Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

LÀM DÍNH MÀNG PHỔI BẰNG TALC pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.57 KB, 22 trang )

LÀM DÍNH MÀNG PHỔI BẰNG TALC

TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá vai trò điều trị hỗ trợ của làm dính màng phổi bằng talc
qua ống dẫn lưu màng phổi trong điều trị tràn khí màng phổi tự phát thứ phát
(TKMPTPTP).
Phương pháp nghiên cứu: Thực nghiệm can thiệp điều trị lâm sàng.
Kết quả: từ 01/2002 đến 12/2006, có 123 trường hợp TKMPTPTP (gồm
109 nam giới, 14 nữ giới). Tỉ lệ mắc bệnh nam:nữ là 7,79:1. Phần lớn xảy ra
ở lứa tuổi trên 40 tuổi (95,12%). Tuổi trung bình là 62,3 (từ 21 – 85 tuổi).
TKMPTPTP tái phát gặp nhiều hơn TKMPTPTP lần đầu tiên nhưng không
đáp ứng với đặt ODLMP (thời gian đặt ODLMP kéo dài quá 7 – 10 ngày)
(76,42% so với 23,58%). Tỉ lệ thành công của LDMP bằng talc qua ODLMP
(tính đến thời điểm xuất viện) là 93,5% với thời gian trung bình lưu ODLMP
là 3,89 ngày (giới hạn từ 1 – 21 ngày). Ba biến chứng sớm là đau ngực
(53,66%), sốt (26,02%) (xảy ra ngay trong vòng 4 giờ đầu tiên) và ho khan
(28,46%) (xảy ra trong khoảng 4 – 12 giờ sau bơm talc màng phổi). Ngoài
ra, có 3 trường hợp mủ màng phổi nhưng đáp ứng tốt với điều trị kháng sinh.
Sau thời gian theo dõi từ 1 – 4 năm, tỉ lệ TKMP tái phát là 8,82% và biến
chứng muộn là đau ngực nhẹ (44,12%) (chỉ xảy ra khi gắng sức nhưng
không ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động hàng ngày). Không trường hợp tử
vong nào có liên quan đến nguyên nhân gây ra do talc. Đồng thời, không có
xảy ra những biến chứng trầm trọng (suy hô hấp cấp, tụt huyết áp,…) trong
thời gian theo dõi sau LDMP bằng talc.
Kết luận: Làm dày dính màng phổi bằng talc qua ODLMP có hiệu quả và
an toàn trong điều trị TKMPTPTP.
ABSTRACT
Objective: to evaluate the role of adjunctive treatment of pleurodesis by talc
through chest drainage tube in the treatment of secondary spontaneous
pneumothorax (SSP).
Method: Clinical experimental study


Result: From 01/2002 to 12/2006, there were 123 cases of SSP (included
109 male and 14 female patients). The incidence ratio of male:femal was
7.79:1. Most of them occurred in age group over 40 (95.12%). The average
age was 62.3 (range, 21 to 85). Recurrent SSP occurred more than first SSP
(which didn’t response with chest drainage; time for chest drainage lasted
over 7 – 10 days) (76.42% versus 23.58%). Rate of success of talc
pleurodesis at discharged time was 93.5%, with an average duration of
drainage chest tube was 3,89 days (range, 1 to 21). Three early complicated
signs were chest pain (53.66%), fever (26.02%) in the first four- hour time
and cough (28.46%) in a 4 – 12 hour time after talc pleurodesis. Besides,
there were 3 cases of empyema but they had good responses to antibiotic
therapies. After monitoring in 1-4 year period, rate of recurrent
pneumothorax was 8.82% and lately complication was light chest pain
(44.12%)(only occurred after excessive actions but they didn’t influence
patient’s activities significantly). The causes of death were unrelated to the
pleurodesis. Simultaneously, we haven’t detected orther severe
complications (acute respiratory failure, hypotension,…) in the follow-up
after talc pleurodesis.
Conclusion: Pleurodesis by talc through chest drainage tube was high
effective and safe in the treatment of SSP.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tràn khí màng phổi tự phát thứ phát (TKMPTPTP) là tình trạng tràn khí
màng phổi (TKMP) xảy ra xảy ra do nguyên nhân bệnh lý ở phổi (bệnh phổi
tắc nghẽn mãn tính (BPTNMT), xơ mô kẽ phổi, ung thư phổi, lao phổi, viêm
phổi,…). TKMPTPTP biến chứng bao gồm những trường hợp TKMPTPTP
tái phát và những trường hợp TKMPTPTP lần đầu tiên nhưng không đáp
ứng với điều trị đặt ống dẫn lưu màng phổi (ODLMP) (thời gian đặt ống dẫn
lưu kéo dài quá 7 – 10 ngày). TKMPTP tái phát là tình trạng TKMP xuất
hiện trở lại sau lần TKMP đầu tiên và tỉ lệ tái phát ở những lần tiếp theo sẽ
cao hơn rất nhiều lần. Theo y văn, tỉ lệ tái phát của TKMPTPTP còn khá cao

(43%)
(2,3,5,10)
. Đồng thời, đã có nhiều phương pháp điều trị hỗ trợ nhằm ngăn
ngừa tình trạng TKMP tái phát như làm dày dính màng phổi (LDMP) bằng
hóa chất, bằng nội soi lồng ngực (NSLN) hoặc bằng phẫu thuật như cắt
màng phổi từng phần hay toàn bộ hoặc làm trầy xước màng phổi chủ động…
Trong đó, phương pháp LDMP bằng talc đã được ứng dụng ở nhiều nước
như Mỹ, Anh và các nơi khác trên thế giới
(1,2,3,5,8,10)
. Tại Việt nam, chưa có
nghiên cứu LDMP bằng talc qua ODLMP trong điều trị TKMPTPTP. Chính
vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh giá vai trò điều trị hỗ trợ của
phương pháp LDMP bằng talc được bơm qua ODLMP trong điều trị
TKMPTPTP.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các bệnh nhân TKMPTPTP tái phát và những trường hợp
TKMPTPTP lần đầu tiên nhưng không đáp ứng với điều trị đặt ống dẫn lưu
màng phổi (ODLMP) (thời gian đặt ống dẫn lưu kéo dài quá 7 – 10 ngày) sẽ
được bơm dung dịch talc qua ODLMP để LDMP từ 01/2002 đến 12/2006 tại
bệnh viện Phạm Ngọc Thạch và được theo dõi tiếp về hiệu quả điều trị, biến
chứng và tỉ lệ tái phát trong vòng từ 1 đến 4 năm theo kiểu cuốn chiếu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có tiền sử hoặc đang mắc các bệnh lý nặng sau: nhồi máu cơ tim, rối
loạn nhịp tim; suy thận, suy gan cấp và mạn; rối loạn thăng bằng kiềm toan; rối
loạn đông máu; nhiễm HIV/AIDS; tiền sử dị ứng với thuốc tê, hóa chất…
Loại hình nghiên cứu
Thực nghiệm điều trị can thiệp lâm sàng
Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Chuẩn bị bệnh nhân và dung dịch talc trước khi tiến hành bơm vào

khoang màng phổi
- Tất cả bệnh nhân đều đã được đặt ODLMP để giải thoát hết khí trong
khoang màng phổi (KMP) và có đủ điều kiện trước khi được điều trị LDMP
bằng talc như cải thiện triệu chứng lâm sàng (hết đau ngực, hết khó thở) và
hết TKMP trên X-quang phổi thẳng.
- Giải thích cho bệnh nhân rõ ràng về tình trạng bệnh và phương pháp điều trị. Đo
dấu hiệu sinh tồn. Chụp X-quang phổi thẳng kiểm tra và lấy khí máu động mạch.
Tiền mê (tiêm dưới da 0,25 – 0,5 mg Atropin; và uống 5 – 10 mg Diazepam) 30
phút trước khi thực hiện thủ thuật.
- Bột talc được sử dụng có nguồn gốc sản xuất từ Pháp có độ tinh khiết cao, không
chứa amiăng, được dùng trong ngành y tế. Liều bột talc dùng để LDMP là 2g,
được tiệt trùng ở nhiệt độ cao 136
0
C trong 6 – 8 giờ. Sau đó, pha loãng bột talc với
50 ml nước muối sinh lý thành dung dịch talc, được đựng trong ống tiêm loại 50
ml, và được lắc cho thật đều trước khi bơm vào KMP.
Các bước tiến hành bơm dung dịch talc vào khoang màng phổi:
- Sau khi nhu mô phổi nở hoàn toàn, bệnh nhân được bơm 100 mg
lidocaine2% qua ODLMP.
- 15 phút sau, bơm từ từ 50 ml dung dịch talc qua ODL vào KMP. Kẹp ODL
khoảng 1 – 2 giờ, chỉ dẫn bệnh nhân xoay đổi tư thế mỗi 15 phút để dung
dịch talc tráng đều khắp bề mặt màng phổi. Sau đó mở ODLMP trong 24
giờ.
Các bước theo dõi sau bơm dung dịch talc LDMP
- Ghi nhận các dấu hiệu của biến chứng sớm (sốt, đau ngực, ho, khó thở…).
Theo dõi dấu hiệu sinh tồn ngay sau khi thực hiện thủ thuật và tại các thời
điểm 4 giờ, 12 giờ, 24 giờ, 48 giờ, 72 giờ và trên 72 giờ (nếu thấy cần).
Đồng thời xử trí kịp thời các biến chứng sớm xảy ra (nếu có).
- Theo dõi tình trạng hoạt động của ODLMP, chụp X-quang phổi và đo khí máu
kiểm tra 24 giờ sau. Nếu nhu mô phổi nở hoàn toàn, ODLMP ngưng hoạt động thì

rút ODLMP. Tiếp tục theo dõi thêm 24 giờ sau đó, kiểm tra lâm sàng, X-quang
phổi, nếu tiến triển thuận lợi thì cho bệnh nhân xuất viện. Nếu sau 48-72 giờ sau
LDMP bằng talc lần thứ nhất, mà ODLMP vẫn còn hoạt động, thì tiến hành
LDMP lần thứ hai, nếu vẫn thất bại thì chuyển sang phương pháp khác.
- Nếu 7 – 14 ngày sau khi LDMP bằng talc, ODLMP vẫn còn thoát khí thì
xem như phương pháp này thất bại cần chuyển sang dùng phương pháp điều
trị khác. Tuy nhiên, kéo dài thời gian lưu ODLMP sau bơm talc còn tùy
thuộc vào tổng trạng bệnh nhân.
- Sau khi xuất viện, tất cả bệnh nhân đều được theo dõi định kỳ sau mỗi 1
tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm, 3 năm, và 4 năm qua tái khám sức
khỏe định kỳ, hoặc qua liên lạc thư từ, điện thoại (trong trường hợp bệnh
nhân không tái khám định kỳ) được nhằm đánh giá hiệu quả điều trị, biến
chứng và tỉ lệ tái phát trong vòng từ 1 cho đến 4 năm theo kiểu cuốn chiếu.
Thống kê và xử lý số liệu
Dùng phần mềm EXCEL 2006, STATA version 6.0 để nhập, quản lý và xử
lý số liệu. Các biến số được phân tích bằng các test thống kê thích hợp, giá
trị P < 0,05 được đánh giá là có ý nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 01/2002 đến 12/2006, chúng tôi thu
nhận 123 trường hợp TKMPTPTP nhập viện và thỏa điều kiện điều trị bơm
dung dịch talc làm dính màng phổi qua ODLMP. Trong đó, 94 trường hợp
(76,42%) là TKMPTPTP tái phát và 29 trường hợp (23,58%) là TKMPTPTP
lần đầu tiên nhưng không đáp ứng với điều trị đặt ODLMP (thời gian đặt
ODLMP kéo dài quá 7 – 10 ngày).
Đặc điểm dịch tễ học
Trong 123 trường hợp TKMPTPTP, có 109 trường hợp (88,62%) là nam
giới, 14 trường hợp (11,38%) là nữ giới. Tỉ lệ mắc bệnh nam:nữ là 7,79:1.
Tuổi trung bình là 62,3. Tuổi lớn nhất là 85 và tuổi nhỏ nhất là 21. Có 117
trường hợp (95,12%) trên 40 tuổi, trong đó 67 trường hợp (54,47%) trên 60
tuổi.

Bảng 1: Thói quen hút thuốc lá
Thói quen hút thuốc n (%)

Không hút thuốc lá 5 (4,07%)
từ 1-10 gói/năm 11 (8,94%)
từ 10-20 gói/năm 14
(11,38%)
>20 gói/năm 93
(75,61%)
Phần lớn bệnh nhân hút thuốc lá (118 trường hợp; 95,93%).
Bảng 2: Nguyên nhân gây TKMPTPTP
Nguyên nhân n (%)
BPTNMT 41
(33,33%)
BPTNMT/ Lao phổi

53
(43,09%)
Lao phổi cũ 20
(16,26%)
Bệnh bụi phổi 2 (1,63%)
Lao phổi mới 5 (4,06%)
Ung thư phổi 2 (1,63%)
Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng trước khi LDMP bằng talc
Hoàn cảnh xuất hiện TKMP
Có 78 trường hợp (63,41%) xuất hiện TKMP sau một hoạt động gắng sức
(trong công việc, trong thể thao, hoặc trong lúc đại tiện) và 45 trường hợp
(36,59%) không rõ hoàn cảnh xuất hiện TKMP. Đồng thời, có 68 trường hợp
(55,28%) có thời gian khởi bệnh ngắn < 3 ngày, và 18 trường hợp (14,63%)
kéo dài > 7 ngày.

Triệu chứng lâm sàng và X-quang phổi lúc nhập viện
Phần lớn bệnh nhân nhập viện vì khó thở (100%); đau ngực (112 trường
hợp; 91,06 %); ho khan (33 trường hợp; 26,83 %) và ho khạc đàm (85
trường hợp; 69,11%). Ngoài ra, có 54 trường hợp (43,9 %) sốt; 6 trường hợp
(4,88 %) ho khạc đàm máu và 71 trường hợp (57,72 %) khám phổi nghe
được ran ngáy, ran rít. Tất cả các trường hợp đều được chẩn đoán xác định
TKMP bằng chụp X-quang phổi thẳng qui ước.
Bảng 3: Hình ảnh trên X-quang phổi
Dạng tổn thương n (%)
Tràn khí màng phổi 123 (100 %)
Xẹp phổi 123 (100 %)
Xơ mô kẽ phổi 116 (94,31%)
Khí phế thũng 98 (79,67%)
Xơ hang 23 (18,7%)
Hình nốt vôi hóa 62 (50,41%)
Thâm nhiễm 24 (19,51%)
Khối u 2 (1,63%)
Bảng 4: Vị trí và mức độ TKMP trên X-quang phổi
Vị trí và m
ức
độ TKMP
n (%)
Bên trái 52 (42,28%)

Bên phải 67 (54,47%)

Vị trí TKMP
Hai bên 4 (3,25%)
Lượng ít 21 (17,07%)


Mức độ TKMP

(
theo BTS,
2003)
Lượng
nhiều
102
(82,93%)
* Đa số là TKMP ở một bên (119 trường hợp; 96,75%) và TKMP lượng
nhiều (82,93%).
Kết quả điều trị và biến chứng sớm ngay sau bơm dung dịch talc LDMP
Kết quả điều trị sau LDMP bằng talc
Trong 123 trường hợp TKMPTPTP, có 104 trường hợp thành công trong lần
đầu tiên bơm dung dịch talc qua ODLMP để LDMP và 19 trường hợp còn
lại thất bại phải tiến hành LDMP bằng talc lần thứ hai ngay sau đó. Kết quả
có thêm 11 trường hợp nữa LDMP thành công và 8 trường hợp thất bại phải
chuyển sang điều trị khác. Như vậy, tính cho đến thời điểm xuất viện, tỉ lệ
thành công của phương pháp LDMP bơm dung dịch talc qua ODLMP thành
công là 115 trường hợp (93,5%). Thời gian lưu ODLMP sau LDMP  3
ngày có 89 trường hợp (77,39%) và 26 trường hợp (22,61%) trên 3 ngày.
Thời gian trung bình lưu ODLMP sau bơm talc màng phổi là 3,89 ngày (giới
hạn từ 1 – 21 ngày).
Biến chứng sớm xảy ra ngay sau LDMP bằng talc
- 3 trường hợp (2,44%) biểu hiện sốt đơn thuần xảy ra ngay trong vòng 4 giờ
sau khi bơm talc và đáp ứng tốt với thuốc hạ sốt thông thường dưới 3 ngày.
- 29 trường hợp sốt và đau ngực (23,58%) đều xảy ra ngay trong vòng 4 giờ
sau khi bơm talc. Trong đó, 24/29 trường hợp đáp ứng tốt với thuốc giảm
đau, hạ sốt dưới 3 ngày, chỉ có 5/29 trường hợp kéo dài trong 5 – 7 ngày.
- 37 trường hợp (30,08%) đau ngực đơn thuần đều xảy ra ngay trong vòng 4

giờ sau khi bơm talc. Trong đó, 24/37 trường hợp đáp ứng tốt với thuốc
giảm đau dưới 3 ngày, 9/21 trường hợp kéo dài trong 7 – 14 ngày và 6/21
trường hợp kéo dài trên 14 ngày.
- Ngoài ra, có 7 trường hợp (5,7%) là đau ngực nhiều phải dùng kết hợp
thuốc giảm đau tiêm tĩnh mạch và thuốc an thần (5 – 10 mg diazepam) tiêm
dưới da hoặc tiêm bắp.
- 35 trường hợp (28,46%) xuất hiện ho khan, xảy ra trong khoảng thời gian 4
– 12 giờ sau bơm talc màng phổi và đều đáp ứng tốt với thuốc giảm ho trong
3 ngày.
- 3 trường hợp (2,44%) mủ màng phổi xảy ra ở những bệnh nhân đặt ống
dẫn lưu trên 14 ngày sau bơm talc màng phổi nhưng các trường hợp này đáp
ứng tốt với kháng sinh.
- Không ghi nhận trường hợp nào suy hô hấp cấp, hạ huyết áp, hạ oxy máu,
xảy ra ngay sau LDMP bằng talc.
Tỉ lệ tái phát và biến chứng muộn sau thời gian theo dõi từ 1 – 4 năm
Về tỉ lệ tái phát
Sau bơm dung dịch talc làm dính màng phổi, trong số 115 trường hợp
TKMPTPTP, chỉ có 102 trường hợp (88,7%) được theo dõi tiếp (theo kiểu
cuốn chiếu) trong vòng 1 – 4 năm. Trong 102 trường hợp được theo dõi, có
93 trường hợp (91,18%) không tái phát và 9 trường hợp (8,82%) biểu hiện
TKMP tái phát. Các trường hợp TKMP tái phát này xảy ra ở những bệnh
nhân trên 60 tuổi và hút thuốc lá trên 20 gói/năm.
Về biến chứng muộn
Sau thời gian theo dõi trong vòng 1 – 4 năm, trong 102 trường hợp, đa số là
bệnh nhân BPTNMT và/hoặc có kết hợp với lao phổi cũ xơ hang, thường có
biểu hiện khó thở khi gắng sức nên rất khó đánh giá dấu hiệu khó thở như là
một biến chứng sau bơm talc màng phổi. Chúng tôi chỉ có thể đánh giá dấu
hiệu đau ngực xuất hiện (ở phía bên đã được LDMP bằng talc trước đó) mỗi
khi bệnh nhân gắng sức. Kết quả có 45 trường hợp (44,12%) có biểu hiện
đau ngực chỉ xảy ra khi gắng sức, khi làm việc nặng nhưng không ảnh

hưởng đáng kể đến sinh hoạt và lao động hàng ngày. Triệu chứng này cải
thiện nhanh chóng khi dùng thuốc giảm đau thông thường. Ngoài ra, có 16
trường hợp (15,7%) tử vong được tính cộng dồn trong thời gian theo dõi từ 1
– 4 năm như sau: (bn: bệnh nhân; tr.hợp: trường hợp).
Bảng 5: Tỉ lệ tử vong sau thời gian theo dõi từ 1 – 4 năm
Thời
gian
theo
dõi
Số trường hợp tử vong S
ố tử
vong
cộng
dồn
1 năm Có 3 tr.h
ợp tử vong:
trong đó 2 bn ung thư
giai đoạn cuối v
à 1
tr.hợp 86 tuổi mắc b
ệnh
BPTNMT/lao phổi cũ x
ơ
hang
3
2 năm Có thêm 4 tr.h
ợp tử vong
(g
ồm 2 bn 85 tuổi, 1 bn
81 tuổi, và 1 bn 80 tu

ổi)
đ
ều mắc BPTNMT/lao
phổi cũ
7
Thời
gian
theo
dõi
Số trường hợp tử vong S
ố tử
vong
cộng
dồn
3 năm Có thêm 5 tr.h
ợp tử vong
(g
ồm 1 bn 81 tuổi, 2 bn
80 tuổi, và 2 bn 79 tu
ổi)
đ
ều mắc BPTNMT/lao
phổi cũ
12
4 năm Có thêm 4 tr.h
ợp tử vong
(g
ồm 1 bn 80 tuổi, 2 bn
79 tuổi, và 1 bn 78 tu
ổi)

đ
ều mắc BPTNMT/lao
phổi cũ
16
Đa số các trường hợp này tử vong do bệnh lý phổi cơ bản (ung thư phổi,
BPTNMT và lao phổi cũ xơ hang) và có tuổi thọ cao (trên 78 tuổi). Các
trường hợp tử vong này không liên quan đến làm dính màng phổi bằng talc.
Ngoài ra, chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào biến chứng muộn khác
xảy ra trong suốt thời gian theo dõi 1 – 4 năm sau bơm talc màng phổi.
BÀN LUẬN
Trong 123 trường hợp TKMPTPT, TKMPTPTP tái phát gặp nhiều hơn
TKMPTPTP lần đầu tiên nhưng không đáp ứng với điều trị đặt ODLMP
(thời gian đặt ống dẫn lưu kéo dài quá 7 – 10 ngày) (76,42% so với 23,58%).
Về đặc điểm dịch tễ học
Các trường hợp TKMPTPTP biến chứng xảy ra chủ yếu ở nam nhiều hơn nữ
giới (88,62% so với 11,38%). Tỉ lệ mắc bệnh nam:nữ là 7,79:1. Đồng thời,
TKMPTPTP xảy ra ở lứa tuổi trên 40 tuổi (117 trường hợp, 95,12%). Tuổi
trung bình là 62,3 (từ 21 – 85 tuổi). Phần lớn trường hợp có liên quan hút
thuốc lá (95,93%), trong đó hút thuốc lá trên 20 gói/năm chiếm tỉ lệ nhiều
nhất (75,61%). Điều này cũng phù hợp với trong y văn
(2,3,5)
.
Về nguyên nhân gây TKMPTPTP
Số trường hợp BPTNMT chiếm tỉ lệ nhiều nhất (94 trường hợp; 76,42%).
Theo y văn
(2,5,10)
, 55% – 67% TKMP là biến chứng của BPTNMT. Tỉ lệ
TKMPTP tăng song hành với mức độ nặng của BPTNMT. Ngoài ra, chúng
tôi còn ghi nhận các nguyên nhân khác như lao phổi cũ, lao phổi mới, bệnh
bụi phổi, và ung thư phổi. Điều này cũng được ghi nhận trong y văn

(2,3,5)
.
Về biểu hiện lâm sàng và X-quang phổi
Đa số trường hợp (55,28%) có thời gian khởi bệnh ngắn dưới 3 ngày, và
thường xảy ra sau một hoạt động gắng sức (63,41%), bệnh nhân cảm thấy
đau ngực và/hoặc khó thở đột ngột hoặc tăng dần lên phải đi khám bệnh và
nhập viện. Điều này cũng phù hợp với y văn
(1,2,3,5,9,10)
. Ngoài ra, một số
trường hợp có biểu hiện như sốt (43,9%); ho khan (26,83%) hoặc ho khạc
đàm (69,11%); ho ra máu (4,88 %); và 57,72 % khám phổi nghe được ran
ngáy, ran rít tại thời điểm bệnh nhân nhập viện. Tất cả các trường hợp
TKMPTPTP đều được chẩn đoán xác định TKMP bằng chụp X-quang phổi
thẳng qui ước. Chưa có trường hợp nào phải cần sự hỗ trợ thêm của X-quang
phổi nghiêng. Tuy nhiên, trong y văn
(2,3)
, ghi nhận có gần 14 % trường hợp
TKMPTP cần sự hỗ trợ của X-quang phổi nghiêng để giúp chẩn đoán. Đồng
thời, số trường hợp TKMP lượng nhiều chiếm tỉ lệ nhiều hơn TKMP lượng
ít (82,93% so với 17,07%) và phần lớn là TKMP một bên (96,75%), bên
phải gặp nhiều hơn bên trái (54,47% so với 42,28%). Theo Shiraishi T.
(9)
,
90% TKMPTP thứ phát xảy ra ở bên phải, 5% ở bên trái và 5% ở hai bên.
Về kết quả điều trị ngay sau LDMP bằng talc
Tỉ lệ thành công của phương pháp LDMP bơm dung dịch talc qua ODLMP
thành công là 93,5% (tính cho đến thời điểm xuất viện) và 8 trường hợp
(6,5%) thất bại phải chuyển sang điều trị khác. Thời gian trung bình lưu
ODLMP sau bơm talc màng phổi là 3,89 ngày (giới hạn từ 1 – 21 ngày).
Theo tác giả Tschopp J. M. et al

(10)
, tỉ lệ thành công khoảng 97% (90/93
trường hợp TKMPTP biến chứng được bơm bột talc màng phổi qua nội soi
lồng ngực) và thời gian trung bình lưu ODLMP sau LDMP là 5 ngày (giới
hạn từ 2 – 40 ngày). Theo Sahn S. A.
(8)
, tỉ lệ bơm bột talc màng phổi thành
công 91%. Theo Henry T. et al
(5)
, tỉ lệ thành công là 85% – 92%. Như vậy,
kết quả điều trị của chúng tôi cũng tương tự như các nghiên cứu khác.
Về biến chứng sớm xảy ra ngay sau LDMP bằng talc
Đa số trường hợp các biến chứng sớm xảy ra như đau ngực (66/123 trường
hợp, 53,66%), sốt 32/123 trường hợp; 26,02%) và ho khan (28,46%). Trong
đó, có 29 trường hợp (23,58%) đau ngực và sốt xảy ra cùng lúc. Đa số các
biến chứng đau ngực và sốt đều xảy ra trong vòng 4 giờ sau bơm talc màng
phổi, và đáp ứng tốt với thuốc giảm đau, hạ sốt thông thường trong vòng
dưới 3 – 5 ngày. Cũng tương tự như một số nghiên cứu khác như theo Sahn
S. A.
(8)
, 16 – 69% trường hợp sốt xảy ra trong vòng 4 – 12 giờ sau bơm talc
và kéo dài trong 3 ngày. Ngoài ra, theo các tác giả khác
(2,5,8)
, cho thấy tỉ lệ
đau ngực (từ ít đến nhiều) gây ra sau bơm bột talc màng phổi khoảng 7%
(9/131 trường hợp) thấp hơn rất nhiều khi so sánh với tỉ lệ đau ngực gây ra
do Bleomycin là 28% (56/199 trường hợp) và Doxycycline là 40% (24/60
trường hợp), chủ yếu là đau ngực nhiều. Mặt khác, chúng tôi ghi nhận có 3
trường hợp (2,44%) mủ màng phổi xảy ra ở những bệnh nhân đặt ODLMP
trên 14 ngày sau LDMP nhưng các trường hợp này đáp ứng tốt với kháng

sinh. Theo Berk J.L.
(2)
: ghi nhận có dưới 3 % trường hợp mủ màng phổi.
Ngoài ra, các biến chứng khác cũng được ghi nhận trong y văn như Light
R.W.
(6)
ghi nhận 7/29 trường hợp hạ oxy máu và tụt huyết áp xảy ra sau
bơm bột talc màng phổi; Rehse D. H. et al
(7)
, có 33% suy hô hấp hoặc tử
vong trong tổng số 78 bệnh nhân được bơm talc màng phổi. Tuy nhiên, cơ
chế suy hô hấp cấp xảy ra sau bơm talc màng phổi thì chưa được biết rõ và
có nhiều nguyên nhân đưa đến suy hô hấp cấp xảy ra sau bơm bột talc
(1,5,8)
.
Trong khi, chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào có suy hô hấp cấp, hạ
huyết áp, hạ oxy máu,… xảy ra sau LDMP bằng talc.
Về tỉ lệ tái phát sau thời gian theo dõi 1 – 4 năm
Chỉ có 102 trường hợp (88,7%), được theo dõi tiếp (theo kiểu cuốn chiếu)
trong vòng 1 – 4 năm, chúng tôi ghi nhận có 9/102 trường hợp (8,82%) biểu
hiện TKMP tái phát. Các trường hợp tái phát này đều xảy ra ở những bệnh
nhân trên 60 tuổi và hút thuốc lá trên 20 gói/năm. Theo y văn, chúng tôi chỉ
ghi nhận được tỉ lệ tái phát của TKMPTPTP nói chung còn khá cao 43%.
Theo Gyưrik S. et al
(4)
, sau thời gian theo dõi trung bình 118 tháng, có 3
trường hợp (5%) TKMP tái phát trong số 56 trường hợp TKMPTP nguyên
phát được LDMP bằng talc qua NSLN. Ngoài ra, khi so sánh với một số
phương pháp LDMP khác cho kết quả TKMP tái phát khác nhau, như
Bauman M.H. et al

(1)
và Berk
(2)
, tỉ lệ tái phát TKMP sau LDMP bằng
tetracycline là 25 – 28 %. Theo Henry T. et al
(5)
, ghi nhận tỉ lệ TKMP tái
phát sau cắt màng phổi là 0,4% (n=752); sau làm trầy xước màng phổi chủ
động (n=301)là 2,3% và tỉ lệ TKMP tái phát sau phẫu thuật NSLN (VATS)
là 5 – 10%.
Về biến chứng muộn xảy ra trong thời gian theo dõi từ 1 – 4 năm
Trong 102 trường hợp được theo dõi tiếp, đa số các trường hợp có bệnh cơ
bản là BPTNMT, trong đó biểu hiện khó thở khi gắng sức là chủ yếu, nên rất
khó đánh giá dấu hiệu khó thở như là một biến chứng sau LDMP bằng talc.
Chúng tôi chỉ có thể đánh giá dấu hiệu đau ngực xuất hiện (ở phía bên đã
được LDMP bằng talc trước đó) mỗi khi bệnh nhân gắng sức. Kết quả có 45
trường hợp (44,12%) có biểu hiện đau ngực chỉ xảy ra khi gắng sức, khi làm
việc nặng nhưng không ảnh hưởng đáng kể đến sinh hoạt và lao động hàng
ngày. Triệu chứng này đều cải thiện nhanh chóng khi dùng thuốc giảm đau
thông thường. Ngoài ra, chúng tôi ghi nhận 16 trường hợp (15,7%) tử vong
cộng dồn trong thời gian theo dõi từ 1 – 4 năm. Đa số các trường hợp này tử
vong do bệnh lý phổi cơ bản (ung thư phổi, BPTNMT và lao phổi cũ xơ
hang) và do tuổi thọ cao (trên 78 tuổi) là chủ yếu. Nguyên nhân gây tử vong
không liên quan đến LDMP bằng talc. Theo y văn
(1,2,3,4,5)
, tỉ lệ tử vong do
TKMPTP là 15% – 20% ở bệnh nhân BPTNMT và TKMPTP xảy ra trên
bệnh nhân BPTNMT được xem là tiên lượng xấu. Mặt khác, chúng tôi
không ghi nhận trường hợp nào biến chứng muộn khác xảy ra trong suốt thời
gian theo dõi 1 – 4 năm sau LDMP bằng talc.

KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy tỉ lệ thành công cao của
LDMP bằng talc bơm qua ODLMP (tính cho đến thời điểm xuất viện) là
93,5% với thời gian trung bình lưu ODLMP sau LDMP là 3,89 ngày (giới
hạn từ 1 – 21 ngày). Các biến chứng sau LDMP bằng talc thường nhẹ và đáp
ứng tốt với thuốc giảm đau, hạ sốt và giảm ho thông thường. Chỉ có 3 trường
hợp mủ màng phổi nhưng đáp ứng tốt với kháng sinh. Không trường hợp tử
vong nào có liên quan đến nguyên nhân gây ra do talc. Đồng thời, chúng tôi
không ghi nhận xảy ra những biến chứng trầm trọng trong thời gian theo dõi
sau LDMP bằng talc. Cùng với nhiều nghiên cứu khác, nghiên cứu của
chúng tôi đã chứng tỏ phương pháp LDMP bằng talc dễ thực hiện, đơn giản,
đạt hiệu quả cao và an toàn.

×