cho bệnh nhân (p < 0,001). Hầu hết
các nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự
(2,3,6)
, nghiên cứu của Celikel
(2)
so sánh
nhóm thở NIV với nhóm điều trị nội khoa cũng cho thấy sự cải thiện pH và paCO
2

ý nghĩa. Hướng dẫn của GOLD 2008 cũng chỉ rõ lợi ích của thở NIV là cải thiện tình
trạng toan hô hấp, giảm khó thở và giảm thời gian nằm viện (Bằng chứng A). NIV
giảm tỉ lệ thở máy xâm lấn nên sẽ làm giảm các biến chứng liên quan thở máy và do
đó sẽ giảm tỉ lệ tử vong
(Error! Reference source not found.).

KẾT LUẬN
Qua bước đầu áp dụng thông khí không xâm lấn trong điều trị đợt cấp COPD, nhóm
nghiên cứu chúng tôi nhận thấy tình trạng lâm sàng như mạch, huyết áp, nhịp thở
cũng như tình trạng toan hô hấp cấp cải thiện rõ rệt sau 1 giờ và sau 4 – 6 giờ thực
hiện thông khí không xâm lấn, đồng thời tỉ lệ thất bại (đặt NKQ / chuyển ICU) trong

dân số nghiên cứu thấp (3,7%) và các biến chứng của thở NIV thường nhẹ và không
đáng kể.
Việc áp dụng thông khí không xâm lấn dễ dàng thực hiện tại khoa phòng, giảm tải
cho khoa Hồi Sức Tích Cực Chống Độc, tránh được các biến chứng nguy hiểm của
đặt NKQ và thở máy xâm lấn. Máy thở BiPAP nhỏ gọn, giá thành vừa phải và việc
chăm sóc, theo dõi cũng không quá phức tạp.

×