Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

TĂNG ÁP ĐỘNG MẠCH PHỔI SAU PHẪU THUẬT TIM potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (877.17 KB, 16 trang )

TĂNG ÁP ĐỘNG MẠCH PHỔI SAU PHẪU THUẬT TIM

TÓM TẮT
Cơn tăng áp động mạch phổi là 1 trong những yếu tố nguy cơ cao góp phần làm gia
tăng tỷ lệ bệnh tật và tử vong cho các bệnh nhân sau phẫu thuật tim, nhất là các trẻ
nhỏ mắc bệnh tim bẩm sinh. Iloprost và Sildenafil gần đây đã được công nhân như là
những thuốc dãn mạch phổi dùng trong điều trị tăng áp phổi.
Mục tiêu: Nhằm đánh giá hiệu quả phối hợp của iloprost và sildenafil trong điều trị
tăng áp phổi sau phẫu thuật tim.
Phương pháp: Chúng tôi tổng kết 50 ca hậu phẫu tim có tăng áp phổi, sử dụng phối
hợp Iloprost và Sildenafil theo guidelines của ACCP. Trong đó có 40 trường hợp trẻ
em được điều trị với iloprost truyền tĩnh mạch, 10 trường hợp trẻ được điều trị với
iloprost phun khí dung. Dùng phép kiểm t student ghép cặp để so sánh sự khác biệt về
áp lực phổi trước và sau khi dùng iloprost.
Kết quả: Nhóm iloprost truyền tĩnh mạch áp lực động mạch phổi trung bình giảm từ
42 ± 5mmHg xuống còn 30,5 ± 4,6mmHg (p<0,05). Trong khi đó, huyết áp trung
bình của bệnh nhân giảm từ 67,5 ± 4,5mmHg xuống còn 56,6 ± 6,25mmHg (p<0,05).
Nhóm iloprost phun khí dung: áp lực động mạch phổi trung bình giảm từ 42 ±
5mmHg xuống còn 32,2 ± 6,4 mmHg (p<0,05). Trong khi đó, huyết áp trung bình của
bệnh nhân giảm từ 65,5 ± 5,45mmHg xuống còn 61,5 ± 3,25mmHg (p<0,05).
Kết luận: Iloprost cả dạng truyền tĩnh mạch và dạng phun khí dung đều chứng tỏ có
hiệu quả trong điều trị tăng áp phổi sau mổ. Việc phối hợp Iloprost và Sildenafil đúng
cách sẽ mang lại hiệu quả khá tốt trên lâm sàng, nhất là các bệnh nhân sau phẫu thuật
tim có tăng áp phổi.
ABSTRACT
Pulmonary hypertension crisis (PHC) is one of high rish factors which increases
morbidity and mortality in perioperative cardiac patients. Recently, Iloprost and
Sildenafil have approved as pulmonary vasodilators and used in treatment of
pulmonary hypertension.
Objectives: Evaluating effectiveness in combination Iloprost and Sildenafil in
management PAH after cardiac surgery.


Methods: Our review on 50 cardiac surgery cases with pulmonary hypertension,
treated with iloprost and silldenafil according to ACCP guidelines. 40 cases treated
with intravenous iloprost, 10 cases treated with inhaled iloprost. The paired Student’s
t test was used to compare the pulmonary arterial pressure differences between pre
and post iloprost treatment.
Results: In intravenous iloprost group, mPAP decreases from 42 ± 5mmHg to 30.5 ±
4,6mmHg (p<0.05), MAP decreases from 67.5 ± 4.5mmHg to 56.6 ± 6.25mmHg
(p<0.05). In inhaled iloprost group, mPAP decreases from 42 ± 5mmHg to 32.2 ± 6.4
mmHg (p<0.05), MAP decreases from 65.5 ± 5.45mmHg to 61.5 ± 3.25mmHg
(p<0.05).
Conclusion: Both of intravenous and inhaled iloprost are effectively in treatment of
perioperative pulmonary hypertension crisis. Combination of iloprost and sildenafil
will bring good results in control of pulmonary hypertension.
MỞ ĐẦU
Tăng áp phổi là 1 vấn đề rất thường gặp trong các khoa hồi sức tim mạch. Mặc dù gần
đây có nhiều biện pháp điều trị mới được đề cập đến, tuy nhiên việc kiểm soát ổn
định áp lực động mạch phổi ở những bệnh nhân nặng có tăng áp phổi vẫn còn là 1
thách thức. Việc điều trị đúng đắn và phù hợp tùy thuộc nhiều vào bệnh lý gốc và
mức độ nặng của tăng áp phổi ảnh hưởng trên huyết động
Mục tiêu nghiên cứu
Nhằm đánh giá hiệu quả phối hợp của iloprost và sildenafil trong điều trị tăng áp phổi
sau phẫu thuật tim.
Cơ chế bệnh sinh
Ngày nay, người ta cho rằng ở hệ mạch máu phổi luôn có sự cân bằng giữa các chất
được tiết ra từ lớp nội mạc gây co mạch và dãn mạch, giữa các chất phân bào và
chống phân bào. Bất kỳ 1 yếu tố nào làm rối loạn sự cân bằng này sẽ gây ra tăng áp
phổi. Các yếu tố đó có thể kể ra như sau: giảm oxy máu, toan máu, các hóa chất trung
gian gây viêm, tình trạng tăng lưu lượng máu lên phổi do shunt trái phải, và sự lắng tụ
fibrin từ các mảng huyết khối.
Tăng áp phổi được xác định khi áp lực động mạch phổi thì tâm thu trên 35mmHg,

hoặc khi áp lực động mạch phổi trung bình trên 25mmHg lúc nghỉ hoặc trên
30mmHg lúc vận động.
Việc tăng áp lực trên hệ mạch máu phổi sẽ làm tăng sức cản mạch máu phổi, lâu dần
sẽ làm dày thất phải và suy thất phải. Trong 1 nghiên cứu của Vizza(1) và cộng sự, tỷ
lệ suy thất phải (định nghĩa khi EF thất phải <45%) đặc biệt cao trên nhóm tăng áp
phổi so với nhóm bệnh phổi giai đoạn cuối
Việc tăng áp phổi lâu ngày sẽ làm biến đổi cấu trúc mạch máu phổi, hay còn gọi là
hiện tượng “vascular remodeling”. Bình thường, các tiểu động mạch phổi có thành
mỏng, khi tăng áp phổi lâu ngày, có hiện tượng tăng sinh các tế bào cơ trơn thành
mạch, đồng thời lớp ngoại mạc cũng dày lên do các nguyên bào sợi tăng sinh làm
tăng sinh lóp mô liên kết. Hậu quả là thành mạch dày lên. Đây là cơ chế bảo vệ của
thành mạch đối với hiện tượng tăng áp lực trong lòng mạch.

Hình 1: Sinh lý bệnh tăng áp phổi
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trẻ em trong giới hạn tuổi từ 03 tháng tuổi – 10 tuổi mắc bệnh tim bẩm sinh có tăng
áp động mạch phổi nặng được phẫu thuật tại bệnh viện tim Tâm Đức, với áp lực phổi
trung bình trước mổ là 42±5mmHg. Chúng tôi đánh giá áp lực phổi trước mổ bằng
siêu âm Doppler và bằng phương pháp đo trực tiếp trên động mạch phổi trên phẫu
trường trong lúc mổ. Sau khi được phẫu thuật sửa chữa những khiếm khuyết trong
tim, chúng tôi đánh giá lại áp lực động mạch phổi ngay sau khi ngưng tuần hoàn
ngoài cơ thể, và đặt catheter theo dõi áp lực phổi liên tục tại hồi sức đồng thời với
theo dõi huyết áp động mạch xâm lấn liên tục. Nếu áp lực phổi trung bình ≥ 30mmHg
thì bệnh nhân được điều trị như sau:
- Phun khí dung Iloprost liều mỗi lần 25 ng/kg/phút, dùng 6 – 9 lần/ngày (phun 10
phút).
- Hoặc truyền Iloprost liên tục qua tĩnh mạch trung tâm với liều 1 – 3ng/kg/phút.
- Sau đó khi bệnh nhân hấp thu được hoặc khi uống được thì dùng Sildenafil với liều
0.25 – 1 mg/kg/lần uống 4 lần/ngày.
Khi đã dùng Sildenafil được 2 ngày thì giảm dần Iloprost tới lúc ngưng hẳn, tiếp tục

duy trì Sildenafil.
KẾT QUẢ
Từ tháng 07/2006 – 07 2009, có 50 trẻ em mắc tim bẩm sinh có tăng áp phổi với áp
lực phổi trung bình trước mổ là 42±5mmHg được phẫu thuật và được điều trị tăng áp
phổi sau mổ với phương pháp nêu trên. Trong đó có 40 trường hợp trẻ em được điều
trị với iloprost truyền tĩnh mạch, 10 trường hợp trẻ được điều trị với iloprost phun khí
dung. Kết quả:
Nhóm iloprost truyền tĩnh mạch
Áp lực động mạch phổi trung bình giảm từ 42 ± 5mmHg xuống còn 30,5 ± 4,6mmHg
(p<0,05). Trong khi đó, huyết áp trung bình của bệnh nhân giảm từ 67,5 ± 4,5mmHg
xuống còn 56,6 ± 6,25mmHg (p<0,05).
Nhóm iloprost phun khí dung
Áp lực động mạch phổi trung bình giảm từ 42 ± 5mmHg xuống còn 32,2 ± 6,4
mmHg (p<0,05). Trong khi đó, huyết áp trung bình của bệnh nhân giảm từ 65,5 ±
5,45mmHg xuống còn 61,5 ± 3,25mmHg (p<0,05).
BÀN LUẬN
Hiện nay trên thế giới có nhiều phương pháp điều trị tăng áp phổi. Có thể kể ra đây 1
số phương pháp thông dụng như sau:
Thông khí cơ học
Thông khí cơ học kết hợp với việc cho bệnh nhân an thần đầy đủ được xem là 1 trong
những biện pháp kiểm soát tăng áp phổi. Tuy nhiên, nếu điều chỉnh không tốt thể tích
khí lưu thông (Tidal Volume) và nhất là áp lực dương PEEP thì có thể làm tăng
kháng lực mạch máu phổi, và làm cho tình trạng suy thất phải trầm trọng thêm. Người
ta khuyến cáo rằng nên kiểm soát thông khí cho những bệnh nhân tăng áp phổi với
tidal volume và PEEP tương đối thấp, nhưng tránh không được để xảy ra tình trạng ứ
đọng thán khí (hypercapnia) vì như vậy sẽ làm tăng áp lực phổi. Trong 1 nghiên cứu
trên 18 bệnh nhân phẫu thuật mạch vành, người ta thấy rằng tăng thán khí sẽ làm tăng
sức cản mạch máu phổi 54% và làm tăng áp lực phổi trung bình lên 30%.
Các thuốc inotrope
Trong các thuốc inotrope, chỉ có Dobutamine và Milrinone là 2 thuốc có tác dụng

giảm sức cản mạch máu phổi.
Dobutamine: Nhiều nghiên cứu
(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.)

khuyên rằng liều dùng dobutamine trong tăng áp phổi không nên vượt quá
5µg/kg/phút và nên phối hợp với các thuốc dãn mạch phổi khác.
Milrinone: Milrinone là chất ức chế men phosphodiesterase-3, vừa có tác dụng
inotrope, vùa làm dãn mạch. Khi phối hợp với Nitric oxide, người ta thấy Milrinone
có tính dãn mạch phổi chọn lọc trên những trẻ em được phẫu thuật tim bẩm sinh. Tuy
nhiên, vì Milrinone có tác dụng dãn mạch nên nó cũng làm giảm huyết áp, vì vậy nên
thận trọng khi dùng nhất là trong những trường hợp huyết động không ổn định.
Các thuốc dãn mạch phổi
Nitric Oxide (NO)
No dùng qua đường hô hấp đã chứng minh được hiệu quả trên tăng áp phổi trong
nhiều nghiên cứu. Trong tăng áp phổi lâu ngày, NO làm giảm đáng kể áp lực động
mạch phổi trung bình (mPAP) và sức cản mạch máu phổi (PVR) mà không làm ảnh
hưởng trên sức cản mạch máu ngoại vi (SVR) và cung lượng tim (CO)
(Error! Reference
source not found.)
. Tuy vậy, sử dụng NO cũng cần chú ý đến những biến chứng, nhất là
tình trạng Methemoglobin máu khi dùng NO kéo dài với nồng độ thuốc cao. Và khi
ngưng thuốc phải giảm dần nồng độ thuốc, không ngưng thuốc đột ngột tránh hiện
tượng tăng áp phổi dội ngược (rebound).
Iloprost
Đề cập sau.
Sildenafil
Đề cập sau
Bosentan
Bosentan là thuốc đối kháng receptor endothelin, có tác dụng làm dãn mạch phổi và
chống lại sự tăng sinh quá phát cơ trơn thành động mạch phổi. Nhiều nghiên cứu lâm

sàng(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.)
chứng minh bosentan có hiệu quả làm giảm áp lực động mạch phổi, giảm PVR, cải
thiện huyết động học cho bệnh nhân, cải thiện khả năng vận động, cải thiện khả năng
sống còn. Theo guidelines mới đây của ACCP về điều trị tăng áp phổi, người ta
khuyến cáo dùng bosentan cho các bệnh nhân NYHA III – IV mà không dùng được
ức chế canxi. Tuy nhiên hiện tại giá thành bosentan ở Việt Nam vẫn còn khá cao, điều
này làm cho bệnh nhân khó tiếp cận được với điều trị.
Các biện pháp khác
Oxygen
Oxygen có thể làm giảm áp lực phổi và cải thiện cung lượng tim trên những bệnh
nhân tăng áp phổi. Trên những bệnh nhân nặng ở ICU, tình trạng giảm oxy máu có
thể làm co thắt các mạch máu phổi, làm nặng thêm tình trạng tăng áp phổi. Do đó,
cần chú ý cung cấp oxy đầy đủ trên các bệnh nhân có tăng áp phổi.
Lợi tiểu
Thuốc lợi tiểu từ lâu được xem như là 1 thuốc kinh điển để điều trị các trường hợp
tăng áp phổi, cho dù tăng áp phổi do bệnh lý mạch máu phổi hay do suy thất trái. Mục
tiêu của việc dùng thuốc lợi tiểu là để giảm tải tình trạng ứ dịch trên thất phải khi thất
phải đã căng dãn và suy giảm chức năng do tăng áp phổi.
Digoxin
Điều trị Digoxin trên những bệnh nhân suy tim phải do tăng áp phổi hiện còn nhiều
tranh cãi. Trong 1 nghiên cứu
(Error! Reference source not found.)
trên 17 bệnh nhân bị tăng áp
phổi nguyên phát được điều trị với Digoxin, người ta thấy cung lượng tim có cải thiện
một phần và lượng catecholamine trong máu giảm, nhưng kháng lực mạch máu phổi
không thay đổi và mPAP lại tăng. Hơn nữa, do có nhiều thuốc hiệu quả hơn Digoxin
để điều trị suy thất phải và nhịp nhanh kịch phát trên thất, nên Digoxin ít được sử
dụng cho mục đích này trong ICU.
Thuốc ức chế Canxi:
Không có nghiên cứu nào ủng hộ cho việc dùng thuốc ức chế Canxi cho những bệnh

nhân tăng áp phổi đang nằm ở khoa hồi sức, bởi vì chính tác dụng inotrope âm tính
của nó có thể làm nặng thêm tình trạng suy tim phải. Tuy nhiên, ức chế Canxi được
dùng để điều trị tăng áp phổi mãn tính. Sử dụng loại thuốc này có thể giúp kiểm soát
nhịp tim, nhưng cần tránh dùng các thuốc có tác dụng inotrope âm tính quá mạnh như
Verapamil.
Kháng đông Warfarin
Warfarin được khuyến cáo và sử dụng rộng rãi trên bệnh nhân tăng áp phổi. Có
nhiều lý do để dùng Warfarin: các bệnh nhân tăng áp phổi thường có tình trạng
tăng đông, giải phẫu bệnh lý các trường hợp tăng áp phổi cho thấy có tỷ lệ cao
huyết khối tại chỗ. Có 2 nghiên cứu hồi cứu
(Error! Reference source not found.,Error! Reference
source not found.)
cho thấy những bệnh nhân có dùng thuốc kháng đông có tỷ lệ sống
còn cao hơn những bệnh nhân không dùng kháng đông. Khi dùng Warfarin, nên
giữ INR trong khoảng từ 2 – 2,5.

Hình 2: Cơ chế tác dụng của những thuốc dãn mạch phổi
TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
Trong điều kiện hiện tại ở Việt Nam, ngoài Milrinone, chỉ có 2 thuốc là khả dĩ có thể
sử dụng trong hồi sức để điều trị tăng áp động mạch phổi là Iloprost và Sildenafil.
Iloprost
Iloprost co thể sử dụng dưới 2 dạng là truyền tĩnh mạch và phun khí dung là thuốc
thuộc nhóm prostacyclin. Gần đây có nhiều nghiên cứu chứng minh Iloprost có hiệu
quả trên mPAP và trên PVR, cũng như làm cải thiện cung lượng tim và thuốc đã
chứng tỏ có hiệu quả khi dùng dưới cả 2 dạng: khí dung và truyền tĩnh mạch.
Dạng truyền tĩnh mạch
Trong một nghiên cứu hồi cứu trên 45 bệnh nhân tăng áp phổi nguyên phát từ 1995 –
2002 (trong đó có 35 nữ, tuổi trung bình 45) dùng Iloprost truyền tĩnh mạch. 42 trong
số 45 bệnh nhân được tiến hành thông tim đo các chỉ số huyết động học trước và sau
khi dùng Iloprost như: CI(cardiac index), PVR(pulmonary vascular resistance),

mPAP(mean pulmonary arterial pressure), MAP(mean arterial pressure) và SvO2.
Kết quả cho thấy liều Iloprost lý tưởng trong nghiên cứu này là 1,5 ± 0,8 (0.5 – 4)
ng/kg/phút, với liều này người ta thấy CI, PVR, PAPm và SvO2 cải thiện một cách
đáng kể (p=0,001) và huyết áp trung bình MAP hầu như không thay đổi (80 mmHg
so với 77mmHg sau điều trị, p=0,11)
(Error! Reference source not found.)
.
Dạng iloprost truyền tĩnh mạch trong nhiều nghiên cứu đã chứng tỏ giảm tỷ lệ tử
vong trên các bệnh nhân tăng áp phổi nặng. Tuy nhiên, khi dùng qua đường truyền
tĩnh mạch, thuốc có thể ảnh hưởng đến huyết áp, nhất là trong những trường hợp
huyết động không ổn định. Ngoài ra, dùng lâu ngày có thể xảy ra tình trạng dung nạp
thuốc và tình trạng nhiễm trùng catheter nên ít nhiều cũng có những hạn chế nhất
định.
Dạng phun khí dung
Trong nghiên cứu AIR-Study
(9)
(Aerolized Iloprost Randomized), người ta so sánh
hiệu quả khi dùng iloprost dạng hít liều 2,5 - 5µg/kg/lần (dùng 6 – 9 lần/ngày, trung
bình 30 µg/ngày) so với placebo. Tổng số có 203 bệnh nhân tăng áp động mạch phổi
nặng với NYHA III-IV tham gia nghiên cứu. Tiêu chí của nghiên cứu này đạt được
khi sau 12 tuần điều trị, NYHA tăng ít nhất 1 bậc hoặc chiều dài đoạn đường mà bệnh
nhân đi bộ trong 6 phút tăng ít nhất 10%, mà không có những rối loạn lâm sàng nguy
hiểm. Kết quả có 16,8% số bệnh nhân dùng iloprost đạt được tiêu chí nghiên cứu, so
với nhóm chứng placebo là 4,9% (p=0,007). Chiều dài đoạn đường đi bộ trong 6 phút
tăng 36,4m ở nhóm iloprost (p=0,004). Các chỉ số huyết động học cải thiện rất đáng
kể sau 12 tuần điều trị thở khí dung iloprost (p<0,001), trong khi nhóm chứng các chỉ
số huyết động học đều xấu hơn. Ngoài ra, các lợi ích lâm sàng khác của điều trị
iloprost là cải thiện NYHA (p=0,03), cải thiện tình trạng khó thở (p=0,015), và cải
thiện chất lượng cuộc sống (p=0,026) (Hình 3).
Về hiệu quả lâu dài của iloprost, nghiên cứu AIR-2

(Error! Reference source not found.)
tiến hành
trên 63 bệnh nhân có NYHA II – IV điều trị khí dung iloprost trong 2 năm. Nghiên
cứu xác nhận độ an toàn trong chỉ định và cải thiện khả năng vận động của iloprost.
Tuy nhiên, kết quả quan trọng của nghiên cứu này lại nằm ở chỗ iloprost có thể cải
thiện khả năng sống còn lâu dài cho bệnh nhân. Khả năng sống còn của các bệnh
nhân trong nghiên cứu lên đến 91,4% so với tỷ lệ dự đoán là 63,1%.
Cần lưu ý dạng iloprost khí dung chỉ có hiệu quả khi sử dụng với những bộ phun
khí dung nebulizer đạt tiêu chuẩn cho kích cỡ của hạt phun sương là 3,5µm. Có
thể dùng bộ phun khí dung sử dụng sóng siêu âm như Opti-Neb, Co. NEBU-TEC
med. Product hoặc Multisonic, Otto Schill GmbH & Co. KG, Probstzella. Ngày
nay, có 1 số bộ phun khí dung được gắn với máy thở và có thể trigger vào thời kỳ
hít vào của bệnh nhân để đưa thuốc vào đường hô hấp bệnh nhân.
Tóm lại, dựa trên nhiều bằng chứng có được, iloprost dạng khí dung dùng điều trị
tăng áp phổi an toàn, hiệu quả và dung nạp tốt. Một nhược điểm của nó là thời gian
tác dụng tương đối ngắn, cần phải sử dụng 6 – 9 lần/ngày, điều này gây khó khăn ít
nhiều trong điều trị. Hơn nữa, hiệu quả trên huyết động của thuốc giảm sau 30 -90
phút sau khi phun.

Hình 3: Hiệu quả của iloprost khí dung và placebo dựa trên quãng đường đi bộ trong
6 phút
Sildenafil
Sildenafil là chất ức chế men phosphodiesterase-5 có hiệu quả trên huyết động trong
các trường hợp tăng áp phổi. Mới đây, Sildenafil đã được chấp thuận như là 1 trong
những thuốc điều trị tăng áp phổi. Trong 1 mô tả hồi cứu 8 trường hợp bệnh nhân
người lớn được sửa van 2 lá hoặc đặt dụng cụ hỗ trợ thất có tăng áp phổi, người ta
thấy rằng dùng Sildenafil làm giảm đáng kể mPAP và PVR nhưng chỉ làm giảm
huyết áp không đáng kể.
Trên những bệnh nhân ổn định, dùng Sildenafil đơn độc hoặc phối hợp với NO hay
Iloprost đều giúp giảm mPAP và PVR và tăng cung lượng tim. Trên bệnh nhân tăng

áp phổi nguyên phát, Sildenafil cũng giúp cải thiện cung lượng tim rất đáng kể. Thêm
vào đó, có vài tác giả còn cho rằng Sildenafil có thể cải thiện tuần hoàn phổi và tưới
máu cơ tim sau phẫu thuật bắc cầu mạch vành.
Tác giả Trachte
(Error! Reference source not found.)
và cộng sự trong 1 báo cáo mới xuất bản
gần đây đã cho thấy rằng sildenafil có tác dụng dãn mạch phổi rất tốt khi sử dụng
chung với những thuốc dãn mạch phổi khác cho những bệnh nhân tăng áp phổi sau
phẫu thuật tim. Tác giả dùng sildenafil với liều 25 – 50mg cho các bệnh nhân người
lớn đã có sử dụng milrinone, nitroglycerine hoặc sodium nitroprusside truyền tĩnh
mạch và NO nhằm cai các thuốc này. Sau liều đầu tiên sildenafil 25 – 50mg, tác giả
ghi nhận áp lực động mạch phổi trung bình giảm 20% sau 30 phút và 22% sau 60
phút (p<0,05). Sức cản mạch máu phổi PVR giảm 49% sau 30 phút và 44% sau 60
phút (p<0,05). Tác giả còn ghi nhận sildenafil không có ảnh hưởng trên cardiac index
CI, trên huyết áp trung bình MAP và trên sức cản mạch máu hệ thống SVR. Sildenafil
không những có tác dụng dãn mạch phổi mà nó còn giúp cai dần các thuốc dãn mạch
phổi khác dùng qua đường hô hấp hoặc truyền tĩnh mạch như NO, iloprost…
Ngoài ra, còn nhiều tác giả như Bentlin MR
(Error! Reference source not found.)
, Nemoto S
(Error!
Reference source not found.)
… cũng có những báo cáo về việc sử dụng thành công sildenafil
để điều trị tăng áp phổi sau mổ.
KẾT LUẬN
Điều trị tăng áp động mạch phổi hiện vẫn còn là 1 thử thách cho các nhà lâm sàng
trong ICU. Để có được 1 phương cách điều trị thích hợp, chúng ta cần phải kiểm soát
thông khí thật tốt, xác định rõ nguyên nhân gây tăng áp phổi và xử trí các nguyên
nhân này nếu có thể được. Trong các thuốc dãn mạch phổi chọn lọc, NO đã được sử
dụng từ lâu và có hiệu quả tốt. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện tại ở Việt Nam, chúng

tôi nhận thấy chỉ có 3 loại thuốc khả dĩ có thể sử dụng tốt cho các bệnh nhân tăng áp
phổi, nhất là cho các bệnh nhân hậu phẫu tim, đó là: Milrinone, Iloprost và Sildenafil.
Trong đó, iloprost cả dạng truyền tĩnh mạch và dạng phun khí dung đều chứng tỏ có
hiệu quả trong điều trị tăng áp phổi sau mổ. Việc phối hợp các thuốc này đúng cách
trong lâm sàng sẽ mang lại hiệu quả khá tốt, trong điều kiện hiện tại.

×